Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất theo pháp luậ...

Tài liệu Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất theo pháp luật việt nam hiện nay

.DOC
83
9
54

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ VĂN DƯƠNG TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, thông tin, trích dẫn được sử dụng trong Luận văn này hoàn toàn chính xác, trung thực, tin cậy; kết quả có được là do quá trình học tập, nghiên cứu của bản thân và sự giup đơ, hướng dẫn tận tình của Giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Cương. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Vũ Văn Dương MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA VÀ TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT.....................................................................................6 1.1. Lý luận cơ bản về chất lượng sản phẩm, hàng hóa................................7 1.2. Lý luận cơ bản về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất......................................................................................... 15 1.3. Pháp luật của một số quốc gia về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất............................................................... 22 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY...........28 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất............................................................... 28 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất............................................................... 48 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HÓA CỦA NHÀ SẢN XUẤT......................................................................... 62 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện quy định về trách nhiệm sản phẩm của nhà sản xuất trong bối cảnh hiện nay....................................................................... 62 3.2. Những kiến nghị nhằm nâng cao, hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà sản xuất ở Việt Nam hiện nay....................63 3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ở Việt Nam hiện nay .................................................................................................................... 71 KẾT LUẬN...................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 78 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng với quan điểm phát triển nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, trong hơn ba thập kỷ qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nền kinh tế phát triển mạnh với sự đa dạng của các hình thức sở hữu; sản phẩm, hàng hóa trong nước sản xuất đã có sự phát triển vượt bậc về lượng và thay đổi quan trọng về chất. Sản phẩm, hàng hóa do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ngày càng phong phu, đa dạng về chủng loại và cấp độ sản phẩm, chất lượng không ngừng được nâng cao, đáp ưng ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng đa dạng và phong phu của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm, hàng hoá không những là thước đo quan trọng khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chất lượng sản phẩm, hàng hoá liên quan trực tiếp đến sự an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người, tài sản và môi trường. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, các nước cũng cần ngăn cản các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia. Để nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tương xứng với vai trò quan trọng của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007; Luật An toàn thực phẩm năm 2010 và Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Bộ luật Dân sự năm 2015. Đây là các đạo luật 1 điều chỉnh về chất lượng sản phẩm, hàng hoá với phạm vi điều chỉnh tương đối đầy đủ, hệ thống phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Tuy nhiên, tình trạng hàng hóa, đặc biệt là thực phẩm không bảo đảm chất lượng còn phổ biến và rất khó kiểm soát, gây thiệt hại không nhỏ cho người tiêu dùng, nhà sản xuất và nhà nước. Điều này còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của người tiêu dùng và sự phát triển bền vững của nền kinh tế cũng như uy tín của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Những năm gần đây, pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá nước ta ngày càng được hoàn thiện nhằm phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, các quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa vẫn còn có sự chồng chéo, mâu thuẫn, chưa thực sự đồng bộ, nhiều nội dung chưa được điều chỉnh kịp thời, phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu cơ sở lý luận và các quy định pháp luật về “Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Kể từ khi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa được ban hành và có hiệu lực đến nay, đã hơn 12 năm thực hiện nhưng sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong giới luật học và giới kinh doanh cũng chưa nhiều. Đã có một vài công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài như: - Ngô Thị Út Quyên (2012) Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật 2 học Khoa Luật - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; - Chu Đức Nhuận (2012) Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội; - Trần Thanh Thất (2014) Trách nhiệm của nhà sản xuất đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học Xã hội; - Lê Thị Hải Ngọc (2017) Trách nhiệm của nhà sản xuất, cung ứng trong việc cung cấp thông tin về chất lượng hàng hóa cho người tiêu dùng, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội. Các đề tài đã đề cập đến các khía cạnh nhất định của trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tuy nhiên dư địa nghiên cứu về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn còn. Đề tài mà tác giả nghiên cứu sẽ tập trung nghiên cứu pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất hiện nay ở Việt Nam theo hướng làm rõ lý luận và quy định của nhà nước, những điểm mới, tiến bộ của các luật có liên quan đến như Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Đây là các đạo luật chuyên ngành về chất lượng sản phẩm, hàng hoá với phạm vi điều chỉnh tương đối đầy đủ, hệ thống về quy định của pháp luật đối với sản phẩm, hàng hóa. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất lượng của sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam hiện nay, học viên đề xuất các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật có liên quan, nhằm góp phần đảm bảo an toàn pháp lý trong hoạt động của nhà sản xuất đối với sản phẩm, hàng 3 hóa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Về đối tượng: Những quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất và thực tiễn thi hành. - Về phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đồng thời có so sánh, đối chiếu với quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. + Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hóa từ năm 2006 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng. - Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm: + Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của luận văn để phân tích các khái niệm, phân tích quy định của pháp luật, phân tích các số liệu... + Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong luận văn để so sánh một số quy định của pháp luật trong các văn bản khác nhau. + Phương pháp diễn giải: Được sử dụng trong luận văn để diễn giải các 4 số liệu, các nội dung trích dẫn liên quan và được sử dụng tất cả các chương của luận văn. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác trong đó có phương pháp thống kê... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Luận văn góp phần củng cố cơ sở khoa học trong quá trình hoàn thiện pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ở Việt Nam; - Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo giup chính quyền và các cơ quan ban ngành nghiên cứu hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất ở Việt Nam trong gian đoạn tới. 7. Kết cấu của luận văn Nội dung của luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm, hàng hóa và trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất Chương 2: Thực trạng quy định và thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất tại Việt Nam hiện nay Chương 3: Giải pháp nâng cao và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất 5 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA VÀ TRÁCH NHIỆM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA CỦA 6 NHÀ SẢN XUẤT 1.1. Lý luận cơ bản về chất lượng sản phẩm, hàng hóa 1.1.1. Khái niệm sản phẩm, hàng hóa Trước khi đi vào phân tích các khái niệm chất lượng, chất lượng sản phẩm, hàng hóa chung ta cần tìm hiểu và phân biệt khái niệm sản phẩm và khái niệm hàng hóa. Theo định nghĩa sản phẩm là bất kỳ thứ gì có thể đưa ra thị trường để thu hut sự chu ý, được mua về, sử dụng hay tiêu dùng mà có thể thoả mãn mong muốn hay nhu cầu. Sản phẩm không chỉ là những hàng hoá hữu hình. Theo định nghĩa khái quát, sản phẩm bao gồm các đối tượng vật chất, các dịch vụ, các sự kiện, địa phương, tổ chức, ý tưởng, và tổ hợp của các thực thể này. Như vậy, trong toàn bộ luận văn này, chung ta sử dụng thuật ngữ sản phẩm một cách khái quát để bao gồm bất kỳ hay toàn bộ những thực thể này. Thuật ngữ sản phẩm được hiểu là cả hàng hoá lẫn dịch vụ. Sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể đem chào bán để thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn. Ý nghĩa quan trọng của sản phẩm vật chất bắt nguồn không phải từ việc sở hữu chung, mà chính là từ việc có được những dịch vụ mà chung đem lại. Người tiêu dùng mua một chiếc xe không phải để ngắm nhìn nó mà vì nó cung ứng khả năng vận chuyển. Người tiêu dùng mua một cái bếp không phải để chiêm ngương mà vì nó là phương tiện không thể thiếu để thực hiện hoạt động nấu nướng. Vì vậy, các sản phẩm vật chất thực sự là những phương tiện đảm bảo phục vụ con người. Theo Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000 thì “sản phẩm” là kết quả của một quá trình, trong đó: - Quá trình là tập hợp các hoạt động có liên quan lẫn nhau hoặc tương 7 tác (với nhau) để biến đổi đầu vào (input) thành đầu ra (output). Như vậy, các đầu vào của một quá trình thường là đầu ra của các quá trình khác. Có 4 chủng loại sản phẩm phổ biến nhất, đó là: - Dịch vụ - service (ví dụ: vận chuyển); - Phần mềm - softwave (ví dụ: chương trình máy tính, từ điển); - Phần cứng - hardware (ví dụ: động cơ, các chi tiết cơ khí); - Vật liệu chế biến - processed material (ví dụ: dầu mơ bôi trơn). Nhiều sản phẩm được cấu thành bởi các chủng loại sản phẩm khác nhau. Ví dụ: một sản phẩm ô tô được chào bán bao gồm cả sản phẩm phần cứng (săm lốp), vật liệu chế biến (nhiên liệu, chất lỏng làm mát máy), phần mềm (phần mềm kiểm soát động cơ, sổ tay hướng dẫn lái xe) và dịch vụ (các giải thích hướng dẫn vận hành do người bán hàng thực hiện). Trong những trường hợp như vậy, tên gọi của sản phẩm phải căn cứ vào thành phần chủng loại sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất. Dịch vụ và phần mềm thường không hữu tình. Trong khi đó, sản phẩm phần cứng (hardware) và vật liệu chế biến (processed meterial) thường là hữu hình và thường được gọi là hàng hoá (goods). Như vậy, khái niệm sản phẩm của Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000 là khái niệm rộng bao trùm cả “hàng hoá”. Khái niệm này không dựa trên tính chất trao đổi (mua bán) để định nghĩa mà dựa trên chu trình sống của sản phẩm qua từng giai đoạn và bản chất của các chủng loại sản phẩm. Nếu dựa trên tính chất mua bán để phân biệt giữa sản phẩm và hàng hoá thì toàn bộ chu trình sống của sản phẩm (từ luc hình thành cho đến luc hết khả năng sử dụng) bao gồm các giai đoạn sau: 1 2 3 4 5 6 7 Ý tưởng Triển Sản xuất Sản xuất Lưu thông Sử dụng Kết thuc - thiết bị khai thử hàng trên thị trường sử dụng 8 Như vậy, sản phẩm trở thành hàng hoá thực chất ở giai đoạn lưu thông sản phẩm trên thị trường. Đồng thời, chất lượng của sản phẩm không sinh ra trong khâu lưu thông trên thị trường. Chất lượng của nó được hình thành trong giai đoạn từ 1 đến 4, tức là từ khâu thiết kế cho đến kết thuc quá trình sản xuất. Trong giai đoạn lưu thông, chất lượng của sản phẩm hay như ta gọi là chất lượng của “hàng hoá” phải được duy trì để không bị suy giảm trước khi đến tay người tiêu dùng. Việc duy trì này được thực hiện bằng các biện pháp như vận chuyển, bảo quản thích hợp và thường được quy định trong tiêu chuẩn của sản phẩm. Tiêu chuẩn này thường do người sản xuất quy định. Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 thì: + Sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng. + Hàng hoá là sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp thị. Như vậy thông qua các khái niệm và quy định trên có thể hiểu sản phẩm là kết quả của hoạt động, quá trình; hàng hóa là sản phẩm được đưa vào tiêu dùng, thị trường thông qua trao đổi, mua bán. Không thể có hàng hóa khi sản phẩm được làm hoặc sản xuất chỉ nhằm mục đích tiêu dùng cá nhân, không mang ra trao đổi, mua bán. 1.1.2. Khái niệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa Trong đời sống hàng ngày, chung ta thường xuyên tiếp cận và nói nhiều các thuật ngữ "chất lượng", "chất lượng sản phẩm", "chất lượng cao"... Mỗi quan niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau nhằm thuc đẩy khoa học quản lý chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Theo quan điểm của triết học Mác thì chất lượng là mức độ, thước đo biểu 9 hiện giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm và nó chính là chất lượng sản phẩm. Theo Giáo sư Ishikawa chuyên gia về chất lượng của Nhật Bản cho rằng: “Chất lượng là sự thõa mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất” [10]. Theo Philip B. Crosby: “Chất lượng là tính phù hợp với các yêu cầu” [13]. Theo A.W. Feigenbaum: “Chất lượng là những đặc điểm tổng hợp và phức hợp của sản phẩm và dịch vụ về các mặt: marketing, kỹ thuật, chế tạo và bảo dương mà thông qua đó khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm đáp ứng được điều mong đợi của khách hàng” [7]. Từ khi tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đưa ra định nghĩa chất lượng tại ISO 9000 thì các cuộc tranh cãi lắng xuống và nhiều nước chấp nhận định nghĩa này: "Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu" [24]. Qua các định nghĩa trên, có thể nêu ra 3 điểm cơ bản về chất lượng sản phẩm, hàng hoá sau đây: + Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm. + Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục. + Chất lượng sản phẩm phải được sử dụng trong tiêu dùng và cần xem xét sản phẩm thoả mãn tới mức nào của người tiêu dùng. Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho con người, động thực vật, tài sản, môi trường. Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá là đặc tính của sản phẩm, hàng hóa thể hiện ở cấu tạo, thành phần hóa học, vật lý, độ bền, độ tin cậy, tính tiện dụng, tính thẩm mỹ và tính an toàn. Theo định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá, chất lượng sản phẩm, hàng hoá 10 là tổng thể các chỉ tiêu, các đặc trưng của sản phẩm, thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong các điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm. Như vậy, theo định nghĩa này, chất lượng sản phẩm, hàng hoá bao gồm nhiều chỉ tiêu, trong đó an toàn chỉ là một trong các chỉ tiêu của sản phẩm, hàng hoá. Ở nước ta, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quan niệm hẹp hơn, chỉ là các yêu cầu về an toàn mà sản phẩm, hàng hoá phải đáp ứng. Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007 định nghĩa chất lượng sản phẩm, hàng hoá “là mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hoá đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”. Như vậy, theo pháp luật hiện hành, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được hiểu là chất lượng về mặt an toàn của sản phẩm, hàng hoá đối với người tiêu dùng nên thực chất Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là luật về bảo đảm an toàn của sản phẩm, hàng hóa. Sản phẩm, hàng hoá và chất lượng sản phẩm, hàng hoá cơ bản do yếu tố con người, công nghệ và nguyên liệu đầu vào quyết định nhưng với mục tiêu bảo đảm an toàn nên luật chỉ điều chỉnh các quan hệ để bảo đảm an toàn của sản phẩm, hàng hoá từ khâu sản xuất, đưa ra lưu thông trên thị trường đến bảo đảm an toàn trong quá trình sử dụng của người tiêu dùng. Người sử dụng phải sử dụng, vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, bảo trì, bảo dương hàng hoá theo hướng dẫn của người sản xuất để bảo đảm an toàn cho chính người đó và cho xã hội khi sử dụng hàng hoá đã được phép lưu thông. Đối với những sản phẩm, hàng hoá có nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng như thang máy, xe ô tô, máy bay, nhà nước tổ chức thực hiện kiểm định định kỳ và chỉ được tiếp tục sử dụng nếu có chứng nhận an toàn của cơ quan kiểm định. 1.1.3. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm, hàng hóa Chất lượng sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố, vì vậy, nó sẽ có 11 rất nhiều đặc điểm khác nhau. Dưới đây là một vài đặc điểm chung nhất của 12 chất lượng sản phẩm, hàng hóa: Thứ nhất: Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp các yếu tố kinh tế, xã hội, kĩ thuật, vì vậy, nó được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, kĩ thuật, văn hoá của sản phẩm. Thứ hai: Chất lượng có ý nghĩa tương đối có nghĩa là chất lượng thường xuyên thay đổi theo không gian và thời gian. Có thể ở giai đoạn này sản phẩm có chất lượng được đánh giá là cao nhưng ở giai đoạn sau thì không chắc đã cao do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển và nhu cầu của con người cũng ngày càng cao hơn. Vì vậy, chất lượng chỉ được đánh giá theo từng thời điểm. Các nhà sản xuất phải nắm chắc đặc điểm này để luôn luôn đổi mới và cải tiến công nghệ để ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Thứ ba: Chất lượng chỉ phù hợp ở từng thị trường cụ thể do nhu cầu và sở thích của người dân ở mỗi vùng là khác nhau. Vì vậy, khi đưa sản phẩm mới vào thị trường thì doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường đó. Thứ tư: Chất lượng vừa mang tính trừu tượng vừa mang tính cụ thể. Tính trừu tượng thông qua sự phù hợp, nó phản ánh mặt chủ quan của sản phẩm và phụ thuộc vào nhận thức của khách hàng. Nâng cao chất lượng loại này sẽ có tác dụng tăng khả năng hấp dẫn thu hut khách hàng nhờ đó tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Chất lượng phải thông qua các chỉ tiêu kinh tế, kĩ thuật, cụ thể được thể hiện thông qua chất lượng tuân thủ thiết kế, thông qua tính khách quan của sản phẩm. Nâng cao chất lượng loại này làm giảm chi phí và tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng thực hiện chính sách giá cả linh hoạt. Thứ năm: Chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện đung trong điều kiện tiêu dùng cụ thể, phù hợp với mục đích sử dụng nhất định. 1.1.4. Vai trò của chất lượng sản phẩm, hàng hóa Trong môi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, doanh nghiệp 13 muốn tồn tại và phát triển phải tăng khả năng cạnh tranh của mình thông qua hai chiến lược cơ bản là phân biệt hóa sản phẩm (chất lượng sản phẩm) và chi phí thấp. Chất lượng sản phẩm trở thành một trong những chiến lược quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, có thể khẳng định được một điều là: "Nâng cao chất lượng sản phẩm, có tầm quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp". Điều này thể hiện ở chỗ: Chất lượng luôn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nâng cao chất lượng sẽ tạo được uy tín, danh tiếng, cơ sở cho sự tồn tại, phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Tăng cường sản phẩm tương đương với tăng năng suất lao động xã hội sẽ tạo điều kiện cho việc tiêu thụ và nâng cao chất lượng chu chuyển trên thị trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm còn là biện pháp hữu hiệu kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và người lao động. Nâng cao chất lượng sẽ góp phần quan trọng cho việc tiết kiệm nguyên vật liệu, vật tư, năng lượng và thời gian lao động. Bên cạnh đó nâng cao chất lượng sản phẩm còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước: Nâng cao chất lượng sản phẩm là nâng cao vị trí và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường, mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, do đó nâng cao thu nhập cho nhà quản lý cũng như người lao động… Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với sự phát triển kinh tế nhanh chóng và ổn định trong doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Chất lượng sản phẩm còn có ý nghĩa chính trị tư tưởng và xã hội to lớn. Tóm lại, nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng cho việc đẩy mạnh quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế và mở rộng trao đổi thương mại quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Chất lượng sản phẩm có ý nghĩa đến nâng cao khả năng cạnh tranh, khẳng định vị thế của sản phẩm hàng hoá Việt Nam 14 và sức mạnh kinh tế của đất nước trên thị trường thế giới. Mặt khác, nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tăng thêm giá trị sử dụng cho sản phẩm và tiết kiệm hao phí cho xã hội. Chất lượng sản phẩm chính là yêu cầu quan trọng đối với mọi doanh nghiệp và cũng chính là vấn đề tối quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Nâng cao chất lượng sản phẩm có vai trò to lớn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp nói riêng. 1.2. Lý luận cơ bản về trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất 1.2.1. Khái niệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa Đảm bảo chất lượng là cốt lõi của quản trị chất lượng, bao gồm một đảm bảo sao cho người mua hàng có thể mua một sản phẩm, dịch vụ với lòng tin và sự thoải mái là có thể sử dụng một thời gian dài. Đảm bảo chất lượng giống như một lời hứa hoặc hợp đồng với khách hàng về chất lượng. Bất kỳ nhà sản xuất nào cũng cần áp dụng chính sách đảm bảo chất lượng nhằm đoán chắc với khách hàng rằng trước khi mua, trong khi mua và giai đoạn nào đó sau khi mua, sản phẩm, dịch vụ phải có đủ độ tin cậy làm thỏa mãn khách hàng và chiếm được lòng tin của họ. Các doanh nghiệp cần xây dựng chính sách đảm bảo chất lượng sao cho khách hàng tin vào hàng hóa của công ty mình hoặc xa hơn nữa là tin tưởng vào chất lượng của chính bản thân công ty, như vậy khách hàng sẽ yên tâm khi mua sản phẩm, dịch vụ mới. Theo ISO 9000, "Đảm bảo chất lượng là toàn bộ hoạt động có kế hoạch và hệ thống được tiến hành trong hệ thống chất lượng được chứng minh là đủ mức cần thiết để tạo tin tưởng thỏa đáng rằng thực thể (đối tượng) sẽ thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu chất lượng. Đảm bảo chất lượng bao gồm cả đảm bảo chất lượng trong nội bộ lẫn đảm bảo chất lượng với bên ngoài". Đảm bảo chất lượng bao gồm mọi việc từ lập kế hoạch sản phẩm cho đến 15 khi làm ra nó, bảo dương, sửa chữa và tiêu dùng. Vì thế, các hoạt động đảm bảo chất lượng cần được xác định rõ ràng, điều gì cần làm ở mỗi giai đoạn để đảm bảo được chất lượng trong suốt vòng đời của sản phẩm. Đảm bảo chất lượng không những bao gồm mọi hoạt động về kiểm tra chất lượng bên trong các phòng ban, mà còn giữa các phòng ban với nhau. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới cơ cấu tổ chức từ quản trị theo chức năng sang quản trị theo chức năng chéo nhằm hướng mọi nỗ lực của các thành viên vào việc thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp là thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng và thu được lợi nhuận. 1.2.2. Vai trò của đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho con người, động thực vật, tài sản, môi trường. Bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hoá ngoài việc có ý nghĩa rất quan trọng với người tiêu dùng, người sản xuất mà còn quan trọng đối với việc duy trì an ninh, trật tự công cộng, lợi ích quốc gia. Chất lượng sản phẩm còn là chính sách để các doanh nghiệp thực hiện chiến lược quảng cáo nhằm mục đích tạo uy tín và danh tiếng cho sản phẩm của chính doanh nghiệp và khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường, tạo tiền đề cho sự tồn tại và phát triển vững bền của doanh nghiệp. Mặt khác, bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa còn giup tiết kiệm nguyên vật liệu và giảm thiểu tác động xấu môi trường trong quá trình sản xuất sản phẩm, hàng hóa. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ cho phép các nhà sản xuất nhạy bén có khả năng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu khách hàng, tạo ra lợi thế cạnh tranh điều này dẫn đến cuộc cạnh tranh toàn cầu sẽ trở nên ngày càng mạnh mẽ với quy mô ngày càng lớn. Với tình hình như vậy, chất lượng 16 trở sẽ trở thành yếu tố cạnh tranh hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm, hàng hóa tốt, bảo đảm chất lượng sẽ dẫn tới việc kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất, chất lượng sản phẩm tốt còn đảm bảo cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, nâng cao năng suất lao động. Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được đảm bảo không chỉ làm tăng uy tín sản phẩm, hàng hóa của nước ta trên thị trường quốc tế mà còn đem lại tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hoá, tích cực đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái, chống hàng lậu, hàng không đảm bảo chất lượng, không rõ nguồn gốc, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam. 1.2.3. Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất Quá trình lưu thông hàng hóa có sự tham gia của rất nhiều chủ thể với các vai trò khác nhau như nhà sản xuất, người nhập khẩu, người phân phối, người bán hàng… Quan hệ giữa các chủ thể này là quan hệ biện chứng, có tác động qua lại lẫn nhau, trong đó các bên đều có lợi ích trong quan hệ này. Các chủ thể nêu trên là những thực thể của xã hội có quan hệ và tác động qua lại nhau để cùng tồn tại và phát triển. Xã hội chỉ tồn tại khi có hoạt động sản xuất nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích của con người vì vậy quan hệ giữa nhà sản xuất, người nhập khẩu, người phân phối, người bán hàng… là một trong những quan hệ xã hội thường xuyên và cơ bản nhất vì. Con người trong xã hội hiện đại không thể tồn tại nếu không có hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nhưng nhà sản xuất cũng không thể tồn tại nếu không có khách hàng vì chủ thể này quyết định sự phát triển của nhà sản xuất. Để quan hệ xã hội nói chung và quan hệ giữa các chủ thể này nói riêng phát triển lành mạnh đòi hỏi nhà sản xuất phải thực hiện các hành vi có trách nhiệm với các chủ thể còn lại trong 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan