Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác theo pháp luật...

Tài liệu Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố vinh, tỉnh nghệ an

.PDF
90
157
122

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG VĂN SƠN TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG VĂN SƠN TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI – 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tác giả luận văn Hoàng Văn Sơn MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.................... 8 1.1. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .................................................................................................. 8 1.2. Sự cần thiết và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác .............................................................. 12 1.3. Những quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác trong Luật hình sự một số nước trên thế giới ............... 15 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC .............................................................. 18 2.1. Quá trình phát triển của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong luật hình sự Việt Nam ............................ 18 2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi) về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................... 26 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC ....................... 58 3.1. Thực tiễn việc áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở thành phố Vinh,tỉnh Nghệ An ......................................................................... 58 3.2. Các giải pháp nhằm áp dụng đúng quy định của Bộ luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ....... 68 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT XHCN :Xã hội chủ nghĩa BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm CYGTT : Cố ý gây thương tích HĐTP : Hội đồng thẩm phán TAND : Tòa án nhân dân THTT : Tiến hành tố tụng TNHS : Trách nhiệm hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1: Số liệu, tỷ lệ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội phạm nói chung ..................................... 60 Bảng 3.2: Số liệu, tỷ lệ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các tội về trật tự trị an nói chung................ 60 Bảng 3.3: Kết quả truy tố tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo từng khoản cụ thể ............................... 63 Bảng 3.4: Hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo bị xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ..... 65 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề bảo vệ con người tạo dựng một xã hội trong sạch và lành mạnh đảm bảo cho sự phát triển của xã hội, của đất nước là nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt bảo vệ con người gắn với việc bảo vệ sức khoẻ và tính mạng được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển do công cuộc đổi mới cũng như hội nhập quốc tế, giao lưu kinh tế với các nước trên thế giới thì tình hình tội phạm ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp. Theo đó quyền con người luôn được pháp luật bảo hộ, nhất là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Chính vì thế mà các cơ quan bảo vệ pháp luật đã luôn tích cực đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người và đặc biệt là các hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác và được quy định rất sớm trong pháp luật hình sự ở nước ta Cùng với tình hình đổi mới và đi lên chung của đất nước, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An - là một trong những trung tâm văn hoá chính trị của khu vực miền Trung, đạt được nhiều thành tựu to lớn, ngày càng khẳng định được vị trí của mình, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, tuy nhiên kéo theo đó cũng nảy sinh sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, sự tha hoá về đạo đức, lối sống, sự xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội cũng như các loại tội phạm như về trộm cắp, cướp giật, ma tuý, mại dâm, các tội xâm phạm sức khoẻ, danh dự nhân phẩm của người khác, trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác có chiều hướng gia tăng, xâm phạm trực tiếp tới khách thể được Pháp luật hình sự bảo vệ đó là tính mạng sức khoẻ của con người. Hậu quả mà tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn 1 hại cho sức khỏe của người khác là rất lớn, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người bị hại, ảnh hưởng tới tình hình trật tự, an ninh của xã hội. Bên cạnh đó thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác còn có nhiều vướng mắc, nhiều vụ án rất khó trong việc điều tra,truy tố dễ dẫn đến hiện tượng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Quy định của pháp luật hình sự, xét xử về loại tội này còn chưa thống nhất, còn nhiều bất cập. Do đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng chính là lý do mà tác giả chọn nghiên cứu đề tài "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt nam từ thực tiễn Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không phải là vấn đề mới mẻ, đã có khá nhiều sách, công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên các tạp chí pháp lý đề cập đến loại tội phạm này. Tuy nhiên, hiện nay tội phạm này là một trong các vấn đề nóng trong xã hội, diễn biến với tính chất ngày càng phức tạp nên đã được nhiều nhà khoa học Luật gia đề cập, nghiên cứu ở nhiều hình thức, mức độ, khía cạnh khác nhau nhưng các công trình nghiên cứu này chủ yếu tiếp cận ở các góc độ khái quát chung nhất hoặc dưới góc độ so sánh tội phạm này với các loại tội phạm khác trong cùng chương hoặc các công trình nghiên cứu đó nghiên cứu tại thời điểm áp dụng BLHS cũ, đã gần hết hiệu lực, phạm vi bài viết thuộc các địa phương khác nhau như: Trong các giáo trình luật hình sự như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội năm 2008; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm cụ thể của Trung tâm đào tạo từ xa Đại học Huế; Giáo trình Luật 2 hình sự Việt Nam phần các tội phạm cụ thể của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2005; Trong các công trình nghiên cứu khoa học về luật hình sự; Các tập bình luận khoa học về luật hình sự... Các công trình nghiên cứu đối với tội danh này như các bài viết trong các luận văn thạc sỹ, tiến sỹ của một số tác giả: Luận văn thạc sỹ Luật học về “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Tô Ngọc Đường - Học viện khoa học xã hội, năm 2011; Luận án tiến sĩ luật học “ Đấu tranh phòng, chống tội CYGTT trên địa bàn tỉnh Thái Bình” của tác giả Phạm Thị Mỹ Hương - Học viện khoa học xã hội năm 2016; Luận văn thạc sỹ Luật học về “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của tác giả Trần Cẩm Thanh - Học viện khoa học xã hội, năm 2016 và “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Thị Hoà - Viện khoa học xã hội, năm 2016... Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên, còn rất nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, như Tạp chí Kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Tạp chí Tòa án nhân dân, trên rất nhiều số đã đề cập đến loại tội này trên nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau như bài viết của tác giả: Nguyễn Văn Dũng, Bàn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2018; Đỗ Đức Hồng Hà, Các quan điểm chung quanh quy định về chuẩn bị tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7 (335)/2017; Nguyễn Thanh Bình “ Một số giải pháp, kiến nghị nhằm phòng, chống tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang”, tạp chí kiểm sát số 7 (4/2010); bài viết của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà “Các quan điểm chung quanh 3 quy định về chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác”, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 07 (4/2017); hay bài viết của Đại tá, PGS.TS. Bùi Văn Thịnh và ThS Vũ Bá Xiêm “Một số quy định của pháp luật liên quan đến việc xác định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 BLHS”, tạp chí TAND kỳ II số 18 (9/2014); Nguyễn Anh Tuấn, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7 (321)/2007; Trần Nguyên Quân, Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng của tội cố ý gây thương tích, Tạp chí Kiểm sát số 1/2014; Nguyễn Nông, Phân biệt tội "giết người" với tội "cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác" trong trường hợp dẫn đến chết người, Tạp chí Kiểm sát, số 21/2005…. Các công trình nghiên cứu trên đã đạt được những thành tựu nhất định trong công cuộc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành, đánh giá, nhận xét những điểm mà nhà làm luật đã làm được trong thời gian vừa qua để từ đó có thể đi đến việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng; đánh giá những bất cập, hạn chế mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa làm được; hay những quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn trong việc áp dụng pháp luật,… Tuy nhiên, mỗi vùng miền lại có những đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội dẫn đến tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở mỗi nơi là khác nhau. Đặc biệt thành phố Vinh, Nghệ An – thành phố có vị trí quan trọng ở miền Trung sẽ mang đến góc nhìn mới mẻ hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn hướng đến việc nghiên cứu làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người 4 khác theo luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn trên địa bàn thành phố Vinh, Nghệ An, từ đó xác định những bất cập để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác cũng như đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định Bộ luật hình sự năm 2015 về tội phạm này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: - Phân tích làm rõ vấn đề lý luận chung của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. - Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong luật Hình sự Việt Nam từ thời kỳ trước Cách mạng tháng 8 cho đến nay, làm rõ khái niệm, quy định của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi. - Nghiên cứu thực tiễn xử lý tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo quy định của BLHS năm 1999 trên địa thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong thời gian 05 năm (từ năm 2013 đến 2017). Từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể góp phần nâng cao chất lượng truy tố loại tội phạm này trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung và thực tiễn áp dụng về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cụ thể: khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội phạm này, các dấu hiệu pháp lý, cũng như thực tiễn áp dụng đối với tội cố ý gây thương 5 tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nội dung đề tài thực hiện trong phạm vi của chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự về tội cố ý gây thưng tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác quy định tại Điều 104 BLHS 1999 và Điều 134 BLHS 2015, sửa đổi. Đề tài tập trung nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn của thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An từ năm (2013-2017). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn giải quyết các nội dung khoa học của đề tài dựa trên quan điểm của chũ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp khảo sát, thực tiễn; phương pháp thống kê số liệu tổng kết hàng năm trong các báo cáo của Viện kiểm sát và các tài liệu vụ án hình sự trong thực tiễn để hoàn thành các nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của Điều 104 BLHS năm 1999 (về nhóm các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác). Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở Việt Nam; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nâng cao chất lượng truy tố loại tội này nói chung và ở thành phố Vinh, Nghệ An nói riêng. 6 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có ý nghĩa quan trọng về cả lý luận và thực tiễn, đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện dưới góc độ pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cụ thể trong việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Luận văn có thể là một trong những tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp tại các cơ sở đào tạo luật. Trang bị kiến thức cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái niệm, đặc điểm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật Hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ an. 7 Chương 1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHOẺ CHO NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Pháp luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu, sắc bén trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân, góp phần ổn định, duy trì trật tự kinh tế- xã hội. Đặc biệt trong chế độ Xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện nay thì vấn đề về tính mạng, sức khoẻ danh dự, nhân phẩm con người luôn được pháp luật bảo vệ. Vì thế mà tại khoản 1, Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 quy định rõ khái niệm tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” [17, tr.13] mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Cho đến nay, trong Bộ luật Hình sự Việt Nam chưa có một định nghĩa cụ thể về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuỳ vào góc độ tiếp cận mà có nhiều cách hiểu khác nhau. 8 Có định nghĩa cho rằng: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác”, có định nghĩa cho rằng: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe”. [4, tr.137] Tuy nhiên, từ khái niệm chung về tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 thì có thể hiểu khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý nhằm gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Sức khoẻ ở đây theo Từ điển Bách khoa Việt Nam là: Trạng thái đầy đủ về vật chất, tâm thần mà không chỉ có nghĩa là không có bênh hay thương tật; cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có hiệu quả. Tội cố ý gây thương tích là hành vi cố ý làm cho người khác bị thương, xâm phạm vào tính mạng, sức khoẻ của con người được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Hành vi cố ý gây thương tích bị coi là tội phạm và tội phạm đó được quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo Điều luật này thì tội cố ý gây thương tích (CYGTT) được hiểu là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác chính là hành vi cố ý như: đâm, chém, đấm, đá, đầu độc...xâm hại đến sức khoẻ của con người làm cho người đó bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ làm mất đi một phần hay toàn bộ sức lực sẵn có của chính người đó, ảnh hưởng tới một phần hay nhiều bộ phận trên cơ thể con người như bàn tay, bàn chân, thân thể, mặt... để lại những 9 trạng thái bất thường hay thương tật hoặc làm giảm đi một phần chức năng hoạt động của một số bộ phận trên cơ thể khiến cho họ khó khăn trong hoạt động hơn khi chưa có những thương tích nhất định. Xét về góc độ nào đó thì hành vi này cũng giống hành vi của tội giết người, nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm thấp hơn nên nó chỉ làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không làm cho nạn nhân bị chết. Hành vi của người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác được thực hiện do lỗi cố ý, tức là người phạm tội nhận thức được rõ hành vi của mình nhất định sẽ gây ra thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ cho người khác nhưng vẫn ý thức để mặc cho hậu quả đó xẩy ra. Hậu quả của hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ cho nạn nhân. Thương tích ở đây là căn cứ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự, xác định có tội hay không có tội, thương tích đó phải được đánh giá một cách chính xác, cụ thể thông qua hoạt động giám định của Hội đồng giám định y khoa. Hành vi gây thương tích có thể được thực hiện với sự hỗ trợ của công cụ, phương tiện hoặc dùng sự tác động bằng thực thể, và phải có thương tích trên thực tế thì người thực hiện hành vi mới có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hậu quả của tội phạm này là gây thương tích hoặc tổn thương đến sức khoẻ cho người khác ở mức độ đáng kể theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 là có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% và nó thuộc một trong các trường hợp sau: - Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người (điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS); - Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân (điểm b khoản 1 Điều 104 BLHS); - Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người (điểm c khoản 1 Điều 104 BLHS); 10 - Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ (điểm d khoản 1 Điều 104 BLHS); - Phạm tội đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình (điểm đ khoản 1 Điều 104 BLHS); - Phạm tội có tổ chức (điểm e khoản 1 Điều 104 BLHS); - Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục (điểm g khoản 1 Điều 104 BLHS); - Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê (điểm h khoản 1 Điều 104 BLHS); - Phạm tội có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm (điểm i khoản 1 Điều 104 BLHS); - Phạm tội để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS). - Tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người (khoản 3 Điều 104 BLHS). Trường hợp này xét về mặt chủ quan thì người phạm tội chỉ muốn gây thương tích, hoặc để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không mong muốn cho nạn nhân chết. Khi thực hiện tội phạm, người phạm tội không nhận thức được hoặc chưa nhận thức được có thể xẩy ra hậu quả chết người. Trong trường hợp này, người phạm tội chỉ cố ý đối với việc gây thương tích, không cố ý giết chết người. Trên cơ sở các quan điểm trên cũng như các quy định của BLHS hiện hành, tác giả đưa ra khái niệm về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý tác động trái pháp luật đến thân thể của người khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực, gây thiệt hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự, do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”. 11 1.2. Sự cần thiết và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác Kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm nhìn chung, vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là tội phạm xâm phạm về tính mạng sức khoẻ danh dự nhân phẩm con người. Điều này đã làm cho vấn đề về quyền con người, về việc bảo vệ tính mạng sức khoẻ của con người càng trở nên quan trong hơn bao giờ hết. Vì thế những quy định BLHS về quyền con người trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn thể hiện ở một số điểm chủ yếu như sau: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhất là vấn đề về xâm phạm về tính mạng sức khoẻ của con người. Trước đây, khi nền kinh tế nước ta còn đang ở thời kỳ tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển một cách lành mạnh. Một số quy định của Bộ luật về tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ danh dự nhân phẩm của con người chưa được quy định rõ ràng, chỉ mới được áp 12 dụng một cách chung chung nên công tác đấu tranh, ngăn ngừa tội phạm tỏ ra không mấy hiệu quả. Bên cạnh đó, nhằm thể thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề con người và hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Đồng thời, để có biện pháp ngăn chặn đối với những người có hành vi coi thường tính mạng sức khoẻ con người thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác. Đặc biệt, sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với tính cách là công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Theo đó, thì BLHS cần ghi nhận điều luật quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc xâm phạm đến tính mạng sức khoẻ của người khác một cách cụ thể và rõ ràng hơn theo hướng bảo đảm xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tạo điều kiện thuận lợi để người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng. Kể từ khi chưa có quy định về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong BLHS một cách cụ thể cho đến khi BLHS năm 1985 của nước ta ra đời còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp, việc định tội, định khung cũng như cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt tội phạm này nên ít nhiều đã có những bất cập việc hướng dẫn thi hành và áp dụng loại tội này trên thực tế.Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về tính mạng sức khoẻ của con người; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội 13 nhập quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền của người dân. Do đó, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là rất cần thiết và mang lại những ý nghĩa nhất định sau: Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác trong bộ luật hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội. Trên cơ sở của việc xác định đúng tội phạm, chính xác về hành vi của người phạm tội, các cơ quan thực hành quyền công tố, cơ quan tiến hành tố tụng có thể truy tố, đưa ra quyết định đúng đắn, chính xác, tương xứng với hành vi mà người phạm tội đã thực hiện. Trên cơ sở tội danh đã được quy định trong Bộ luật hình sự giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đúng tội phạm, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, loại trừ việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và kết án oan sai, vô căn cứ đối với những người có hành vi không nguy hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết định hình phạt công bằng đối với những người phạm tội. Dựa vào quy định của Bộ luật hình sự để làm cơ sở áp dụng chính xác các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời hạn điều tra, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và việc ra các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo có căn cứ và đúng pháp luật, sẽ góp phần đắc lực vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bên cạnh đó giúp các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án tuân thủ chính xác các quy định của đạo luật hình sự, áp dụng điều, khoản, điểm của điều luật hoặc tổng hợp các điều luật bao quát được hành vi phạm tội đã thực hiện. Xác định đúng chính xác và đầy đủ đạo luật hình sự phản ánh được sự đánh giá pháp lý của Nhà nước đối với tội phạm đã thực hiện 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan