Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố đà nẵng...

Tài liệu Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố đà nẵng

.PDF
70
69
102

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỒNG TÂM TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỒNG TÂM TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 838. 01. 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC HÀ HÀ NỘI, năm 2020 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác xây dựng hoàn thiện pháp luật nói chung là một nhiệm vụ chiến lược của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở nước ta. Trong đó hoàn thiện Bộ luật hình sự (BLHS) là một trong những nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đề ra và cũng là để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, hội nhập quốc tế và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhằm thể chế hóa chủ trương trên, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIII (ngày 27 tháng 11 năm 2015) Quốc hội đã thông qua BLHS năm 2015. Tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV ngày 20 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 và có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2018, hợp nhất hai văn bản nói trên đó là BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) sau đây được gọi chung là (BLHS hiện hành). BLHS hiện hành đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình hoàn thiện pháp luật hình sự của Nhà nước ta, tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu trong áp dụng pháp luật hình sự, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra và bảo đảm hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm trong đó có tội phạm về ma túy. Các tội phạm về ma túy được quy định tại Chương XX BLHS năm 2015 với 13 Điều. Bên cạnh việc kế thừa các quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy trong tình hình mới. Mặc dù vậy, thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy nói chung, tội mua bán trái phép chất ma túy (MBTPCMT) nói riêng vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế gây khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Những khó khăn, vướng mắc trên xuất phát từ những quy định về tội MBTPCMT còn thiếu văn bản hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa cụ thể, kịp thời về áp dụng pháp luật đối với tội phạm này. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật về tội 1 MBTPCMT luôn đa dạng, phức tạp trong khi năng lực, trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thực thi, bảo vệ pháp luật còn chưa theo kịp thực tiễn, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật đáp ứng thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung, đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy nói riêng và đặc biệt là những diễn biến khá phức tạp của tình hình tội MBTPCMT tại thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, thì việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện BLHS năm 2015 trong đó có tội MBTPCMT phải được quan tâm thực hiện. Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn Thạc sĩ luật học. Trên cơ sở đó, để có sự nhìn nhận khách quan, toàn diện về những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật hình sự, từ đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tội MBTPCMT là tội phạm phổ biến và có tính chất nguy hiểm nhất trong số các loại tội phạm về ma túy ở Việt Nam hiện nay. Liên quan đến những vấn đề lý luận và pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các tội phạm về ma tuý nói chung, tội MBTPCMT nói riêng đã có nhiều công trình khoa học công bố ở Việt Nam với những mức độ và cách tiếp cận khác nhau. Khái quát về tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn, có thể kể đến những công trình tiêu biểu như: Các tài liệu trên chủ yếu đề cập đến một số vấn đề lý luận về các dấu hiệu pháp lý của tội MBTPCMT và các quy định của BLHS về tội này, tuy nhiên chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tội MBTPCMT. Luận văn đã kế thừa một số vấn đề được nêu trong các giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo để cũng cố phần lý luận về tội MBTPCMT, đồng thời kế thừa một vài quan điểm của các tác giả trong các Bình luận khoa học BLHS để cũng cố kỹ hơn về dấu hiệu pháp lý của tội phạm này. 2 Vì vậy, việc nghiên cứu sâu hơn những quy định về tội MBTPCMT trong Luật hình sự Việt Nam, đồng thời phân tích đánh giá thực trạng giải quyết các vụ án về tội MBTPCMT thông qua số liệu thực tiễn xét xử tại địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019 là cần thiết và có ý nghĩa đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy, nhằm chỉ ra những hạn chế, bất cập, đồng thời đề xuất một số giải pháp và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về tội MBTPCMT góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT trong thời gian tới. Bên cạnh đó, còn có nhiều bài báo khoa học, bài viết chuyên sâu. Các bài viết này, ở một góc độ nào đó chỉ nghiên cứu về lý luận và thực tiễn một số vấn đề có liên quan đến tội MBTPCMT, tình hình công tác phòng ngừa, đấu tranh và TNHS đối với loại tội này… chưa làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội MBTPCMT một cách toàn diện. Khi thực hiện Luận văn, tác giả đã tiếp thu một số quan điểm của các tác giả trên để cũng cố về những điểm bất cập, hạn chế và định hướng kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tội phạm này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; - Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội MBTPCMT theo pháp luật hình sự Việt Nam; - Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019; - Làm rõ những kết quả đạt được; nêu ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy; 3 - Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Tập trung nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. - Về địa bàn: Luận văn được thực hiện trong phạm vi thành phố Đà Nẵng. - Về thời gian: Từ năm 2015 đến 2019. - Về chủ thể: Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy nói riêng. Các luận điểm chung của khoa học pháp lý nói chung và khoa học pháp lý luật hình sự nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, tác giả còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu điển hình như: Phân tích, tổng hợp; nghiên cứu điển hình, cụ thể là: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được kết hợp hài hòa, sử dụng xuyên suốt trong luận văn, dùng để phân tích, phân loại, hệ thống hóa các thông tin khoa học thu thập được từ các văn bản pháp luật, tài liệu, bản án có liên quan đến nội dung của luận văn, từ đó rút ra các kết luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm được sử dụng để nghiên cứu, tiếp thu một số quan điểm của các tác giả trong một số công trình khoa 4 học đã được công bố, từ đó kế thừa những nội dung phù hợp, hữu ích cho luận văn. - Phương pháp nghiên cứu điển hình: Dùng để lựa chọn, sàng lọc và tiến hành nghiên cứu một số bản án (trong toàn bộ bản án), tìm ra những bản án còn thiếu sót, bất cập trong thực tế. Kết quả thu được dùng để đánh giá chung thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn năm 2015 - 2019. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, phát triển lý luận của khoa học pháp lý hình sự nói chung, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự hiện hành đối với tội MBTPCMT nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa như là một tài liệu tham khảo, được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho các học sinh, sinh viên chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự tại các cơ sở giáo dục, đào tạo luật trên cả nước. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS hiện hành liên quan đến tội MBTPCMT, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy. Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy. 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy 1.1.1.1. Khái niệm chất ma túy Danh từ “ma túy” được đề cập nhiều trên hệ thống thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Tuy nhiên hiện nay, trên thế giới và trong nước chưa có một khái niệm thống nhất về “ma túy” và “chất ma túy”. Tại Việt Nam, có nhiều tài liệu đề cập đến khái niệm “ma túy” hoặc “chất ma túy” dưới nhiều góc độ khác nhau như: “Ma túy là tên gọi chung các chất kích thích, gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng quen thành nghiện như thuốc phiện, Hêrôin” [79, tr.994]. “Ma tuý là hợp chất khi đưa vào cơ thể sống có tác dụng làm thay đổi một hay nhiều chức năng của cơ thể” [70, tr.406]. Theo tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc, Nguyễn Như Chiến thì “Ma túy là những chất tự nhiên hay tổng hợp làm ức chế, kích thích thần kinh hoặc gây ảo giác, gây ra những biến đổi về tâm sinh lý và thể chất, nếu sử dụng nhiều lần sẽ gây ra tính lệ thuộc đối với người sử dụng và được quy định trong các Danh mục do Chính phủ ban hành” [36, tr.8]. Theo GS, TS Nguyễn Xuân Yêm thì “Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể con người, nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng ma túy, con người sẽ bị lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng” [93, tr.14]. Khoản 1 Điều 2, Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung 2008) quy định: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các Danh mục do Chính phủ ban hành” [47. tr, 1], qua đó cho thấy rằng 6 cụm từ “chất ma túy” được định nghĩa và giải thích gián tiếp qua các khái niệm chất gây nghiện và chất hướng thần. Có thể thấy rằng các nhà làm luật khi đưa ra khái niệm về “ma túy” hay “chất ma túy” đã có nhiều cách tiếp cận, lý giải khác nhau, nhưng chưa thống nhất cách gọi tên “ma túy” hay “chất ma túy” đồng thời nội hàm khái niệm cũng chưa có sự thống nhất. Tuy nhiên, các quan điểm nêu trên đã đưa ra được thuộc tính chung nhất của “ma túy” hay “chất ma túy” đó là tính chất gây nghiện, chất hướng thần có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, được quy định trong các Danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành. Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm chất ma túy như sau: Chất ma túy là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, được quy định trong các Danh mục do Chính phủ ban hành, các chất này khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng, người sử dụng sẽ lệ thuộc vào ma túy, khi đó sẽ gây tác hại về nhiều mặt cho chính bản thân họ và có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. 1.1.1.2. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy Ngoài quy định chi tiết tại Mục 3, Phần II, Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT ngày 24/12/2007 quy định về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 (gọi tắt là Thông tư 17). Đến nay đã có nhiều tài liệu khác nhau đưa ra cách giải thích về từ “mua” và từ “bán” hay cả cụm từ “mua bán”. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng năm 1997 thì “mua là dùng tiền bạc đổi hàng hóa, vật chất, danh lợi” [91, tr.657] “bán là đem đổi vật dụng cho người khác để lấy tiền về, “mua bán” là mua và bán, trao đổi hàng hóa nói chung” [91, tr.47]. Khi định nghĩa về tội phạm này, một số nhà chuyên tâm nghiên cứu đã đưa ra các quan điểm như: Tác giả Lê Cảm cho rằng: “Hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào” [9, tr.473] Theo tác giả Trần Mạnh Hà: “Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán 7 trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc nguồn gốc ma túy do đâu mà có) hoặc hành vi trao đổi ma túy như một hàng hóa có giá trị” [25, tr.17]. Còn thạc sĩ Lê Nguyễn Minh Tâm thì: “Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán trái phép chất ma túy hoặc nhằm bán trái phép chất ma túy cho người khác” [55, tr.10] Như vậy, nhìn chung các nhà khoa học và nhà làm luật có hai quan điểm khác nhau về tội MBTPCMT: Một là, nêu một cách chung chung chưa thể hiện rõ nội hàm của tội phạm này, nên chưa thể xác định được các hành vi phạm tội một cách chính xác. Hai là, được nêu lên theo cách liệt kê các hành vi cụ thể để cấu thành tội phạm (CTTP) theo quy định của Thông tư 17 làm cho khái niệm tội MBTPCMT trở nên dài dòng hoặc rời rạc, chưa kết nối được các nội dung lại với nhau. Qua việc nghiên cứu, kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những quan điểm đó, tác giả xin đưa ra khái niệm về tội MBTPCMT như sau: “Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán, trao đổi hoặc nhằm bán trái phép chất ma túy cho người khác, hoặc hành vi tổ chức, thực hành, xúi giục, giúp sức cho người khác trong việc bán, trao đổi chất ma tuý mà không cần xét đến nguồn gốc chất ma tuý do đâu mà có”. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội mua bán trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi liên quan đến ma túy mà các Công ước quốc tế đã đề cập, tạo nên sự thống nhất hợp lý trên cơ sở luật pháp quốc tế với hệ thống pháp luật quốc gia để xử lý về hình sự đối với các hành vi MBTPCMT. Tạo ra những điều kiện thuận lợi trong hợp tác quốc tế trên lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm ma túy nói chung và tội phạm MBTPCMT nói riêng, vì hầu hết các quốc gia đều có quy định về tội phạm ma túy trong đó có tội MBTPCMT. Thứ hai, góp phần hạn chế việc thực hiện các hành vi MBTPCMT trên thực tế vì việc xử lý hình sự các hành vi này có tác dụng vừa giáo dục, cải tạo vừa trừng phạt người phạm tội MBTPCMT để họ trở thành người tốt, đồng thời có tác dụng 8 răn đe những người có ý định phạm tội, chuẩn bị hoặc đang phạm tội từ bỏ con đường phạm tội, những người đã phạm tội hạn chế hoặc không tái phạm. Thứ ba, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc chấp hành pháp luật, mọi hành vi MBTPCMT đều là vi phạm pháp luật hình sự và phải bị xử lý về hình sự, với những hình phạt nghiêm khắc đối với tội MBTPCMT sẽ làm cho mọi người hiểu về tính chất nguy hiểm của các hành vi phạm tội này. Thứ tư, việc xử lý về hình sự đối với các hành vi MBTPCMT sẽ đạt được mục đích của việc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Mục đích của việc đấu tranh phòng, chống tội phạm là hạn chế, ngăn chặn, giảm bớt tội phạm; loại trừ tội phạm và làm cho tình hình tội phạm ổn định [90]. Việc xử lý hình sự đối với tội phạm này sẽ mang lại hiệu quả tích cực hơn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tóm lại, việc quy định tội MBTPCMT trong Luật hình sự Việt Nam là một đòi hỏi khách quan và có tính tất yếu cả về lý luận và trong thực tiễn của đời sống xã hội. Những quy định này không chỉ phản ánh trung thực các điều kiện kinh tế xã hội và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị ở Việt Nam hiện nay, mà còn thể hiện rõ quan điểm, quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta cũng như nỗ lực của toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề phức tạp và cấp bách mang tính toàn cầu: Tệ nạn ma túy và tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. 1.1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định tội mua bán trái phép chất ma túy - Giai đoạn trước năm 1945 Những năm đầu thế kỷ thứ XIX, chính quyền Nhà Nguyễn quyết tâm diệt tận gốc vấn nạn này và đã ban hành các chính sách “lấp nguồn, cạn dòng”. Tháng 6 năm 1873, trước tệ nạn nghiện thuốc phiện, buôn bán thuốc phiện ngày càng tăng. Triều đình lại ban hành trở lại lệnh “Cấm thuốc nha phiến” nhưng những biện pháp này đã không mang lại hiệu quả như mong muốn. Giai đoạn này chưa có sự quy định rõ ràng, cụ thể về tội mua bán trái phép chất ma túy. - Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985 9 Ngày 03/9/1945, trong phiên họp Chính phủ bàn về “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo “…Tôi đề nghị tuyệt đối cấm thuốc phiện” [94, tr.885]. Trải qua nhiều mốc thời gian, nhận thấy, trong giai đoạn này pháp luật hình sự Việt Nam chưa được hệ thống hóa một cách chính thức. Các văn bản quy phạm pháp luật đơn ngành không thể hiện được tính toàn diện, đầy đủ và thống nhất chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý tội phạm về ma túy. Vì vậy, việc ban hành một BLHS hoàn chỉnh, có tính hệ thống là vấn đề khách quan, bức thiết và có ý nghĩa quan trọng và BLHS 1985 ra đời đáp ứng yêu cầu đó. - Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1999 BLHS 1985 đã bước đầu quy định về các tội ma túy, qua nhiều lần sửa đổi, ngày 10/5/1997 Quốc hội tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung (lần thứ 4) một số điều BLHS 1985. Lần này các tội phạm về ma túy được quy định thành một Chương riêng đó là Chương VIIA: “Các tội phạm về ma túy” gồm 14 điều từ điều 185a đến Điều 185o quy định 13 tội danh. Trong đó “Tội mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 185đ. Trong quá trình thực hiện BLHS 1985 vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng được tình hình hiện tại, yêu cầu cần phải nghiên cứu sửa đổi một cách toàn diện. Vì vậy, ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X đã thông qua BLHS 1999, có hiệu lực từ 0h ngày 01/07/2000. Theo đó, các tội phạm về ma túy được quy định tại Chương XVIII, gồm 10 tội danh, từ Điều 192 BLHS đến Điều 201 BLHS [40]. 10 - Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 2015 Ngày 03/6/2008 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy. Để áp dụng thống nhất quy định các tội phạm về ma túy, ngày 24 tháng 12 năm 2007 Thông tư 17 ra đời. Đến ngày 14/11/2015 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC sửa đổi bổ sung một số điểm của Thông tư 17 (gọi tắt là Thông tư 08) quy định hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các Điều 194 nói riêng và Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” nói chung của BLHS 1999. Các văn bản này đã hướng dẫn cụ thể, chi tiết và toàn diện các quy định về tội phạm ma túy góp phần tháo gỡ nhiều vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ma túy. Tuy nhiên tình hình tội phạm ma túy, nghiện ma túy tại Việt Nam còn nhiều diễn biến phức tạp. Xuất hiện nhiều loại ma túy mới; việc buôn bán, vận chuyển, sản xuất ma túy tổng hợp gia tăng; người sử dụng và người nghiện ma túy tổng hợp tăng nhanh, nhất là trong thanh, thiếu niên và học sinh gây bức xúc trong xã hội, đây là vấn đề toàn xã hội quan tâm, điều đó đã thôi thúc các nhà làm luật cần phải xây dựng BLHS mới để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với từng thời kỳ, chính vì thế BLHS 2015 ra đời. - Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 đến nay Ngày 20/6/2017, các đại biểu Quốc hội đã tiến hành biểu quyết thông qua Luật số 12/2017/QH14 (gọi chung là BLHS hiện hành) và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Theo Bộ luật này, tội MBTPCMT được quy định riêng tại Điều 251 và có nhiều điểm mới so với Điều 194 BLHS năm 1999 mà rõ ràng nhất là so với BLHS 1999 là đã tách tội ghép quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 về “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” thành 04 tội riêng biệt đó là: Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Điều 249; Tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” - Điều 250; Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” - Điều 251 và Tội “Chiếm đoạt chất ma túy” - Điều 252. 11 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy 1.2.1. Quy định về tội mua bán trái phép chất ma túy trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tội MBTPCMT được quy định riêng tại Điều 251 - Chương XX “các tội phạm về ma túy” của BLHS hiện hành. Để có cách hiểu khái quát hơn về tội phạm này, tác giả tập trung phân tích làm rõ 03 nội dung: Dấu hiệu định khung cơ bản; dấu hiệu định khung tăng nặng và hình phạt. - Dấu hiệu định khung cơ bản Cấu thành cơ bản của tội MBTPCMT được quy định tại khoản 1, Điều 251, chỉ cần thực hiện các hành vi mua bán trái phép chất ma túy (trường hợp phạm tội không có các tình tiết là yếu tố định khung). - Các dấu hiệu định khung tăng nặng Định khung tăng nặng theo khối lượng và thể tích các chất ma túy: 12 Khung hình phạt Khoản 4 Khoản 2 Khoản 3 (tù từ 07 năm (tù từ 15 năm đến 15 năm) đến 20 năm) 500 gam đến 01 kilôgam đến 05 kilôgam dưới 01 kilôgam dưới 05 kilôgam trở lên 05 gam đến 30 gam đến 100 gam dưới 30 gam dưới 100 gam trở lên lá, rễ, thân, cành, hoa, 10 kilôgam đến 25 kilôgam đến 75 kilôgam quả của cây cần sa dưới 25 kilôgam dưới 75 kilôgam trở lên Quả 50 kilôgam đến 200 kilôgam đến 600 kilôgam thuốc phiện khô dưới 200 kilôgam dưới 600 kilôgam trở lên Quả 10 kilôgam đến 50 kilôgam đến 150 kilôgam thuốc phiện tươi dưới 50 kilôgam dưới 150 kilôgam trở lên Các chất ma tuý khác 20 gam đến 100 gam đến 300 gam ở thể rắn dưới 100 gam dưới 300 gam trở lên Các chất ma tuý khác 100 mililít đến 250 mililít đến 750 mililít ở thể lỏng dưới 250 mililít dưới 750 mililít trở lên Chất ma túy Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca (tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy 13 Ngoài các chất ma túy đã được quy định ở các khoản khác nhau của điều luật như nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca, Heroine và Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 thì còn lại các chất ma túy ở thể rắn đều thuộc trường hợp các chất ma túy khác ở thể rắn. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn thế nào là chất ma túy khác ở thể rắn, vì vậy căn cứ vào quy định của BLHS chỉ quy định hai loại thể lỏng và thể rắn, thế nên ngoài thể lỏng thì các chất ma túy còn lại đều được coi là thể rắn và thường gặp ở dạng bột, tinh thể, viên, bánh… Ngoài các dấu hiệu định khung tăng nặng theo định lượng nêu trên thì trong các khoản của điều luật còn quy định các dấu hiệu định khung tăng nặng khác. Các dấu hiệu định khung tăng nặng khác được quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS hiện hành, cụ thể đó là: Có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho người dưới 16 tuổi; qua biên giới; có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này; tái phạm nguy hiểm. Bên cạnh đó còn có các dấu hiệu định khung tăng nặng theo khoản 3, 4 Điều 251 BLHS năm 2015. Hiện nay việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại các điểm p khoản 2, h khoản 3, 4 của Điều 251 BLHS hiện hành được quy định cụ thể, chi tiết tại Điều 4, 5 của Nghị định 19/2018/NĐ-CP, ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của BLHS năm 2015. - Hình phạt Điều 251 BLHS hiện hành quy định về tội MBTPCMT có 02 loại hình phạt, đó là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. + Hình phạt chính Hình phạt chính tội MBTPCMT được chia làm 04 khung hình phạt: 14 Khung hình phạt Tội mua bán trái phép chất ma túy Khoản 1 Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm Khoản 2 Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm Khoản 3 Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm Khoản 4 Phạt tù từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình Như vậy, có thể nhận biết mức hình phạt thấp nhất của tội MBTPCMT là phạt 02 năm tù và mức hình phạt cao nhất là tử hình. + Hình phạt bổ sung Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5, Điều 251, mức thấp nhất của hình phạt bổ sung là 5.000.000 đồng và mức cao nhất là 500.000.000 đồng. Điều luật chỉ quy định người phạm tội “còn có thể” bị phạt tiền, bên cạnh đó mức cao nhất và mức thấp nhất của hình phạt bổ sung có mức độ giãn cách lớn, điều này có nghĩa là người phạm tội có bị phạt tiền hay không và mức phạt tiền cụ thể là bao nhiêu thì tùy thuộc vào những trường hợp cụ thể và do Tòa án quyết định. 1.2.2. Những điểm mới của tội mua bán trái phép chất ma túy trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) Qua việc tập trung nghiên cứu, so sánh BLHS hiện hành tác giả nhận thấy rằng các quy định về tội MBTPCMT trong BLHS 2015 có nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), cụ thể như sau: BLHS năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung, thay thế, loại trừ những quy định hoặc Điều luật khi nó không còn phù hợp với thực tiễn, nhưng đồng thời cũng đã kế thừa tương đối các quy định của BLHS năm 1999. So với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy quy định tại Điều 194 BLHS 1999, tội MBTPCMT tại Điều 251 trong BLHS năm 2015 có những điểm mới như sau: - Các dấu hiệu định khung tăng nặng đối với tội mua bán trái phép chất ma túy + Bộ luật hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa tình tiết “phạm tội nhiều lần” bằng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”. Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, chính 15 vì vậy tại thời điểm nghiên cứu chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về việc thi hành các điều luật. Nhưng xét về bản chất của tình tiết “phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 và tình tiết “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999 đều có các đặc điểm như sau: Người phạm tội ít nhất hai lần mua bán trái phép chất ma túy, tác động đến cùng một đối tượng hoặc nhiều đối tượng khác nhau, tác động ở một thời điểm hoặc ở nhiều thời điểm khác nhau (khi chưa bị phát hiện); nếu tách ra từng hành vi phạm tội riêng lẻ thì mỗi hành vi ấy đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập; tất cả các hành vi phạm tội này đều được quy định trong cùng điều luật, có thể cùng một khoản, cũng có thể ở các khoản khác nhau; các hành vi phạm tội này chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật như: đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, … và tất cả các hành vi đó cùng được đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án. + Bổ sung tình tiết mới “phạm tội đối với 02 người trở lên”. Đây là tình tiết mới được bổ sung đối với tội MBTPCMT. Tại thời điểm tác giả nghiên cứu, đã có Công văn số 5887/VKSTC-V14 ngày 05 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến BLHS, BLTTHS 2015 và thi hành án hình sự, theo đó Công văn đã hướng dẫn về tình tiết này cụ thể như sau: Tình tiết “phạm tội đối với 02 người trở lên”, cần được hiểu là trong một lần thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội đối với 02 người trở lên (có thể 02 người hay nhiều người cùng mua ma túy một lúc hay mỗi người có thể giao dịch trước nhưng việc giao nhận ma túy tiến hành cùng một thời gian, cùng thời điểm hoặc 02 hay nhiều người cùng góp tiền và trực tiếp đi mua ma túy). Như vậy tình tiết mới này đã thể hiện được tính chặt chẽ, đáp ứng được thực tiễn đặt ra trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội MBTPCMT, đồng thời làm rõ và phân biệt với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên”. Tác giả nhận thấy đây là tình tiết được bổ sung kịp thời nhằm hạn chế tác hại của ma tý, cũng như nhằm ngăn chặn sự lây lan ma túy trong cộng đồng [85, tr.5]. 16 + Cụ thể hóa cụm từ “trẻ em” bằng “người dưới 16 tuổi” trong tình tiết “sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em”. Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung tình tiết tăng nặng mới này nhằm phù hợp với điều kiện thực tế và những công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc đã ký kết. Tình tiết này tại BLHS năm 1985 chỉ mới giới hạn ở “người chưa thành niên” (điểm c, khoản 2, Điều 185đ), sang BLHS năm 1999 quy định thành “sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em” điểm a, khoản 2, Điều 194 và BLHS năm 2015 đã sửa đổi thành: “sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi”. Quá trình sửa đổi tình tiết này thể hiện rõ ràng việc pháp luật ngày càng gắn liền với thực tiễn đời sống, chi tiết hóa một cách chính xác nhất để dễ dàng áp dụng vào điều chỉnh xã hội. + Bổ sung thêm 03 loại chất ma túy mới “Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11” vào cùng nhóm với các chất ma túy Heroine, Cocaine; + Bổ sung thêm “rễ, thân, cành cây cần sa; lá khát (lá cây Catha edulis) hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy” nằm trong các danh mục do Chính phủ quy định vào nhóm lá, hoa, quả của cây cần sa, lá cây côca; + Sửa đổi cách viết tên các chất ma túy thống nhất với cách viết tên trong danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành từ “hêrôin” thành “Heroin”, từ “côcain” thành “Cocaine”; + Thay đổi đơn vị tính các chất ma túy từ “trọng lượng” thành “khối lượng” (vì các vụ án ma túy từ trước đến nay khi thu giữ được vật chứng đều được xác định bằng gam, kilôgam… đây chính là đơn vị tính khối lượng chứ không phải trọng lượng), “tổng số lượng” thành “tổng khối lượng hoặc thể tích”. Bên cạnh đó bổ sung thêm cụm từ “có thể tích” vào các chất ma túy khác ở thể lỏng. 1.2.3. Dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội MBTPCMT là một nội dung quan trọng. Để nhận thức rõ dấu hiệu pháp lý hình sự của tội MBTPCMT, cần phải nghiên cứu làm rõ bốn yếu tố: Khách thể, khách quan, chủ thể, chủ quan của tội phạm. - Khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy 17 Khách thể của tội phạm là yếu tố cơ bản không thể tách rời của tội phạm. “Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [81, tr.100]. Khách thể loại của tội phạm là các nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất và đặc điểm giống nhau được Luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm phạm [68, tr.94]. Tội MBTPCMT quy định tại Điều 251 BLHS hiện hành có khách thể trực tiếp là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất ma túy. Các chất ma túy này hiện có 540 chất ma túy thuộc danh mục quản lý của Chính phủ, chia làm 4 nhóm sau: Nhóm các chất ma túy an thần: Thuốc phiện, Morphine, Heroine; Nhóm các chất ma túy gây kích thích: Methamphetamine, Ketamine, Ecstacy, Amphetamine; Nhóm các chất ma túy gây ảo giác: Cần sa và các sản phẩm của cần sa thảo mộc, nhựa tinh dầu cần sa lysergide (LSD); Nhóm các chất ma tuý có thuộc tính gây nghiện: Các loại thuốc tân dược có thành phần là chất gây nghiện như thuốc giảm đau, thuốc an thần, một số loại thuốc ho, thuốc cảm cúm, … - Mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại trong thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm như thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ phạm tội, hoàn cảnh phạm tội… [55, tr.15]. Hành vi MBTPCMT được thể hiện qua một trong các hành vi được quy định tại tiểu mục 3.3, Mục 3, Phần II của Thông tư 17. Đồng thời tác giả cũng nhất trí với quan điểm của một số nhà chuyên tâm nghiên cứu và nhận thấy rằng các hành vi khách quan của tội MBTPCMT có 03 nhóm hành vi cơ bản, đó là: - Nhóm hành vi thứ nhất: Hành vi “bán” trái phép chất ma tuý (tại các điểm a, b, c, e, g thuộc tiểu mục 3.3). Hành vi này có thể là mua được, xin được, nhặt được, người khác gửi tặng hoặc chiếm đoạt được, cất giữ trái phép, vận chuyển trái phép, chuyển dịch bất hợp pháp từ nơi này đến nơi khác, tất cả các hành vi trên đều 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan