Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội rửa tiền trong luật hình sự việt nam hiện hành...

Tài liệu Tội rửa tiền trong luật hình sự việt nam hiện hành

.PDF
119
1
111

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT -  - LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT NIÊN KHÓA 2007 - 2011 Đề tài: TỘI RỬA TIỀN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: TS. Phạm Văn Beo Trần Thị Nến Bộ môn Tư pháp MSSV: 5075203 Lớp: Luật Tư pháp 2 – K33 Cần Thơ, 11/2010 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… MỤC LỤC Trang Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của việc lựa chọn nghiên cứu đề tài.....................................................1 2. Mục đích nghiên cứu đề tài........................................................................................2 3. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................2 4. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................2 5. Cấu trúc của luận văn ................................................................................................3 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ RỬA TIỀN 1.1. Khái niệm rửa tiền ..................................................................................................4 1.1.1. Theo pháp luật quốc tế ...................................................................................5 1.1.2 Theo pháp luật Việt Nam ................................................................................6 1.2 Đặc điểm của rửa tiền .............................................................................................8 1.3. Những biểu hiện của hành vi rửa tiền ...................................................................12 1.4. Các phương thức, thủ đoạn rửa tiền ......................................................................15 1.4.1. Về mặt không gian ......................................................................................17 1.4.2. Về hành vi……………………………………………………………………17 1.4.3. Quy trình cơ bản của hoạt động rửa tiền ......................................................20 1.5. Những nơi có thể xảy ra rửa tiền ..........................................................................22 1.6. Hậu quả của rửa tiền ............................................................................................. 22 1.7 Pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề rửa tiền ...........................................26 1.8 Ý nghĩa nghiên cứu về tội phạm rửa tiền................................................................ 29 CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ TỘI RỬA TIỀN 2.1. Cơ sở pháp lý........................................................................................................31 2.2. Dấu hiệu pháp lý...................................................................................................34 2.2.1. Mặt khách thể ...........................................................................................34 2.2.2 Mặt khách quan .........................................................................................34 2.2.3. Mặt chủ quan ............................................................................................ 39 2.2.4. Mặt chủ thể ................................................................................................ 40 2.2.5. Các trường hợp phạm tội cụ thể và trách nhiệm hình sự ............................. 42 2.2.5.1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS …….42 2.2.5.2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS …….42 2.2.5.3. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 251 BLHS …….48 2.2.5.4. Hình phạt bổ sung ..............................................................................49 2.3. Những điểm mới trong quy định của luật hình sự hiện hành về tội phạm rửa tiền .........................................................................................................49 2.4. Nguyên tắc xử lý tội rửa tiền.................................................................................52 2.5. So sánh tội rửa tiền với các loại tội phạm khác ....................................................54 2.5.1. So sánh với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ..........................................................................................................54 2.5.2. So sánh tội rửa tiền với tội che giấu tội phạm .............................................55 CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG TỘI PHẠM RỬA TIỀN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM NÀY 3.1.Thực trạng tội phạm rửa tiền..................................................................................58 3.1.1. Vài nét về tội phạm rửa tiền trên thế giới ...................................................58 3.1.2. Thực trạng và những dự báo về diễn biến tội phạm rửa tiền ở Việt Nam trong thời gian tới ......................................................................................61 3.2. Những bất cập trong tội phạm rửa tiền ở Việt Nam ..............................................65 3.2.1. Về pháp luật .............................................................................................. 65 3.2.2. Về tội phạm nguồn của tội rửa tiền............................................................. 71 3.2.3. Về kinh tế – xã hội ....................................................................................72 3.2.4. Hệ thống tổ chức, nhân lực thực thi pháp luật phòng chống rửa tiền...........74 3.2.5. Hợp tác quốc tế ..........................................................................................77 3.4. Sự cần thiết phải thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền ...........................78 3.4.1. Sự cần thiết ................................................................................................ 78 3.4.2 Những nguyên tắc cơ bản thực hiện việc phòng chống rửa tiền ...................79 3.5.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng và chống tội phạm rửa tiền ...................80 3.5.1 Về pháp luật................................................................................................ 81 3.5.2. Về tội phạm nguồn của tội rửa tiền............................................................. 87 3.5.3. Về kinh tế – xã hội.....................................................................................88 3.5.4. Hệ thống tổ chức, nhân lực thực thi pháp luật phòng chống rửa tiền...........90 3.5.5. Hợp tác quốc tế ..........................................................................................96 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc lựa chọn nghiên cứu đề tài Việt Nam đã xuất hiện tội phạm rửa tiền. Đây là nhận định không thể phủ nhận và thực tế đang diễn ra đúng như vậy. Không phải bây giờ loại tội phạm nguy hiểm này mới xảy ra ở nước ta mà chúng đã có mặt từ lâu. Có thể nói nếu tội phạm còn tồn tại thì rửa tiền không thể mất đi bởi đây là mắc xích quan trọng nhằm che đậy, xoá nhoà nguồn gốc bất hợp pháp của những thu nhập từ hoạt động phạm tội. Chúng phái sinh trên những loại tội phạm khác và là nhân tố gián tiếp kích thích cho tội ác phát triển. Do vậy hậu quả của nạn rửa tiền là vô cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội. Dù không gây hại trực tiếp đến sức khoẻ, tài sản của người dân nhưng nó có thể phá huỷ nền kinh tế, an ninh và gây ra những hậu quả xấu cho xã hội, đồng thời khuyến khích hoạt động mua bán ma tuý, khủng bố, các quan chức Nhà nước tham nhũng và kéo theo những hoạt động phạm tội khác; rửa tiền tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động và làm sai lệch quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, làm tăng nguy cơ phá sản của các ngân hàng và làm mất đi vai trò kiểm soát các chính sách của Chính phủ... Nếu không kiểm soát được, nạn rửa tiền có thể ăn mòn tình hình tài chính của một nước do gây ra những ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá, lãi suất và tác động đến hệ thống tài chính toàn cầu. Bởi vậy, nạn "rửa tiền" không chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật mà nó còn là mối đe doạ nghiêm trọng nền an ninh của một quốc gia và cộng đồng quốc tế. Hiện Việt Nam đang trên tiến trình hội nhập quốc tế với nhiều cơ hội thì cũng có không ít thách thức như sự gia tăng của các loại tội phạm xuyên quốc gia như ma túy, buôn người, tội phạm xâm hại môi trường, xâm phạm sở hữu trí tuệ ... tác động đến rửa tiền cũng diễn biến ngày một tinh vi hơn, quy mô hơn. Vì những lý do này mà chống rửa tiền đang là một yêu cầu cấp bách đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Trong thời gian gần đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản phòng chống rửa tiền. Đặc biệt, ngày 01/01/2010, Luật số 37/2009/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 19/6/ 2009 sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự 1999 bắt đầu có hiệu lực theo đó tội rửa tiền được đưa vào Điều 251 BLHS thay thế tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có. Đây là lần đầu tiên, Luật hình sự Việt Nam chính thức đưa tội danh rửa tiền vào thể hiện nhà nước ta đã nhìn nhận bản chất nguy hiểm, hậu quả của loại tội phạm này có thể dẫn đến và quyết tâm trừng trị chúng. Tuy nhiên, công cuộc đấu tranh tội phạm rửa tiền còn gặp nhiều khó khăn bất cập từ nhiều phương diện pháp luật, kinh tế,… nhất là kinh nghiệm của chúng ta còn non kém so với nhiều nước trên thế giới. Xuất phát từ những lý lẽ trên và ý thích nghiên cứu để tìm hiểu rõ vấn đề thú vị này về mặt pháp luật và thực tiễn với mong muốn góp phần đưa ra những giải pháp cho vấn đề phòng chống rửa tiền nên sinh viên đã chọn đề tài: "Tội rửa tiền trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành". 2. Mục đích nghiên cứu đề tài: Mục tiêu của quá trình nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những yếu tố cơ bản của tội rửa tiền như đặc điểm, hành vi và hậu quả,…. Tìm hiểu, phân tích những quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam và những văn bản có liên quan về vấn đề này. Ngoài ra, đánh giá tình hình tội phạm rửa tiền hiện nay và diễn biến sắp tới, đưa ra những bất cập, khó khăn tồn tại trong công tác phòng chống rửa tiền và từ đó đề xuất những giải pháp hợp lý để việc đấu tranh phòng và chống tội phạm nguy hiểm này có hiệu quả. 3. Phạm vi nghiên cứu: Trong bài viết này, sinh viên thực hiện tập trung nghiên cứu vào một số nội dung cơ bản sau: Khái niệm, đặc điểm, bản chất, những thủ đoạn thực hiện và hậu quả mà rửa tiền gây ra, các yếu tố cấu thành cơ bản của tội phạm rửa tiền trong luật hình sự Việt Nam hiện hành. Tội này được quy định tại điều 251 thuộc chương XIX Bộ luật Hình sự 1999. Tìm hiểu những điểm mới sửa đổi trong quy định của Bộ luật này về hành về tội rửa tiền. Bên cạnh đó, bài viết cũng nêu ra tình hình và những diễn biến của tội phạm này trong thời gian sắp tới, khó khăn và giải pháp cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu: Nhằm tìm hiểu và hoàn thiện đề tài một cách tốt nhất, sinh viên đã sử dụng một vài phương pháp để làm công tác phục vụ cho việc nghiên cứu của mình như sau: + Phương pháp phân tích luật viết dùng để tìm hiểu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành; + Phương pháp phân tích chứng minh, so sánh, đối chiếu, vận dụng các quy định pháp luật về tội rửa tiền đối chiếu với thực tiễn; + Phương pháp tổng hợp thống kê, sử dụng các trang website để tìm kiếm tài liệu đồng thời vận dụng các tài liệu của các nhà nghiên cứu, các tạp chí chuyên ngành. 5. Cấu trúc của luận văn: Bên cạnh lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được trình bày thành ba chương: Chương 1: Khái quát chung về rửa tiền. Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội rửa tiền. Chương 3: Thực trạng tội phạm rửa tiền và giải pháp phòng chống tội phạm này CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ RỬA TIỀN Chương này tập trung vào những vấn đề: Khái niệm và những đặc điểm, biểu hiện của rửa tiền. Đồng thời tìm hiểu về phương pháp, thủ đoạn thực hiện và những hậu quả mà hành vi này gây ra. Ngoài ra, chương cũng giới thiệu những quy định của pháp luật một số nước có kinh nghiệm về tội phạm rửa tiền như Mỹ, Anh… Để từ đó, hiểu rõ về loại hình tội phạm nguy hiểm này làm tiền đề đi vào phân tích pháp luật cũng như tìm ra những cách thức phòng chống rửa tiền có hiệu quả ở những phần viết sau. 1.1. Khái niệm rửa tiền Đồng tiền, như một tục ngữ phương Tây đã từng nói, vốn không có mùi, có nghĩa dù bẩn dù sạch, nó vẫn được mọi người quý trọng như nhau vì đều có quyền năng vật chất mà nó mang đến. Nhưng đồng tiền phi pháp, theo một nghĩa bóng, là những đồng tiền đã nhuộm bẩn tội ác, thậm chí vấy máu. Và những tên tội phạm khi được những đồng tiền đó sẽ tìm cách “rửa” chúng, tức là muốn biến chúng thành những đồng tiền “sạch” có nguồn gốc hợp pháp, để cho những tài sản mà họ mua được từ những đồng tiền đó sau này cũng sẽ mang tính chất hợp pháp, có thể chuyển nhượng, mua bán một cách hợp pháp, công khai và để lại cũng một cách hợp pháp, với tư cách là di sản thừa kế cho con cái của họ sau này, khi mà họ đã “rửa tay gác kiếm”. Nhìn chung, rửa tiền không phải là một hiện tượng mới mẻ, nó cũng xưa như chính tội ác. Từ ngàn xưa, những kẻ phạm tội đều tìm mọi cách che giấu nguồn gốc của các đồng tiền tội ác nhằm xoá sạch dấu vết các hành động tội phạm của họ. Theo nhiều sử gia, thương nhân Trung Quốc đã biết “rửa tiền” hơn ba ngàn năm trước để tránh thuế của triều đình. Tuy nhiên, từ rửa tiền xuất hiện lần đầu tiên từ Mafia Mỹ. Những Gangster (là thành viên của băng nhóm tội phạm) đã kiếm được những món tiền lớn từ tống tiền, bảo kê, mãi dâm, cờ bạc và rượu lậu. Đó là tiền “bẩn” mà Gangster muốn hợp pháp hóa thành tiền “sạch” bằng con đường kinh doanh hợp pháp. Chúng đã chọn dịch vụ cho thuê máy giặt, vì đây là dịch vụ thu tiền mặt để dễ tránh sự kiểm soát của cơ quan công quyền. Chính vì thế mà sau này, tiếng Anh xuất hiện từ Launder (giặt là) Money, một dạng lóng và đã được Việt hóa có nghĩa là "rửa tiền". Nhưng dù là ngôn ngữ nào đi nữa thì bản chất tội phạm nguy hiểm của vấn đề cũng không thay đổi. Từ “rửa tiền” mãi đến năm 1973 mới được đưa lên mặt báo chí Mỹ xung quanh vụ Watergate. Từ tượng hình này lần đầu tiên được dùng trong khuôn khổ pháp lý năm 1982 khi tòa án Mỹ xử vụ rửa tiền số 551 F Supp.314 ở Neww York1. Từ đó, từ “rửa tiền” được dùng khắp nơi trên thế giới, có lẽ do trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước, buôn lậu ma túy đã đem lại những khoản tiền khổng lồ cho các phần tử tội phạm. Các chính phủ buộc phải mạnh tay chống ma túy, chống tham nhũng đi cùng với nó. 1.1.1. Theo pháp luật quốc tế Hiện nay, do nhận thức được tác động tiêu cực của rửa tiền đối với nền kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, khu vực và mang tầm quốc tế nên rất nhiều quốc gia đã khẳng định rửa tiền là tội phạm. Có thể định nghĩa hành vi này theo một số cách. Hầu hết các nước tán thành định nghĩa được sử dụng trong công ước của Liên Hiệp Quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần năm 1988 (công ước viên) và công ước của Liên Hiệp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (Công ước Palermo). Ở công ước Palermo sử dụng thuật ngữ “laundering of proceeds of crime”, theo sát nghĩa của thuật ngữ này, chúng ta có thể gọi là tẩy rửa tiền/tài sản có nguồn gốc từ tội phạm; còn khuyến nghị của FATF sử dụng thuật ngữ “money laundering”, có nghĩa là rửa tiền. Từ đó, các thuật ngữ “tẩy rửa tiền tài sản do phạm tội mà có” và “rửa tiền” cần được hiểu như nhau. Ba loại hành vi được nói trong công ước Viên tạo thành cơ sở của tội rửa tiền. Đó là: “Hành vi chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài sản đó thu được từ buôn bán ma tuý hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm tội đó với mục đích che dấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp người thực hiện các hành vi trên trốn tránh trách nhiệm pháp lý các hành vi của mình; Hành vi che dấu hoặc ngụy trang hình thái tự nhiên, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản, các quyền liên quan đến tài sản hoặc quyền sở hữu tài sản khi biết rằng tài sản đó có được từ hành vi phạm tội hay từ việc tham gia vào hành vi phạm tội đó; Việc có được, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản khi tại thời điểm tiếp nhận nó đã biết rằng tài sản này có được từ hành vi phạm tội hoặc việc tham gia vào hành vi phạm tội đó”2 1 Hà Hoàng Hợp, Phạm Bá Khiêm, Tội phạm tài chính trong hội nhập, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2005, [tr 74 – tr 76]. Điều 3, Công ước Viên. 2 Công ước Palecmo cũng sử dụng định nghĩa của công ước Viên nhưng có yêu cầu thêm các quốc gia thành viên quy định phụ thuộc vào các khái niệm căn bản của hệ thống pháp luật quốc gia mà xem xét việc tham gia, liên kết với hoặc có âm mưu thực hiện hành vi, cố gắng thực hiện, tiếp tay, giúp sức, xúi bẩy, tạo điều kiện thuận lợi và chỉ dẫn việc thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào được quy định tại Điều này.3 Hai công ước định nghĩa thuật ngữ “tiền, tài sản thu được từ hành vi phạm tội” là “bất kỳ tài sản nào kiếm được hoặc có được một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc thực hiện một hành vi phạm tội”4 Tội phạm nguồn của rửa tiền là tội phạm đã tạo ra những đồng tiền “bẩn” để sau này tẩy rửa nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của chúng. Trong điều kiện của mình, Công ước Viên chỉ quy định về các tội phạm nguồn của tội buôn bán bất hợp pháp chất ma túy. Vì vậy, những hành vi phạm tội không liên quan đến tội phạm trên như lừa đảo, bắt cóc và trộm cắp thì không cấu thành tội phạm rửa tiền theo công ước Viên. Tuy nhiên theo chiều hướng phát triển của tình hình tội phạm, cộng đồng quốc tế đã hình thành quan điểm rằng các tội phạm nguồn của tội rửa tiền cần phải được rộng, chứ không chỉ bó hẹp trong hành vi buôn bán bất hợp pháp ma túy. Vì vậy, các tổ chức quốc tế khác đã mở rộng định nghĩa của Công ước Viên về tôi phạm nguồn để bổ sung cả những hành vi phạm tội nghiêm trọng khác. Ví dụ, Công ước Palecmo yêu cầu tất cả các nước thành viên phải áp dụng “giới hạn rộng nhất các tội phạm nguồn” 5. Trong 40 khuyến nghị về chống rửa tiền (bốn mươi khuyến nghị), FATF (Financial Aciton Task Force on Money Laundering - đội đặc nhiệm chống rửa tiền quốc tế) đã hợp nhất các định nghĩa mang tính chuyên môn và lập pháp về rửa tiền trong công ước Viên và liệt kê 20 hành vi phạm tội phải được đề cập đến trong các tội phạm nguồn của tội rửa tiền6. 1.1.2. Theo pháp luật Việt Nam Từ năm 1997, Luật các Tổ chức tín dụng (điều 19) đã có quy định về trách nhiệm của các tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp nhưng chưa sử dụng có thuật ngữ “rửa tiền”. Cụ thể là : 3 Điều 6 (1), Công ước Palecmo. Điều 1 (p), Công ước Viên; Điều 2 (e), Công ước Palecmo. 5 Điều 2 (a), Công ước Palecmo. 6 Paul Allan Achott, Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố, NXB. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007, [tr 2 – tr 4]. 4 “1. Tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng không được che giấu, thực hiện bất kỳ dịch vụ nào liên quan đến khoản tiền đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp. 2. Trong trường hợp phát hiện các khoản tiền có dấu hiệu bất hợp pháp, tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng phải thông báo ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Từ đó cho đến trước khi có Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng chống rửa tiền chưa có một đạo luật độc lập quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, hành vi này đã được nhận thức và ghi nhận tại Điều 251 của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 về tội “hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có” thực chất cũng là một dạng của tội rửa tiền. Điều luật đã nêu lên được nội hàm cơ bản của hành vi rửa tiền như nguồn gốc của khoản tiền, tài sản được hợp pháp hóa là tiền, tài sản do phạm tội mà có; các phương thức phạm tội của hành vi rửa tiền, đó là thông qua các hoạt động tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có hoặc sử dụng tiền tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động kinh tế khác, mục đích của hành vi đó là hợp pháp hóa tiền, tài sản có nguồn gốc phạm tội. Quy định này có thể xem là những bước tiếp cận đầu tiên của Luật hình sự Việt Nam về vấn đề này và ghi nhận rửa tiền là tội phạm. Đến khi Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền ngày 07/6/2005 (Nghị định số 74/2005/NĐ-CP) thì lần đầu tiên thuật ngữ “rửa tiền” mới được chính thức sử dụng và giải thích nhưng phạm vi của thuật ngữ này được hiểu khá hẹp, chỉ giới hạn trong ba nhóm hành vi. Theo đó: “Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể: + Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội mà có; + Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có; +Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có”. Cùng với tiến trình mở cửa, hội nhập quốc tế, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tình hình hoạt động của các loại tội phạm cũng có nhiều diễn biến phức tạp trong đó có tội phạm rửa tiền nên Điều 251 quy định về tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có không còn phù hợp cả về tên gọi lẫn bản chất cũng như chưa tương đồng đối với thông lệ quốc tế. Do vậy tháng 6/2009, Bộ luật hình sự đã được sửa đổi “tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có” nay được thay thế bằng “tội rửa tiền”. Đây là lần đầu tiên tội danh rửa tiền được chính thức đưa vào BLHS Việt Nam cụ thể hơn với bốn nhóm hành vi: + Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó; + Sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác; + Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó; + Thực hiện một trong các hành vi quy định kể trên đối với tiền, tài sản biết rõ là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do phạm tội mà có. Tóm lại, tuy rửa tiền được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, song đều thống nhất ở điểm chung cơ bản: Rửa tiền tập hợp những hành vi nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của những tài sản do phạm tội mà có. Từ rửa tiền (money laundering) là một từ hình tượng diễn tả một cách bóng bảy nhưng khá chính xác hành động nhằm tẩy sạch nguồn gốc của những đồng tiền tội lỗi. 1.2. Đặc điểm của rửa tiền Rửa tiền được xem là tội phạm “không biên giới” có tính chất quốc tế điển hình với hai đặc trưng chính7. Thứ nhất, hành vi này có thể xảy ra từ khi bắt đầu đến kết thúc liên quan đến nhiều quốc gia nên dẫn đến hậu quả nghiêm trọng vượt ra ngoài phạm vi của một nước. Tội phạm này không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nền kinh tế, ảnh hưởng đến an ninh từng quốc gia mà còn có tác động nghiêm trọng đến sự trong sạch và hoàn chỉnh của hệ thống tài chính, đời sống của cả cộng đồng quốc tế. Thứ hai, trong các giải pháp phòng chống hành vi rửa tiền hiệu quả, các quốc gia trên thế giới đã cùng thừa nhận việc truy nã và trừng trị chúng đòi hỏi có sự hợp tác quốc tế chặt chẽ chứ không chỉ là công việc của riêng một quốc gia. Thực tế đã chứng minh điều này khi nhiều điều 7 Vũ Duy Cương, rửa tiền một tội phạm quốc tế điển hình, tạp chí khoa học luật, số 5, 2002. ước quốc tế liên quan đến tội phạm rửa tiền đã được thông qua như công ước năm 1988 của Liên Hiệp quốc về ngăn chặn lưu thông bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần, công ước của Liên hiệp quốc về chống tham nhũng năm 2003 …. Ngoài ra, công ước của Liên hiệp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 cũng đã xác định rõ phạm vi điều chỉnh của mình bao trùm lên hành vi rửa tiền. Từ đó nhận thấy rằng, ngoài yếu tố “xuyên quốc gia” thì rửa tiền còn liên quan đến “có tổ chức”. Có như vậy, chúng mới thuộc sự điều chỉnh của công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Các quy định của công ước cũng giải thích thuật ngữ “nhóm tội phạm có tổ chức” là nhóm có cơ cấu ba người trở lên tồn tại trong một khoản thời gian và hoạt động phối hợp nhằm mục đích thực hiện một hay nhiều tội phạm nghiêm trọng hay các hành vi phạm tội trong công ước này nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp đạt được các lợi ích tài chính hay lợi ích vật chất khác. Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia là loại hình tội phạm phải bị dẫn độ trong quan hệ liên quốc gia do đó tội phạm rửa tiền cũng mang đặc điểm này. Trong trường hợp không dẫn độ tội phạm rửa tiền, các quốc gia được yêu cầu phải chuyển ngay vụ việc cho các cơ quan có thẩm quyền để truy tố và tiến hành các thủ tục tố tụng theo trình tự giống như các tội phạm khác có cùng mức độ nghiêm trọng phù hợp với luật quốc gia8. Rửa tiền là loại tội phạm phái sinh, hay nói cách khác, những tội phạm xảy ra trước đó tạo ra nguồn lợi chính là tiền đề xuất hiện việc rửa tiền bởi hành vi này sẽ tẩy rửa nguồn gốc bất hợp pháp của các khoản thu có được từ các hành vi tội phạm đó. Cũng chính thế mà chủ sở hữu những khoản tiền cần tẩy rửa là những cá nhân và tổ chức tội phạm. Trước đây, pháp luật về chống rửa tiền tại một số quốc gia trên thế giới đều chỉ nhằm một mục đích ngăn chặn việc “tẩy trắng” các khoản thu nhập liên quan đến hành vi sản xuất và buôn bán ma tuý. Sau đó, Mỹ và các quốc gia khác đã đi tiên phong trong việc điều tra, ngăn chặn và truy tố những kẻ rửa các khoản tiền phi pháp từ các hành vi tống tiền, hối lộ, tham nhũng và làm hàng giả. Ngày nay, pháp luật các quốc gia này đã mở rộng phạm vi điều chỉnh hướng tới các khoản thu nhập từ các hành vi phi pháp mang tính quốc tế khác như buôn lậu (rượu, thuốc lá, chip máy tính, vũ khí, vật liệu hạt nhân, kim khí quý, đá quý…) đưa người nhập cư bất hợp pháp, buôn bán phụ nữ, trộm cắp, tiêu thụ đồ gian, buôn bán động thực vật quý hiếm, buôn bán các bộ phận cơ thể người…. Đối với Luật hình sự Việt Nam không xác định rõ nguồn 8 Nguyễn Thị Thuận, Luật hình sự quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, [tr 73- tr 75]. tiền được sinh ra từ hành vi phạm tội nào cụ thể, miễn đó là thu nhập từ hành vi phạm tội. Cũng cần phải khẳng định rằng không giống như các loại tội phạm khác, với đặc điểm là loại tội phạm phái sinh thì cũng có nghĩa là việc đấu tranh chống tội phạm rửa tiền cần được thực hiện song song với việc đấu tranh với các loại tội phạm nguồn khác, đó chính là những hành vi phạm tội làm phát sinh các khoản tiền phạm pháp cần được tẩy rửa. Đây là một trong những đặc thù đối với hoạt động đấu tranh chống tội phạm rửa tiền. Đối tượng hướng đến của hoạt động rửa tiền là tài sản, tiền có được sau khi phạm tội. Cùng một đặc điểm là do phạm pháp nhưng nơi bắt nguồn của tiền bẩn thì rất đa dạng và phong phú9. Từ buôn hàng cấm và hoạt động tội phạm có tổ chức: Buôn bán trong nước hoặc qua biên giới về ma túy, vũ khí, và rượu, thuốc lá v.v. nhằm thu lợi bất hợp pháp. Bên cạnh đó là nguồn tiền có được từ các tội phạm có tổ chức như làm tiền giả, tống tiền, đánh bạc, hoạt động bảo kê, mại dâm, cướp bóc... Từ lạm dụng thân thế chính trị hoặc các yếu nhân đặc biệt: Tiền do những người làm lãnh đạo cấp cao, hay chính người thân của họ nhận tham ô, hối lộ. Hay là việc lợi dụng chức vụ ví dụ như: lợi dụng việc biết trước các thông tin về chủ trương, chính sách, qui hoạch v.v... Từ gian lận thương mại: Tiền này bắt nguồn từ việc trốn thuế, lãng phí và thất thoát trong xây dựng cơ bản hay do hoạt động chuyển giá giữa các công ty thuộc cùng một tập đoàn hoặc công ty mẹ – con. Hoặc từ việc gian lận, biển thủ và mua bán nội gián… thường phổ biến trong các doanh nghiệp và thị trường đang tăng trưởng và có lợi nhuận. Ngoài các nguồn gốc chung như: Từ việc buôn lậu hay các phi vụ gian thương... thì ở Việt Nam tiền bẩn thường có những đặc trưng chủ yếu là từ việc lạm dụng thân thế chính trị hay là các mối quan hệ thân cận với các yếu nhân. Rửa tiền tạo “vỏ bọc tội phạm” do mục đích của hoạt động rửa tiền là tạo ra một khoảng cách xa nhất giữa tài sản bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Trong những phương pháp điều tra chuẩn mực và đạt được những thành công nhất là điều tra "theo dấu đồng tiền". Nếu các điều tra viên cho rằng ai đó có liên quan tới tội phạm thì họ sẽ tiến hành điều tra trước tiên nguồn tài chính và các công việc trước đây của đối tượng này.Vì vậy, bọn tội phạm muốn chuyển đi xa hay giấu tiền vào một chỗ kín đáo một cách nhanh chóng để "xoá dấu đồng tiền" trước khi các điều tra viên có thể phát hiện ra. Ví dụ: Từ những nguồn “tiền 9 Nguyễn Thanh Tùng, ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam Vietinbank, Tác động rửa tiền đối với nền kinh tế, http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/10/100906.html, [truy cập ngày 15/6/2010]. đen”, tội phạm sẽ nhanh chóng phân phối vào các định chế tài chính bằng cách chia thành các khoản tiền nhỏ dưới những mức mà pháp luật quy định và xa nguồn gốc ban đầu mà những tổ chức cá nhân phạm tội này có được. Những đồng tiền đó sẽ nhanh chóng được thu về qua con đường đầu tư và thu hồi vốn đầu tư. Qua những quá trình luân chuyển như vậy, tiền sẽ được phân phối trở lại vào nền kinh tế với nguồn gốc không thể tìm ra. Sau khi đã hợp pháp hóa được những đồng tiền phi pháp đó bọn tội phạm có thể đưa trực tiếp nó vào một vụ phạm tội khác, gây trở ngại lớn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự. Có thể ví, rửa tiền chính là “oxy” nuôi sống bọn tội phạm với dòng tiền cho phép chúng củng cố cơ sở quyền lực kinh tế. Tính ẩn và trình độ thực hiện rửa tiền ngày càng cao vì tiền không còn tồn tại dưới dạng vật chất là giấy hay kim loại trao đổi trực tiếp tay trao tay nữa mà dưới nhiều hình thức khác nhau như tiền tín dụng (tiền nằm trong các tài khoản mở ở ngân hàng - tiền ngân hàng (bank money), séc (một tờ lệnh do người chủ tài khoản séc phát hành yêu cầu ngân hàng thanh toán từ tài khoản của anh ta cho người hưởng lợi chỉ định trong tờ séc), séc du lịch,… Từ đó có nhiều hình thức rửa tiền ngày càng xuất hiện tỷ lệ thuận với sự phát triển của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật như rửa tiền qua mạng, qua kinh doanh chứng khoán,… Tiếp theo, bản chất của rửa tiền là che giấu nguồn gốc tiền, tài sản phạm tội mà những tội phạm nguồn thường được thực hiện vì mục đích vụ lợi nên tiền tài sản mà chúng tạo ra không dễ dàng phát hiện được. Cho nên, rửa tiền diễn ra như một hệ quả tất yếu của tội phạm nguồn và khó có thể thống kê chính xác khối lượng tài sản mà bọn tội phạm kiếm được và những phương thức mà chúng sử dụng để thống kê chính xác những hoạt động rửa tiền đang diễn ra. Bản chất của rửa tiền rất nguy hiểm. Đây là một cơ chế yểm trợ tội phạm để trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật song chính nó cũng là một dịch vụ có cung có cầu. Xét khía cạnh tội phạm kinh tế để làm rõ. Cụ thể: Tăng trưởng kinh tế và toàn cầu hoá làm sinh sôi nhiều hình thức gian lận thương mại (ngoài buôn lậu ma tuý, vũ khí, động vật hoang dã, cổ vật, lao động, bây giờ còn có công nghiệp hàng giả, hàng nhái, v.v), nhu cầu rửa tiền theo đó mà bùng nổ thêm. Đến chừng mực nào đó, hoạt động rửa tiền là hình ảnh phản chiếu đích thật nền “kinh tế ngầm” của cả thế giới. Theo quan niệm biện luận “rửa tiền” chỉ là phản ứng “hợp lý” của mọi “cá thể kinh tế”: Không ai muốn trả thuế và ai cũng muốn vận dụng tài sản của mình vào những hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất. Như vậy, tiền bẩn, theo nhận xét của họ, đã giúp phát triển kinh tế (cụ thể là khu vực tư nhân, và do đó làm giảm vai trò của nhà nước – là một điều tốt, đối với những nhà kinh tế vốn dĩ tôn sùng thị trường này). Song, ngay trên cơ sở thuần lý thuyết, ý kiến này là hoàn toàn sai lầm. Tự bản chất của nó, sự phân bố tài nguyên do rửa tiền không chỉ theo tín hiệu lợi nhuận, mà phần lớn là để trốn tránh luật pháp. Nói cách khác, sự phân bố ấy cũng tùy ở mức độ chấp nhận rủi ro của người có tiền bẩn, ở mức “kín đáo” mà họ muốn, và mức độ dám “uốn cong luật pháp” của họ. Đơn giản: tiền bẩn không được đưa vào những sử dụng có hiệu quả kinh tế tối đa, nhưng vào những ngỏ ngách mà khả năng kiểm soát của luật pháp là lỏng lẻo nhất. Hoạt động rửa tiền vừa lãng phí nguồn lực kinh tế của xã hội (vào các hoạt động tội phạm sinh ra tiền bẩn, thay vì vào các hoạt động sản xuất thật sự hữu ích), vừa bóp méo sự phân bố các nguồn lực ấy. Ngoài ra, theo Luật hình sự Việt Nam, rửa tiền là hành vi phạm tội nên nó cũng có đầy đủ các đặc điểm chung của một tội phạm: Nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. 1.3. Những biểu hiện của hành vi rửa tiền Các hoạt động đầu tư đáng ngờ: + Về chủ đầu tư: Chủ đầu tư là cá nhân hay tổ chức có liên quan đến các hoạt động tội phạm. Những thông tin khả năng tài chính của chủ đầu tư này không rõ ràng minh bạch, không nhất quán. Chẳng hạn như nhà đầu tư cá nhân đầu tư vào dự án hàng trăm ngàn tỷ nhưng thông tin về khả năng tài chính của người này không có thì sẽ nghi ngờ cho đối tác. Các báo cáo tài chính của công ty đầu tư không minh bạch hay không có cơ sở để đánh giá độ tin cậy (như không có kiểm toán hay thuế kiểm tra). Chủ đầu tư không quan tâm nhiều lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư của mình. + Về phía doanh nghiệp được đầu tư: Tổ chức được đầu tư hoạt động không hiệu quả nhưng vẫn được đầu tư với nguồn vốn lớn. Việc đầu tư không tương xứng với quy mô và lĩnh vự hoạt động trước nay của doanh nghiệp. + Về địa điểm đầu tư: Địa điểm đầu tư khó khăn về nguồn lực và nguồn nguyên liệu có sẵn không thuận lợi cho kinh doanh … Các giao dịch mua bán đáng ngờ: Mua bán khống, mua bán hàng hóa không liên quan đến hoạt động kinh doạnh của tổ chức, mua bán hàng hóa với giá trị cao hơn rất nhiều so với thị trường … Các giao dịch tài chính đáng ngờ: Tiền được chuyển qua nhiều tài khoản mà không quan tâm đến phí giao dịch, có sự thay đổi đột biến so với doanh số giao dịch bình thường, giá trị giao dịch không cân xứng với khả năng tài chính của khách hàng … Để cụ thể, căn cứ khoản 1 Điều 10 của Nghị định 74/2005/NĐ-CP và Điều 9 Thông tư 148/2010/TT-BTC ngày 24/9/2010 hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền đối với lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và trò chơi giải trí có thưởng bổ sung khoản 1 Điều 10 của Nghị định số 74/2005/NĐCP thì các giao dịch bị coi là đáng ngờ khi có một trong các dấu hiệu sau: + Các bên liên quan tới giao dịch cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán hoặc thuyết phục cá nhân, tổ chức cung ứng dịch vụ không báo cáo giao dịch đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; + Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp hoặc một giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính. + Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hay uỷ quyền của các cá nhân, tổ chức có liên quan đến hoạt động tội phạm nằm trong danh sách thống kê và cảnh báo do Bộ Công an lập ra nhằm phòng ngừa, đấu tranh chống rửa tiền và chống sử dụng tiền hay tài sản để tạo điều kiện hay tài trợ cho hoạt động phạm tội trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam; + Các giao dịch mà qua thông tin nhận dạng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế và pháp lý của các bên tham gia giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan tới cá nhân, tổ chức có liên quan đến hoạt động tội phạm nằm trong danh sách thống kê và cảnh báo do Bộ Công an lập ra nhằm phòng ngừa, đấu tranh chống rửa tiền và chống sử dụng tiền hay tài sản để tạo điều kiện hay tài trợ cho hoạt động phạm tội trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam; + Các cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch với số tiền có giá trị lớn không tương xứng hoặc không liên quan tới hoạt động thường ngày hay bất cứ hoạt động hợp pháp nào; + Doanh số giao dịch trên tài khoản không phù hợp với thông tin và hoạt động kinh doanh thông thường của khách hàng hoặc có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản của khách hàng. + Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền gửi vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày, nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng không; + Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một khoản tiền lớn hay chuyển qua nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản trong một thời gian ngắn hoặc ngược lại; tiền được chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; + Sử dụng tín dụng thư và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị lớn, chiết khấu với giá trị cao nhằm chuyển tiền giữa các quốc gia khi giao dịch này không liên quan đến hoạt động thường xuyên của khách hàng; + Pháp nhân không thực hiện giao dịch trong một thời gian dài trên tài khoản của mình kể từ khi mở; doanh nghiệp trong nước mở và sử dụng tài khoản ở nước ngoài dưới tên pháp nhân hoặc thể nhân nước ngoài; + Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà không có lý do hợp lý nào. + Chuyển lượng tiền lớn từ tài khoản ngoại hối của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối phiếu; + Doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chi trả tiền ra nước ngoài không phù hợp với tính chất hay nhu cầu của hoạt động kinh doanh; + Giao dịch được tiến hành bởi một khách hàng có liên quan đến các hoạt động bất hợp pháp đã đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng mà tổ chức báo cáo biết hoặc có trong danh sách cảnh báo do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp. + Các công ty bảo hiểm thường xuyên đền bù hoặc chi trả bảo hiểm với số tiền lớn cho cùng một khách hàng; + Các tổ chức chứng khoán chuyển tiền không phù hợp với các hoạt động kinh doanh chứng khoán; + Bất cứ giao dịch nào khác mà các định chế tài chính thấy có biểu hiện bất thường hoặc cơ sở pháp lý không đáng tin cậy.  Dấu hiệu khác của giao dịch đáng ngờ đối với lĩnh vực bảo hiểm: + Khách hàng yêu cầu mua một hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn hoặc yêu cầu thanh toán trọn gói (thanh toán toàn bộ phí bảo hiểm một lần) đối với các sản phẩm bảo hiểm không áp dụng hình thức thanh toán trọn gói, trong khi những hợp đồng bảo hiểm hiện tại của khách hàng chỉ có giá trị nhỏ và thanh toán định kỳ; + Khách hàng yêu cầu ký kết hợp đồng bảo hiểm với khoản phí bảo hiểm định kỳ không tương xứng với thu nhập hiện tại của khách hàng, hoặc yêu cầu mua hợp đồng bảo hiểm liên quan đến công việc kinh doanh nằm ngoài hoạt động kinh doanh thông thường của khách hàng; + Khách hàng đề nghị mua hợp đồng bảo hiểm sử dụng séc ký phát từ một tài khoản không phải là tài khoản cá nhân của khách hàng, hoặc thanh toán bằng các công cụ ngân hàng nhưng là giao dịch khuyết danh hoặc sử dụng và thanh toán trái phiếu qua biên giới; + Khách hàng yêu cầu thay đổi những người hưởng lợi đã chỉ định hoặc người thụ hưởng bằng một người không có mối quan hệ rõ ràng với người mua hợp đồng bảo hiểm; + Khách hàng yêu cầu vay giá trị tiền mặt tối đa của một hợp đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm hoặc sử dụng đơn bảo hiểm để đặt cọc hoặc thế chấp (trừ trường hợp tổ chức tín dụng yêu cầu); + Công ty của khách hàng có thay đổi bất thường về hoạt động của nhân viên hoặc đại lý (Ví dụ số hợp đồng bảo hiểm của nhân viên tăng lên đáng kể hoặc bất thường) hoặc mức hoạt động của hợp đồng đóng phí một lần liên tục vượt quá mức trung bình của công ty; + Khách hàng do một đại lý ở nước ngoài, chi nhánh hoặc công ty có trụ sở ở nước và vùng lãnh thổ không hợp tác do Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) chỉ định hoặc ở nước mà tham nhũng hoặc việc sản xuất và buôn bán ma túy bất hợp pháp có thể đang phổ biến.  Dấu hiệu khác của giao dịch đáng ngờ đối với lĩnh vực chứng khoán + Khách hàng cung cấp thông tin sai lệch, giả mạo hoặc từ chối cung cấp những thông tin cần thiết khi có yêu cầu liên quan đến giá trị và nguồn gốc tài sản của khách hàng tại công ty chứng khoán; + Giao dịch mua, bán chứng khoán có dấu hiệu bất thường trong một ngày hoặc một số ngày do một cá nhân hay một tổ chức thực hiện; + Khách hàng thực hiện chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống mà không có lý do hợp lý; + Tài khoản giao dịch chứng khoán của người không cư trú tại Việt Nam có giá trị lớn được rút ra khỏi Việt Nam và chuyển vào các trung tâm tài chính ở nước ngoài; + Giao dịch mua, bán chứng khoán có nguồn tiền từ các quỹ đầu tư được mở ở các vùng, lãnh thổ được các tổ chức quốc tế xếp loại là có nguy cơ rửa tiền cao.  Dấu hiệu khác của giao dịch đáng ngờ đối với lĩnh vực trò chơi giải trí có thưởng: + Khách hàng có dấu hiệu liên tục cố tình thua khi tham gia các trò chơi có thưởng tại điểm kinh doanh casino và điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng;
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất