TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ
MINH
KHOA: THƯƠNG MẠI – DU LỊCH – MARKETING
BỘ MÔN: QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
TOÀN CẦU HÓA VÀ
MÔI TRƯỜNG KINH TẾ
CHÂU MỸ
DANH SÁCH NHÓM:
NGUYỄN HOÀI AN
KD2
PHÙNG NGUYỄN
TRÂM ANH
KD2
TRẦN CÔNG TẠO
KD2
CHU THIÊN KIM
KD3
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
GIẢNG VIÊN: TS. QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
-----Tháng 11 – 2011
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
LỜI MỞ ĐẦU
Theo Thomas L.Friedman - Chuyên gia bình luận hàng đầu của Mỹ về
quan hệ quốc tế, kỷ nguyên “Toàn cầu hóa” là kỷ nguyên tiếp nối sau thời
kỳ “Chiến tranh lạnh”. Có thể nói, đây là “Làn sóng Toàn cầu hóa thứ ba”
trên thế giới. Rõ ràng ta nhận thấy, có 2 xu hướng hoàn toàn đối lập giữa
“Toàn cầu hóa” và “Chiến tranh lạnh”. Nếu như “Chiến tranh lạnh” là sự
phân chia biệt lập, rạch ròi giữa các quốc gia thì “Toàn cầu hóa” là sự hội
nhập. Nếu như “Chiến tranh lạnh” dựng nên bức tường chia rẽ mọi người
thì “Toàn cầu hóa” là một Website liên kết mọi người lại với nhau. Nếu như
“Chiến tranh lạnh” là những hiệp định chính trị thì “Toàn cầu hóa” là những
thỏa thuận thương mại. Thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh: Một nửa thế giới ra
khỏi cuộc chiến, cố gắng sản xuất và cải tiến cho những chiếc xe Lexus
sang trọng , nửa thế giới còn lại vẫn cố gắng tranh giành xem ai là chủ của
một cây Oliu nào đó. Cây Oliu có ý nghĩa quan trọng, nhưng nếu cứ khư
khư giữ lấy nó thì con người sẽ cố chấp tận diệt các cộng đồng khác. Chiếc
xe Lexus chính là động lực thúc đẩy con người tồn tại, cải tiến, làm giàu
trong hệ thống Toàn cầu hóa ngày nay.
Toàn cầu hóa tác động trên tất cả mọi lĩnh vực, trong đó, có thể nói, trên
lĩnh vực kinh tế, toàn cầu hóa có sức tác động mạnh mẽ, gây nên những
biến động lớn cho nền kinh tế thế giới. Nội dung của bài tiểu luận này đề
cập đến vấn đề Toàn cầu hóa tác động đến môi trường kinh tế của Châu Mỹ
với 2 đại điện là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ và Cộng Hòa Liên Bang Brasil.
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Qua đó, thấy được những cơ hội và thách thức mà Toàn cầu hóa đem lại cho
hai nền Kinh tế này. Từ đó, đứng trên góc độ là một nhà kinh doanh quốc tế,
có thể lựa chọn được một quốc gia để đầu tư vào một ngành theo một
phương thức kinh doanh hợp lý.
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN MÔI TRƯỜNG KINH TẾ..1
Nước Mỹ.....................................................................................................1
Sơ nét về quá trình toàn cầu hóa ở Mỹ ..................................................1
Toàn cầu hóa mang lại cơ hội gì cho nền Kinh tế của Hoa Kỳ?...........1
Toàn cầu hóa gây ra những thách thức gì cho nền Kinh tế Hoa Kỳ?....5
Brasil ..........................................................................................................10
Toàn cầu hóa mang lại cơ hội gì đến nền kinh tế Brasil?.....................10
Toàn cầu hóa gây ra những thách thức gì đến nền kinh tế Brasil?......12
Quy mô ảnh hưởng của Toàn cầu hóa đến 2 nền Kinh tế...........................14
GDP........................................................................................................14
Hoạt động xuất – nhập khẩu..................................................................17
Một số chỉ tiêu khác................................................................................19
SỰ KHÁC BIỆT VỀ MÔI TRƯỜNG KINH TẾ GIỮA MỸ VÀ BRAZIL
20
Giống nhau..................................................................................................20
Khác nhau...................................................................................................20
CHỌN QUỐC GIA, CHỌN NGÀNH VÀ PHƯƠNG THỨC KINH
DOANH..........................................................................................................29
Lý do lựa chọn ngành da giày tại Brazil.....................................................29
Những lưu ý cần thiết cho doanh nghiệp Việt Nam...................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Tác động của Toàn cầu hóa đến môi trường Kinh tế:
1. Nước Mỹ:
a) Sơ nét về quá trình toàn cầu hóa ở Mỹ:
Kể từ cuộc Đại suy thoái những năm 1930 và Thế chiến II, Hoa Kỳ đã
tìm cách giảm rào cản thương mại và phối hợp hệ thống kinh tế thế giới.
Hoa Kỳ ngày càng mở cửa thương mại như một phương tiện không chỉ thúc
đẩy lợi ích kinh tế mà còn là một chìa khóa để xây dựng các mối quan hệ
hòa bình giữa các quốc gia. Hoa Kỳ thống trị thị trường xuất khẩu của thời
kì sau chiến tranh Thế giới thứ II và có những tiến bộ vượt bậc về việc phát
triển khoa học – công nghệ, máy móc thiết bị. Đến những năm 1970,
khoảng cách về sản lượng xuất khẩu giữa Hoa Kỳ so với các nước khác
được thu hẹp dần.
Giai đoạn 1980 – 1990, cán cân thương mại của Mỹ bị thâm hụt. Nước
Mỹ phải đối mặt với những cuộc cạnh tranh gay gắt từ những nước khác.
Lúc này, xu hướng tự do hóa thương mại bị lung lay tại Mỹ khi mà Quốc
hội nước này nhen nhóm thực hiện các chính sách bảo hộ mậu dịch trong
nước.
Mặc dù vậy đến những năm 1990, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thúc đẩy tự do
hóa thương mại trong các cuộc đàm phán quốc tế, phê chuẩn Hiệp định
Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), hoàn thành Vòng đàm phán Uruguay
của đàm phán thương mại đa phương, và tham gia trong các hiệp định đa
phương để thiết lập quy tắc quốc tế nhằm bảo vệ sở hữu trí tuệ và thương
mại dịch vụ viễn thông tài chính và cơ bản.
Vào cuối những năm 1990, Mỹ vẫn cam kết thương mại tự do theo đuổi
một vòng mới của cuộc đàm phán thương mại đa phương, làm việc để phát
Trang 0
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
triển các hiệp định thương mại tự do hóa khu vực liên quan đến châu Âu,
Mỹ Latinh, và châu Á, và tìm cách giải quyết tranh chấp thương mại song
phương với các quốc gia khác nhau. Một số cuộc khủng hoảng tài chính,
đặc biệt là làm rung chuyển châu Á vào cuối những năm 1990, đã chứng
minh sự phụ thuộc lẫn nhau tăng lên giữa các thị trường tài chính toàn cầu.
Hoa Kỳ và các quốc gia khác làm việc để phát triển các công cụ để giải
quyết hoặc ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng đó.
b) Toàn cầu hóa mang lại cơ hội gì cho nền Kinh tế của Hoa Kỳ?
Cơ hội đầu tư của những doanh nghiệp Mỹ ra nước ngoài trở nên
thuận lợi hơn
Như chúng ta đã biết, thị trường lao động Mỹ có giá cả khá cao so với thị
trường lao động ở một số nước đông dân, lực lượng lao động nhiều như Ấn
Độ, Trung Quốc, một số nước thuộc khu vực Đông Nam Á như Việt Nam,
Thái Lan, Philippine,… Việc các doanh nghiệp Mỹ muốn sản xuất ra được
những sản phẩm giá rẻ để có thể cạnh tranh nhưng họ phải trả chi phí nhân
công quá cao thôi thúc người Mỹ muốn tìm kiếm, đầu tư trên những thị
trường lao động giá rẻ để tiết kiệm chi phí nhân công. Hơn nữa, tại các quốc
gia này, việc tiêu thụ hàng hóa cũng trở nên đảm bảo hơn do dân số đông.
Nhờ Toàn cầu hóa mà những doanh nghiệp Mỹ đã có được những cơ hội
đầu tư tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Một ví dụ điển hình cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Mỹ đó là làn
sóng các “đại gia” của Mỹ đổ vào đầu tư tại các tỉnh phía tây nam Trung
Quốc – nơi có thị trường dồi dào nhưng đỡ phải cạnh tranh hơn kinh đô Bắc
Kinh sầm uất của Trung Quốc. Tại đây, các doanh nghiệp Mỹ hy vọng rằng
sẽ kiếm được một nguồn lợi nhuận đáng kể trong tương lai. Ford, Wal-Mart
Trang 1
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
và một số công ty Mỹ khác đã lập kế hoạch đầu tư và mở rộng kinh doanh ở
các thành phố miền tây này, tiêu biểu là Trùng Khánh, hấp dẫn với 32 triệu
dân. Theo thống kê, tỉnh Tứ Xuyên có 1.171 công ty Mỹ đăng ký kinh
doanh.
Ngoài đầu tư vào những thị trường rộng lớn có giá nhân công rẻ, Mỹ còn
ra sức mở rộng đầu tư vào những thị trường có nguồn nguyên liệu dồi dào,
giá rẻ. Điển hình có thể nhắc tới công ty khai khoáng Mines Ltd. thuộc
quyền điều hành của nhà tỷ phú người Mỹ Robert M.Friedland. Ngày
31/3/2008, doanh nghiệp tiếp tục được Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và
Thương mại Mông Cổ cấp giấy phép cho dự án khai thác khoáng sản tại khu
mỏ Ovoot Tolgoi nằm ở phía Nam nước này. Ngày 10/4/2008, Ivanhoe
Mines Ltd. tiếp tục công bố thông tin sẽ bán 42% cổ phần đang nắm giữ tại
chi nhánh Jin Shan Gold Mines cho China National Gold Group và tiến
hành một chương trình liên kết khai thác thị trường Trung Quốc.
Như vậy, nhờ tác động của toàn cầu hóa, chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài của các quốc gia được khuyến khích, giúp Mỹ có được những cơ hội
thuận lợi để đầu tư vào những quốc gia này, nhất là tại những quốc gia đang
phát triển. Từ việc đầu tư ra nước ngoài, hằng năm, nước Mỹ thu được
những nguồn lợi béo bở do tiết kiệm được chi phí nhân công và tìm được
những nguồn nguyên liệu giá rẻ, hơn nữa lại có thể đảm bảo được thị trường
tiêu thụ rộng lớn, ổn định.
Những hàng rào thuế quan được gỡ bỏ hoặc giảm bớt tạo điều
kiện cho Mỹ xuất hàng hóa của mình một cách thuận lợi
Khi toàn cầu hóa diễn ra, việc trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các nước
ngày càng trở nên rộng rãi và phát triển mạnh mẽ hơn. Để thúc đẩy việc
trao đổi và mua bán với nước ngoài, hầu hết các quốc gia đều gỡ bỏ hoặc
Trang 2
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
giảm bớt những hàng rào thuế quan cho một số hàng hóa nhập vào nước
mình. Việc làm này của các quốc gia giúp cho những hàng hóa của Mỹ có
thể dễ dàng xâm nhập thị trường nước ngoài hơn, điển hình, ta có thể xem
xét một số ví dụ sau đây:
Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA nối kết 3 nền kinh tế lớn là
Mỹ, Canada và Mexico tạo ra một thị trường hàng hoá và dịch vụ lớn nhất
thế giới. Trong khi triển khai, NAFTA yêu cầu loại bỏ ngay lập tức các loại
thuế quan của hơn nửa số lượng mặt hàng nhập khẩu của Mỹ từ Mexico và
trên 1/3 số lượng mặt hàng xuất khẩu của Mỹ sang Mexico. NAFTA đã cam
kết tất cả các bên chấm dứt những hạn chế đối với các nhà đầu tư nước
ngoài là thành viên của NAFTA, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ cao,
và tự do hoá thương mại dịch vụ. Tính đến 01 tháng 1 năm 2008, tất cả các
thuế quan giữa ba nước đã được loại bỏ. Từ 1993-2009, thương mại tăng
gấp ba lần từ 297 tỷ USD lên 1,6 nghìn tỷ USD.
Khi là thành viên của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái
Bình Dương (APEC) và Tổ chức Kinh tế Thế giới (WTO), cũng
như những thành viên khác, Mỹ được hưởng những chính
sách mở cửa, Tự do hóa thương mại và đầu tư tập trung vào
việc mở cửa thị trường, được cắt giảm và dần dần dẫn đến
loại bỏ hoàn toàn các rào cản thuế và phi thuế đối với
thương mại và đầu tư. Các biện pháp tự do hoá đã dẫn tới
việc cắt giảm khá lớn các loại thuế suất.
Ví dụ: Để thực hiện lời hứa khi Trung Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc
cắt giảm thuế quan nhập khẩu của một số sản phẩm điện tử, như máy tính
xách tay và máy ảnh kỹ thuật số 50%, mang lại lợi ích các công ty đa quốc
Trang 3
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
gia, bao gồm Hewlett-Packard Co (HP) và Dell Inc, và kích thích doanh số
bán hàng của họ trên thế giới phát triển nhanh nhất trong thị trường IT.
Các công ty nước ngoài đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Mỹ
Theo Cơ quan Nghiên cứu Phục vụ Quốc hội (CRS), các nhà đầu tư nước
ngoài sở hữu khoảng 10% tổng tài sản tài chính của nước Mỹ, bao gồm cổ
phiếu công ty, trái phiếu và cổ phiếu chính phủ. Họ cũng đầu tư trực tiếp
vào các công ty thiết bị và thị trường bất động sản của Mỹ. Vào năm 2006,
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư gần 1,8 nghìn tỷ USD vào nền kinh tế Mỹ,
khoảng 184 tỷ USD trong số đó là đầu tư trực tiếp, phần còn lại là đầu tư
vào cổ phiếu và trái phiếu. Với các cách tính toán khác nhau thì tổng lượng
tiền đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Mỹ trong năm 2005 là từ 1,6 nghìn tỷ
đến 2,8 nghìn tỷ USD. “Hoa Kỳ là quốc gia có lượng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đổ vào lớn nhất trên thế giới và cũng là nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài lớn nhất trên thế giới”
Trong một thập kỷ gần đây, sự vùng dậy phát triển mạnh mẽ của của nền
kinh tế Trung Quốc cũng gây những tác động không nhỏ đến kinh tế thế
giới. Cũng nằm trong tác động toàn cầu hóa, Trung Quốc ra sức mở rộng
việc đầu tư của mình ra nước ngoài và Hoa Kỳ cũng là một trong những lựa
chọn của quốc gia này. Trong khoảng từ nay đến năm 2020, Mỹ trông đợi
các doanh nghiệp Trung Quốc triển khai khoảng 1 – 2 nghìn tỷ đô la cho
việc đầu tư ra nước ngoài. Mỹ có thể sẽ là một đối tác được hưởng lợi nhiều
nhất từ sự đầu tư này. Trong một nghiên cứu mới nhất, nước Mỹ đã thấy
rằng chi phí đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc vào Mỹ
trong năm 2009 và 2010 đã tăng hơn 130% một năm. Tính riêng năm 2010,
các công ty Trung Quốc đã dành hơn 5 tỷ đô la đầu tư vào Mỹ ở 25 dự án.
Trang 4
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Các công ty của Trung Quốc ngày nay đã đầu tư ít nhất vào 35 trên tổng số
50 bang của Mỹ và đang tiếp tục mở rộng phạm vi hoạt động. Việc các nhà
đầu tư Trung quốc tăng cường đầu tư ở Mỹ đã tạo ra những lợi ích lớn cho
nền kinh tế Mỹ như tạo thêm việc làm, thu nhập cho người lao động Mỹ.
Giúp tăng năng suất sản xuất ở một số ngành Kinh tế của Mỹ
Do thay đổi công nghệ và toàn cầu hóa mà một quốc gia phát triển mạnh
về công nghệ không cần phải chuyên môn hóa hoàn toàn vào một loại hàng
hóa hay dịch vụ mà có thể vào từng bước cụ thể trong quá trình sản xuất.
Các công đoạn có giá trị gia tăng thấp được chuyển tới các nước đang phát
triển vốn có nhân công rẻ hơn. Những công việc “cao cấp” hơn như nghiên
cứu và phát triển sẽ được giữ lại để thực hiện tại Mỹ.
Ví dụ như tập đoàn Apple đã chuyển việc sản xuất và lắp ráp linh kiện
cho các nhà máy như Foxconn ở Trung Quốc, Holdings ở Đài Loan … còn
việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới vẫn được thực hiện tại trụ sở
chính của Apple tại thung lũng Silicon để công việc này được chuyên môn
hóa hơn và giúp giữ được bí mật công nghệ
Người Mỹ có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hóa với chủng loại đa
dạng hơn và giá cả thấp hơn
Toàn cầu hóa giúp cho hàng hóa của Mỹ vào thị trường các nước khác
trở nên dễ dàng hơn thì ngược lại cũng giúp cho các hàng hóa của nước
ngoài xâm nhập vào thị trường Mỹ đa dạng và phong phú hơn. Điều này
thực tế có lợi cho người tiêu dùng Mỹ khi cơ hội có được sự lựa chọn nhiều
hơn cho các mặt hàng. Chính vì tính chất cạnh tranh để chiếm được thị phần
tại Mỹ, những mặt hàng này phải thực hiện cuộc chạy đua về giá, chất
lượng (tuy nhiên không được vi phạm luật chống phá giá)… để có thể cạnh
Trang 5
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
tranh được với những sản phẩm của những hãng khác. Chính vì vậy, người
tiêu dùng tại Mỹ vẫn có thể có được những sản phẩm với giá thấp và chất
lượng cao.
Ví dụ như người tiêu dùng Mỹ sử dụng các mặt hàng may mặc của Trung
Quốc và Việt Nam do giá rẻ hơn. Những mặt hàng điện tử đa dạng, nhiều
chủng loại của Samsung, Sony cũng tràn ngập trên thị trường Mỹ thay vì
chỉ có JVC. Người tiêu dùng Mỹ có thể thỏa sức lựa chọn cho mình những
mặt hàng phù hợp với nhiều mức giá, khiến cho việc mua sắm trở nên
phong phú hơn.
c) Toàn cầu hóa gây ra những thách thức gì cho nền Kinh tế Hoa Kỳ?
Người lao động Mỹ có nguy cơ bị mất việc làm
Khi các doanh nghiệp Mỹ chạy đua trong việc tìm kiếm nguồn nhân công
giá rẻ và đầu tư tại các quốc gia đang phát triển thì hàng triệu lao động Mỹ
rơi vào cảnh khốn đốn vì việc làm của họ đã bị chuyển sang cho người lao
động tại các nước khác. Trong số 15.000 nhân viên mà Caterpillar Inc tuyển
dụng trong năm 2010, có tới hơn một nửa là ở bên ngoài nước Mỹ. Xu
hướng trên lý giải tại sao tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn ở mức cao – 9,8%
trong tháng 11/2010. Xu hướng trên không giới hạn ở những công ty lớn
nhất nước Mỹ. Giờ đây, dù trong lĩnh vực công nghệ, bán lẻ hay sản xuất thì
các doanh nghiệp đều thuê nhân công ngoại quốc ngay từ đầu.Theo nhà
kinh tế học Sachs, các tập đoàn đa quốc gia không có sự lựa chọn nào khác,
nhất là khi hiện tại, chất lượng lao động toàn cầu đã cải thiện. Ông nhận
định nước Mỹ đang không cung cấp đủ số lao động có trình độ cao trong
khi các nước khác lại làm được: “Chúng ta đang không đáp ứng được nhu
Trang 6
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
cầu về giáo dục cho thanh niên. Trong một thế giới toàn cầu hóa, điều đó sẽ
đem lại những hậu quả nghiêm trọng.”
Một lí do nữa khiến cho lao động ở Mỹ mất việc đó là do tình hình kinh
tế thế giới nói chung và Mỹ nói riêng gặp nhiều khó khăn. Các doanh
nghiệp phải đóng cửa do không thể đứng vững được trước sóng gió của nền
Kinh tế đã khiến nhiều người lao động phải nghỉ việc. Trong số những
người Mỹ vừa gia nhập vào hàng ngũ thất nghiệp có đến 60% đến từ các
doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, cho đến nay, khi nền kinh tế Mỹ đang dần hồi
phục thì tỉ lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn cao. Nguyên nhân là do chi phí lao động
đắt đỏ hơn trong khi thiết bị máy móc rẻ hơn do giá thiết bị giảm và chính
sách miễn giảm thuế đối với đầu tư vốn đã dẫn đến việc các công ty Mỹ chi
nhiều hơn để mua sắm máy móc, thiết bị thay vì thuê thêm nhân công.
Sự đầu tư của Mỹ ra nước ngoài có thể gặp rủi ro nếu bị ăn cắp bí
quyết kinh doanh và công nghệ làm mất đi lợi thế cạnh tranh của
Mỹ
Đối với những quốc gia tiếp nhận đầu tư của Mỹ thông qua các hình thức
như hợp đồng chuyển nhượng License hay Franchise, họ sẽ cố gắng tiếp thu
các bí quyết công nghệ và quản lý kinh doanh mà những doanh nghiệp của
Mỹ đã tích lũy qua nhiều năm, sau đó khi hết hiệu lực sử dụng hợp đồng,
những công ty tiếp nhận này đã có thể có đủ thời gian để nắm hết các bí
quyết công nghệ này thậm chí cải tiến và khắc phục được những điểm yếu
của công nghệ. Điều này sẽ giúp cho những nước tiếp nhận đầu tư học hỏi
và nắm giữ được những bí quyết quan trọng để phát triển ngành hàng,
ngược lại sẽ làm cho Mỹ bị mất đi những bí quyết giúp họ tạo nên lợi thế
cạnh tranh trên thị trường.
Trang 7
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Nhìn lại quá khứ, tháng 6-1888, George Eastman được nhận bằng sáng
chế cho chiếc máy ảnh sử dụng phim dạng cuộn đầu tiên trên thế giới có tên
gọi: Kodak. Chiếc máy ảnh Kodak đã thực sự tạo ra một cuộc cách mạng
trong lưu giữ hình ảnh của nhân loại. Do đó, Kodak khiến cả thế giới sục sôi
kiếm tìm và trong bốn năm đầu, có tới 73.000 chiếc được tiêu thụ với giá 25
USD/chiếc. Trên cơ sở đó, thương hiệu lừng danh EK ra đời. Chỉ 5 năm sau
khi được giới thiệu tại Mỹ, EK đã khai trương văn phòng đầu tiên tại
London và nhanh chóng mở rộng khắp châu Âu. Năm 1930, Kodak có 75%
thị phần trên thế giới trong ngành hàng thiết bị chụp ảnh và khoảng 90% lợi
nhuận. Tuy nhiên, sau khi công nghệ máy ảnh này được thế giới biết đến, sự
hùng mạnh của thương hiệu EK bỗng khựng lại bởi cuộc tấn công của kỹ
nghệ ảnh số. Khi phát minh ra chiếc máy ảnh kỹ thuật số đầu tiên trên thế
giới vào năm 1975, Kodak lúc đó đã chần chừ với ý tưởng giảm bớt sự phụ
thuộc vào máy ảnh cơ khi đó đang thu lợi nhuận cao. Như vậy, thay vì tập
trung tiếp tục phát tiển công nghệ đổi mới sản phẩm khi biết những bí quyết
công nghệ của EK đã bị học hỏi và phát triển cao hơn thì EK lại chạy theo
lợi nhuận trước mắt trên thị trường film và máy ảnh cơ. Trong lúc đó các
đối thủ của họ ở Nhật Bản là Canon và Sony có cơ hội vươn lên về máy ảnh
kĩ thuật số đặc biệt vào những năm 90 của thế kí XX. Như vậy, một hãng
máy ảnh của Mỹ đã từng rất lừng lẫy trong lĩnh vực nhiếp ảnh đã bị mất đi
lợi thế cạnh tranh vào tay Nhật Bản
Sự đầu tư quá lớn của nước ngoài vào Mỹ có thể chi phối nền
Kinh tế Mỹ
Nhiều chuyên gia lo ngại về tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế Mỹ của các
chính phủ nước ngoài, khoảng 16% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong năm
2005.Các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu hơn một nửa chứng khoán kho bạc
Trang 8
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
của Mỹ. Và khi nhận được khá nhiều sự đầu tư của nước ngoài vào Mỹ sẽ
rất dễ khiến Mỹ trở thành con nợ và rất có thể nền kinh tế sẽ bị tác động
mạnh từ những chủ nợ này.
Khi đề cập tới các chủ nợ của Mỹ là nói tới nợ công. Đó là khoản nợ mà
công chúng gồm các cá nhân, tập đoàn, chính quyền bang và địa phương,
chính phủ nước ngoài, mua từ chính phủ liên bang Mỹ dưới dạng trái phiếu
ngân khố Mỹ. Để đánh giá mức độ trầm trọng của việc nợ nần, nợ liên bang
thường được tính theo số phần trăm GDP - hay giá trị tổng số hàng hóa và
dịch vụ tạo ra trong một nước. Tại Mỹ, số % này tăng mạnh, từ 36% năm
2003 lên tới 62% năm 2010. Nói một cách khác, Mỹ đã tiêu hơn nửa số tiền
đang có vào việc trả nợ.
Dưới đây là các chủ nợ lớn của Mỹ:
Trung Quốc
Số tiền Mỹ nợ Trung Quốc vào năm 2010 là 884 tỷ USD, số phần trăm
nợ là 9,8%.
Từ năm 2005 đến 2010, Trung Quốc mua gần 500 tỷ USD tài sản ở Mỹ.
Đầu năm 2011, quan hệ tài chính giữa Mỹ và Trung Quốc đi tới một mốc
quan trọng mới: Giá trị trái phiếu kho bạc mà Trung Quốc nắm giữ lên tới 1
nghìn tỷ USD. Điều này có thể khiến một số người Mỹ chạy vội tới ngân
hàng để đổi USD sang nhân dân tệ. Song, đây chưa phải là tin tức xấu. Thực
tế, khi căng thẳng giữa Mỹ và chủ nợ đói trái phiếu nhất trở nên băng giá và
nếu Trung Quốc bắt đầu bán trái phiếu Mỹ để trả đũa thì nó sẽ tạo ra một
hiệu ứng dây chuyền khủng khiếp khắp Thái Bình Dương, làm tăng lãi suất
và giảm giá trị đồng USD.
Nhật
Trang 9
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Số tiền Mỹ nợ Nhật vào năm 2010 là 865 tỷ USD, số phần trăm nợ là
9,6%.
Kể từ khi trái phiếu Mỹ được cho là khoản đầu tư an toàn nhất mà một
người nên mua (nói một cách khác, chính phủ Mỹ giỏi việc thanh toán nợ,
thậm chí là điều này khiến Mỹ phải tăng thâm hụt ngân sách), Nhật đã mua
phần lớn trái phiếu để giúp bình ổn nền kinh tế. Dù có những lo ngại rằng
Mỹ sẽ vỡ nợ, đe dọa làm giảm giá trị trái phiếu Mỹ, Nhật vẫn tự tin khoản
đầu tư vào Mỹ sẽ được hoàn trả đầy đủ.
Anh
Số tiền Mỹ nợ Anh vào năm 2010 là 459 tỷ USD, số phần trăm nợ là
5,1%.
Năm 2010, trong khi chính phủ liên bang Mỹ tiếp tục các nỗ lực phục hồi
thị trường và nền kinh tế của mình, số nợ của Mỹ với Anh vẫn tăng 246%,
lên hơn 500 tỷ, số tiền lớn nhất từ trước tới nay mà Mỹ nợ Anh.
Lo sợ sự đầu tư của nước ngoài
Mặt khác, đôi khi chính vì sự sợ hãi, lo lắng quá mức trước sự đầu tư của
nước ngoài vào Mỹ đã làm cho những chính sách kinh tế của Mỹ trở nên
gay gắt, làm mất đi những cơ hội kinh doanh có lợi cho nước Mỹ. Rất ít
công dân Hoa Kỳ biết được được rằng Mỹ chỉ xếp thứ 20 trong danh sách
những nước có độ mở lớn nhất với dòng lưu chuyển tư bản, thứ 21 trong số
các quốc gia có hàng rào thương mại thấp nhấp, và thứ 35 về nỗ lực làm
giảm tình trạng thương mại bị bóp méo thông qua biện pháp thuế quan và
trợ cấp (theo số liệu Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2008 – Global
Competitive Report).
Lợi ích của Trung Quốc cũng có thể là lợi ích của Mỹ, giống như đã
được chứng thực bởi sự đầu tư sớm quanh khu vực châu Á: Các công ty
Trang 10
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Nhật Bản đã có một sự khởi đầu đầy khó khăn tại Mỹ vào những năm 80,
khi mà họ được “chào đón” với một chủ nghĩa hoài nghi và đầy lo ngại.
Ngày nay, các công ty Nhật Bản sử dụng khoảng 700.000 nhân công Mỹ
với số tiền phải trả hàng năm gần 50 tỷ đô la.
Tuy nhiên, cũng giống như Nhật Bản, sự phát triển đầu tư của Trung
Quốc đang khuấy động cơn bão chính trị tại Mỹ. Các cuộc tranh luận gần
đây đã nổ ra xung quanh việc đầu tư đa dạng bởi nhà cung cấp thiết bị viễn
thông Huawei, cũng như nhà sản xuất thép Anshan tại Missisipi và việc chế
tạo thành công máy bay hạng nhỏ Cirrus tại một công ty nhà nước của
Trung Quốc.
Một nguy cơ rõ ràng là các hành động phản ứng chống Trung Quốc sẽ
chỉ gia tăng khi mà các con số nói trên tăng nhanh và kết quả là sẽ hạn chế
quan hệ với các công ty đến từ Trung Hoa đại lục. Một chính sách đóng cửa
như vậy sẽ rất bất lợi đối với các công ty Trung Quốc. Nó cũng sẽ là một bi
kịch cho cộng đồng Mỹ vì sẽ mất đi nhiều việc làm, sự cải tiến, thuế thu
nhập....
Việc ngăn cản sự đóng cửa trong đầu tư song phương sẽ đòi hỏi sự nỗ lực
không mệt mỏi từ hai phía. Quốc hội và Chính phủ Mỹ phải cùng nhau đưa
ra một thông điệp rõ ràng có sự đồng thuận của cả hai đảng rằng các nhà
đầu tư Trung Quốc được chào đón tại Mỹ, vì sợ rằng các nhà đầu tư này sẽ
chuyển hướng vào các quốc gia khác
Những sản phẩm của Mỹ vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ
những sản phẩm nước ngoài
Trong môi trường Toàn cầu hóa, nhất là khi tham gia các tổ chức kinh tế
thế giới như WTO hay NAFTA… Mỹ được nới lỏng các hàng rào thuế quan
và phi thuế quan để hàng hóa dễ dàng xâm nhập thị trường nước ngoài hơn,
thì ngược lại, bản thân nước Mỹ cũng phải nới lỏng những hàng rào này cho
Trang 11
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
hàng hóa của những nước khác. Niềm tin của người Mỹ vào sự cạnh tranh
chính vì vậy trở nên suy yếu. Việc nới lỏng dần các quy định pháp lý về
chống độc quyền đã tạo điều kiện cho những con kình ngư sau khi sáp nhập
thống trị toàn bộ thị trường. Mà trớ trêu thay, những vụ hợp nhất, sáp nhập
này lại vẫn thường được biện minh bằng thuyết “thị trường tự do”. Ngoài ra,
các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường Mỹ còn làm cho lãi suất và
giá cả tại Mỹ thấp hơn mức thông thường, gây ra một làn sóng tiêu dùng
hàng hóa một cách ồ ạt, bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu.
Giờ đây , những chiếc xe hơi của các hãng sản xuất của Mỹ như GM hay
Ford sẽ phải cạnh tranh quyết liệt và gay gắt hơn với những chếc xe hơi
ngoại nhập như Toyota hay Honda của Nhật Bản, xe hơi Hyundai của Hàn
quốc,....Hay chiếc điện thoại Motorola hay iPhone của Mỹ cũng phải cạnh
tranh với những chiếc điện thoại Nokia của Phần Lan, Samsung của Hàn
Quốc, Siemens của Đức.
Sự trả đũa về kinh tế của một số quốc gia
Nhiều ngành công nghiệp Mỹ và các đại diện của họ trong Quốc hội
khẳng định rằng các ngân hàng trung ương ở Đông Á đang sử dụng chứng
khoán kho bạc Mỹ để thao túng tỷ giá hối đoái, làm tăng lượng hàng hóa và
dịch vụ xuất khẩu vào thị trường Mỹ. “Đồng thời, các chính phủ nước ngoài
đang thực hiện hoạt động thôn tính, thông qua phối hợp hoặc hành động
riêng lẻ, nhằm tác động lên tỷ giá hối đoái của đồng đô-la”, CRS nhận định.
Nhiều chuyên gia e sợ rằng việc các chính phủ nước ngoài nhanh chóng
nhượng lại tài sản đầu tư trên nước Mỹ của họ sẽ gây ra rắc rối nghiêm
trọng cho nền kinh tế thế giới. Các chính phủ thù địch nước ngoài có thể lôi
kéo và vận động rút tiền hàng loạt ra khỏi các thị trường chứng khoán tại
Mỹ nhằm gây bất ổn cho nền kinh tế Mỹ. Hoặc các chính phủ nước ngoài có
Trang 12
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
thể quyết định đầu tư tiền của họ vào nơi khác khi mà giá trị tài sản của họ
tại Mỹ bắt đầu suy giảm.
Gia tăng khoảng cách giàu nghèo:
Khủng hoảng kinh tế và mất việc làm đã làm cho khoảng cách giàu
nghèo của Nước Mỹ vốn rộng nay còn rộng hơn. Thật là một con số đáng
kinh ngạc khi trong 20 năm gần đây, chỉ 5% dân số mỹ nắm giữ 60% tài sản
quốc gia. Theo báo cáo của Cục điều tra dân số Mỹ, thu nhập bình quân của
các gia đình trung lưu ở Mỹ khoảng 50.303 USD/năm. Còn tiêu chuẩn
người nghèo ở Mỹ là thu nhập một năm dưới 10.991 USD. Báo cáo công bố
ngày 26/10/2011 của Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO) cho biết,
trong thời gian từ năm 1979-2007, thu nhập của 1% những người giàu nhất
nước Mỹ tăng 275% trong khi thu nhập của 20% những người nghèo nhất
nước Mỹ chỉ tăng 18%.
Mặc dù người Mỹ chấp nhận mức chênh lệch về thu nhập, nhưng họ ngày
càng thất vọng khi cảm thấy những người giàu, nhất là giới doanh nhân,
được hưởng quá nhiều chính sách ưu ái của chính phủ. Người dân Mỹ trở
nên phẫn nộ hơn bao giờ hết khi chính phủ cố gắng bơm tiền để cứu lấy các
doanh nghiệp trong khi người dân đang phải sống chật vật trong thời buổi
Kinh tế khó khăn. Kéo theo đó là cuộc biểu tình “Chiếm lấy phố Wall” đã
tạo nên một làn sóng biểu tình kéo theo ở một số thành phố lớn như
London, ToKyo, Melbourne.
2. Brasil:
a) Toàn cầu hóa mang lại cơ hội gì đến nền kinh tế Brasil?
Những hàng rào kinh tế được dở bỏ, mở ra những cơ hội thị
trường to lớn
Trang 13
Toàn cầu hóa và môi trường kinh tế châu Mỹ
Toàn cầu hóa phát triển kéo theo sự ra đời của nhiều liên minh kinh tế
quốc tế ở nhiều cấp độ khác nhau. Sự thành lập các liên minh này nhằm
thiết lập quan hệ giữa các nước và quan trọng hơn hết là dở bỏ dần những
cản trở trong thương mại. Và để góp phần xúc tiến thương mại của mình,
Brasil đã gia nhập nhiều tổ chức kinh tế như WTO, MERCOSUR,G-20, …
Brasil là một trong những thành viên tích cực của MERCOSUR - Mục đích
của khối này là khuyến khích hợp tác, trao đổi kinh tế, thương mại trong
khu vực và giữa MERCOSUR với các khu vực khác (trước hết là với khu
vực châu Á-TBD, trong đó có ASEAN). Giữa các nước thành viên thì xóa
bỏ các hàng rào thuế quan, hàng hóa trao đổi không bị đánh thuế.
Brasil có thế mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Với nền kinh tế thị trường phát triển khá đầy đủ, kinh tế mở cửa, Brasil
có thế mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, việc kháng cự
tốt với cuộc khủng hoảng toàn cầu cũng là một lợi thế. Sự tăng trưởng kinh
tế nhanh chóng và mức lãi suất thực gần 6% khiến thị trường Brasil trở
thành điểm đến hấp dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài.
Brasil là quốc gia thu hút vốn FDI nhiều nhất trong số các nước Mỹ La
Linh. Vào năm 2008, khu vực Mỹ La tinh và Caribe nhận 142,3 tỷ USD
FDI, trong đó Brasil thu hút FDI đạt 45,7 tỷ USD. Dòng vốn đầu tư nước
ngoài trực tiếp FDI tại Brasil đạt 11 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2009.
Trong năm 2010, chỉ riêng Trung Quốc đã đầu tư 12,7 tỷ USD vào Brasil.
45% vào khu vực năng lượng; 20% vào ngành công nghiệp khai thác quặng
mỏ và 20% vào các hoạt động nông nghiệp của Brasil. Năm 2011, Bộ
trưởng Mỏ và Năng lượng Brasil Edison Lobao cho biết Trung Quốc muốn
cho công ty dầu khí quốc doanh Petrobras của Brasil vay 10 tỷ USD để giúp
khai thác các giếng dầu mới có trữ lượng lớn ở vùng biển nước sâu ngoài
khơi Rio de Janeiro.
Trang 14
- Xem thêm -