Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh bình định...

Tài liệu Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh bình định

.PDF
87
168
148

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC - XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI VÕ CÔNG HOÀNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC - XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ XÃ HỘI VÕ CÔNG HOÀNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Đây là công trình do tôi tự thực hiện nghiên cứu theo sự hướng dẫn của GS.TS. Võ Khánh Vinh luận văn là đáng tin cậy. Kết quả nghiên cứu toàn bộ luận văn chưa được ai công bố trong công trình nghiên cứu nào khác./. Tác giả luận văn Võ Công Hoàng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .........................................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ...........7 1.2. Tổ chức và hoạt động của Thi hành án dân sự trước khi có Luật thi hành án dân sự ........................................................................................................................15 1.3. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự hiện nay ............................................20 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự .................26 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH ...................................................................31 2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định ..................................................................................................................31 2.2. Thực trạng tổ chức thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định .................................34 2.3. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định .............................36 2.4. Những kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định và nguyên nhân ................................................................................40 2.5. Những hạn chế trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định và nguyên nhân ................................................................................................44 CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..............................................................53 3.1. Quan điểm hoàn thiện về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự...................53 3.2. Giải pháp hoàn thiện về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự .....................59 KẾT LUẬN ..............................................................................................................74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Tên viết tắt Tên đầy đủ CHV Chấp hành viên CNH Công nghiệp hóa CNTT Công nghệ thông tin CQTHADS Cơ quan Thi hành án dân sự HĐH Hiện đại hóa KT-XH Kinh tế - xã hội QLNN Quản lý nhà nước TAND Tòa án nhân dân TH Thi hành THA Thi hành án THADS Thi hành án dân sự THAHC Thi hành án hành chính TPL Thừa phát lại TTHC Tố tụng hành chính UBND Ủy ban nhân dân VKSND Viện Kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1.1. Số liệu về kết quả án tồn về việc (2005-2008) 20 2.1. Kết quả thi hành án về việc (từ năm 2012 – 2016) 41 2.2. Kết quả thi hành án về giá trị (từ 2012 – 2016) 41 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước, nhằm đưa bản án, quyết định về dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là phán quyết của Tòa án) thi hành trên thực tế. Thông qua thi hành án dân sự, những phán quyết của Tòa án về mặt dân sự sẽ được thi hành, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và mọi công dân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần giữ vững kỷ cương, phép nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là một nguyên tắc Hiến định, được qui định xuyên suốt trong các Hiến pháp của Việt Nam. Tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [53, tr.17]. Sau hơn hai mươi bốn năm, kể từ khi nhiệm vụ quản lý và tổ chức thi hành án dân sự được chuyển từ Tòa án nhân dân sang Chính phủ (tháng 7 năm 1993), cơ quan Thi hành án dân sự đã được hình thành và thực thi nhiệm vụ được giao, đáp ứng các yêu cầu của nhà nước và xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Kể từ khi được thành lập đến nay, công tác thi hành án dân sự đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận; hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định của Toà án được bảo đảm thực hiện, tạo được lòng tin đối với nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đáng chú ý, công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan THADS đã được Đảng và nhà nước quan tâm kiện toàn cả về số lượng, lẫn chất lượng; nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài nhiều năm không giải quyết được đã được tổ chức thi hành dứt điểm. Một số án đặc biệt lớn, tính chất hết sức phức tạp, có ảnh hưởng lớn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng 1 đã được Đảng và nhà nước quan tâm chỉ đạo giải quyết dứt điểm. Kết quả đạt được nói trên, phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự và của cả hệ thống chính trị, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng, nhà nước, của ngành và các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự, trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, án chậm giải quyết, kéo dài, kết quả thi hành án chưa thật bền vững, công tác tổ chức cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Vẫn còn tình trạng các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được nghiêm chỉnh thi hành, làm giảm hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định cũng như lòng tin của nhân dân đối với với nhà nước; hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án còn thiếu đồng bộ, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chồng chéo, công tác hoạch định chính sách, kiện toàn tố chức, bộ máy còn chậm, các chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác THADS chưa tương xứng, cơ sở vật chất chưa đồng bộ so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong bối cảnh chúng ta đang từng bước hiện đại hóa nền hành chính quốc gia. Thực tiễn thi hành án dân sự cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học về thi hành án dân sự phải nghiên cứu giải quyết như khái niệm về thi hành án, thi hành án dân sự, đặc điểm, vai trò thi hành án dân sự, tổ chức thi hành án dân sự, hoạt động thi hành án dân sự, phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các ngành hữu quan trong thi hành án dân sự và thực tiễn tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trong khi đó, xét về mặt lý luận, những vấn đề nói trên chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng và còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định" để làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực 2 THADS, quản lý THADS được thực hiện và công bố rộng rãi trong toàn quốc, cụ thể là: - Đề tài cấp bộ: "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp phối hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì; - Đề tài cấp bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số: 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (nay gọi là Tổng Cục thi hành án dân sự) chủ trì năm 1996; - Đề tài cấp nhà nước: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư pháp chủ trì, năm 2000; - Đề tài cấp bộ: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện” của Dự án VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì năm 1998; - Luận văn thạc sỹ luật học “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực THADS” của tác giả Hoàng Kim Chiến; - Luận văn thạc sỹ Luật học: "Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự", tác giả Lê Xuân Hồng, năm 2002; - Luận văn thạc sỹ Luật học: "Thi hành quyết định trọng tài tại Việt Nam" của tác giả Trần Anh Tuấn, năm 2002; - Luận văn thạc sỹ Luật học: “Quản lỷ nhà nước về THADS từ thực tiễn thành phố Nẵng” của tác giả Mai Đăng Hòa; - Luận văn thạc sỹ Luật học: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2001; - Luận văn thạc sỹ Luật học: “Đổi mới tổ chức và hoại động THADS tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quang Thái, năm 2003; - Luận văn thạc sỹ Luật học “ Đổi mới thủ tục THADS ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn, năm 2004; - Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng đội ngũ Chấp hành viên và xây dựng khung chương trình đào tạo Chấp hành viên theo yêu cầu cải cách tư pháp ”, năm 3 2010, do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm; - Luận văn thạc sỹ Luật học “Quản lý nhà nước về THADS qua thực tế ở Thanh Hóa” của tác giả Đậu Thị Thủy; - Luận văn thạc sỹ Luật học “Quản lý nhà nước về THADS từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” của tác giả Ngô Thanh Nghị; - Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của tác giả Nguyễn Khánh Na; - Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” của tác giả Trần Văn Phong; - Bài viết “Tổ chức hoạt động THADS trước yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp” của đồng tác giả TS. Nguyễn Thanh Thủy và Ths. Nguyễn Văn Nghĩa; - Bài viết “Hệ thống tổ chức THADS Việt Nam trong nhà nước pháp quyển xã hội chủ nghĩa ” của TS. Nguyễn Văn Nghĩa; Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên, còn có Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Luật Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, các công trình nghiên cứu, các bài viết được công bố trên sách, báo, tạp chí; một số bài viết liên quan đến thi hành án dân sự được đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học.... Các công trình nghiên cứu nêu trên có nội dung nghiên cứu về THADS ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, chưa có công trình nghiên cứu toàn diện về thực trạng và giải pháp để hoàn thiện, nâng cao tổ chức và hoạt động THADS nói chung và đặc thù của tỉnh Bình Định nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự, luận văn nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn của tỉnh Bình Định một cách khách quan, chính xác, góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác THADS trên địa bàn tỉnh Bình 4 Định nói riêng và công tác THADS nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra để giải quyết các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của THADS; những quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của THADS; - Đánh giá thực trạng, tình hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; - Đề xuất hệ thống quan điểm và các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của THADS tỉnh Bình Định. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn tổ chức và hoạt động của THADS tỉnh Bình Định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu bao gồm tổ chức và hoạt động của THADS cấp tỉnh và THADS cấp huyện thuộc tỉnh Bình Định. Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ khi cơ quan Thi hành án dân sự tách và thành lập (7/1993), nhưng tập trung nghiên cứu sâu kể từ thời điểm Luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; chiến lược cải cách hành chính và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có lĩnh vực THADS. 5 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, khảo sát thực tiễn… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ của mình vào sự phát triển của kho tàng lý luận về khoa học thi hành án dân sự và tổng kết nghiên cứu thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Ngoài ra, đề tài còn góp phần hệ thống hóa các vấn đề về lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực THADS. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS nói chung và của THADS tỉnh Bình Định nói riêng; góp một phần vào công cuộc cải cách hành chính, cải cách nền Tư pháp ở nước ta. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của Luận văn gồm có 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tỉnh Bình Định Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự 6 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm về tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự 1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Để làm sáng tỏ khái niệm thi hành án dân sự, trước hết cần làm rõ khái niệm thi hành án. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [71, tr.1559]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý của nhà nước, do Tòa án nhân danh nhà nước tuyên, quyết định tại phiên tòa, để giải quyết các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính… Hiện nay, xung quanh bản chất pháp lý của khái niệm thi hành án, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Quan điểm thứ nhất của TS. Phan Hữu Thư cho rằng, thi hành án là một giai đoạn tố tụng: "Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án, chỉ mới dừng lại ở việc làm rõ đúng, sai, phải, trái trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải chờ ở việc tổ chức thi hành án trên thực tế. Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử." [67, tr.8]. ThS. Nguyễn Công Bình cũng đồng quan điểm trên, cho rằng thi hành án là một giai đoạn tố tụng. Hoạt động thi hành án này gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử [67, tr.8]. Quan điểm thứ hai của GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng, thi hành án là một giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp, không thể đồng nhất hoạt động thi hành 7 án với hoạt động tố tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án có tính chất chính trị, pháp lý, xã hội của nó…. Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp. Nhưng cần khẳng định rằng, các quan hệ mang tính hành chính tư pháp là chủ yếu hơn. Thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc, Nhà nước có thể xây dựng hành lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây là điểm khác so với hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa [67, tr.10-11]. Cùng quan điểm trên, TS. Đinh Trung Tụng cho rằng: Thi hành án không mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hành chính-tư pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực hiện thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang nặng tính hành chính tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình sự đối với loại hình phạt không phải là hình phạt tù…) [67, tr.12]. Các quan điểm trên đều có hạt nhân hợp lý và đều dựa trên những luận cứ khoa học nhất định, nhưng về vấn đề này, tôi đồng tình với quan điểm thứ hai, tức là thi hành án dân sự là hoạt động mang tính hành chính- tư pháp. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về thi hành án và thi hành án dân sự như sau: Thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khái niệm về thi hành án dân sự: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan Thi hành án dân sự tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định nhằm đưa bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc các 8 quyết định khác theo qui định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.1.1.2. Khái niệm về tổ chức thi hành án dân sự Có nhiều định nghĩa khác nhau về “tổ chức”, một định nghĩa có ý nghĩa triết học sâu sắc: “Tổ chức, nói rộng, là cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự vật không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”. Tổ chức là thuộc tính của sự vật, nói cách khác sự vật luôn tồn tại dưới dạng tổ chức nhất định; Luật học (khoa học luật dân sự) gọi tổ chức là pháp nhân để phân biệt với thể nhân (con người) là các chủ thế của quan hệ pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tố chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Luật học nhấn mạnh đến các điều kiện thành lập tổ chức và các yêu cầu đảm bảo hoạt động của tổ chức. Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý nghĩa hẹp là “tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó”. Quan niệm về tổ chức theo Khoa học tổ chức và quản lý có nhiều điểm tương đồng với Luật học, Quản trị công ở chỗ đều xác định tổ chức thuộc về con người, là của con người trong xã hội; vì là tổ chức của con người, có các hoạt động chung do vậy mục tiêu của tổ chức là một trong những điều kiện quan trọng, không thể thiếu của tổ chức; Trong cuốn “Sổ tay nghiệp vụ cán bộ làm công tác tổ chức nhà nước” định nghĩa: „Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách có ý thức, có phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu chung (của tổ chức). Quan niệm của những người làm công tác tổ chức nhà nước có nhiều điểm tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong đó nhấn mạnh tới mục tiêu chung, nguyên tắc hoạt động của tổ chức (điều phối một cách có ý thức). Trên phương diện 9 ngôn ngữ: Tuỳ theo ngữ cảnh, tính chất, yêu cầu, mục đích... có thể sử dụng các thuật ngữ: cơ quan, đơn vị, pháp nhân, công ty, hội... thay thế thuật ngữ tổ chức. Sự đa dạng trên phương diện ngôn ngữ còn thể hiện ở việc thuật ngữ tổ chức được dùng với các chức năng khác nhau như: là danh từ, là động từ, là tính từ. Vậy, từ khái niệm THADS và khái niệm “tổ chức”, chúng ta có thể hiểu khái niệm về tổ chức THADS như sau: Tổ chức THADS là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được quản lý theo hệ thống dọc, thống nhất từ trung ương đến địa phương; có các công chức như: Chấp hành viên, thẩm tra viên, thư ký và các công chức khác, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được thực hiện theo qui định của pháp luật về THADS (các cơ quan THADS thuộc cơ quan hành chính - tư pháp). 1.1.1.3. Khái niệm hoạt động thi hành án dân sự Quan điêm thứ nhất cho rằng, hoạt động THADS là một hoạt động tư pháp. Theo quan điểm này thì hoạt động THADS là giai đoạn nằm trong quá trình giải quyết vụ án và nó được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự, là giai đoạn thực thi các phán quyết của Tòa án trên thực tế. Tuy nhiên, quan điểm này không lý giải được một vấn đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan THADS không phải là cơ quan tiến hành tố tụng. Quan đỉêm thứ hai cho rằng, hoạt động THADS là hoạt động mang tính hành chính vì bản chất, mục đích của THADS khác hoàn toàn với tố tụng dân sự. Bỡi lẽ, bản chất và mục đích của tố tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của các vụ án dân sự, việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo luật định. Đối với hoạt động THADS là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác do pháp luật quy định. Trên cơ sở bản án, quyết định, cơ quan THADS ban hành một quyết định hành chính mang tính cá biệt để tổ chức thực hiện bản án trên thực tế, yêu cầu các tổ chức, cá nhân, các đối tượng có nghĩa vụ và các chủ thể khác có liên quan thực hiện. Hơn nữa, hoạt động THADS là hoạt động hành chính vì bản chất của nó thể hiện rõ nét tính chấp hành và điều hành và toàn bộ hoạt động THADS nhằm thực hiện những nội dung được ghi trong bản án, quyết định của Tòa 10 án và các cơ quan khác theo quy định. Tuy nhiên, quan điếm này cũng không lý giải được đối với những trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu nhưng nếu người được THA và người phải THA không làm đơn yêu cầu THA, cơ quan THADS không có cơ sở để ra quyết định và tổ chức thi hành. Do đó, trong trường hợp này xác định hoạt động của thi hành án dân sự là hoạt động mang tính hành chính là không chính xác. Quan điểm thứ ba cho rằng, hoạt động THADS là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp, nó vừa mang tính hành chính, vừa mang yếu tố của tính tư pháp. Bởi lẽ, THADS không chỉ đơn thuần là hoạt động hoặc mang tính hành chính hoặc mang tính tư pháp, cũng càng không phải giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng. Theo giáo sư, viện sỹ Nguyễn Duy Quý và PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn thì “Cơ quan THADS cần xác định rõ là cơ quan hành chính - tư pháp (tác giả nhấn mạnh), hướng là phải tập trung nhiệm vụ thống nhất QLNN về công tác THA vào một đầu mối. Đồng thời, từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động THADS và quy định hình thức, thủ tục đã giao cho tổ chức không phải là cơ quan QLNN thực hiện một so công việc THA " [56, tr.12]. Bản chất của hoạt động THADS thể hiện rõ cả hai đặc điểm, đó là tính hành chính và tính tư pháp. Tính chất tư pháp của THADS thể hiện ở chỗ, đây là giai đoạn tiếp theo sau của quá trình giải quyết vụ án dân sự; công chức THADS, người tổ chức thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án trong cơ quan THADS được xét vào một loại chức danh và được đào tạo từ các trường đào tạo chức danh tư pháp. Mặt khác, hoạt động THADS là dạng hoạt động quản lý vì, THADS là việc tác động của pháp luật, thông qua các cơ quan THADS tới đối tượng phải THA để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyêt định của tòa án. Xét về bản chất, hoạt động THADS là hoạt động mang tính chất tổ chức, điều hành, đây là đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về hoạt động THADS như sau: Hoạt động THADS là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp, do cơ quan, 11 tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định để tổ chức thực hiện trên thực tế bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm thi hành án dân sự Thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, THADS là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp nhằm thực hiện quyền lực nhà nước, do cơ quan Thi hành án dân sự, các cơ quan có liên quan và người được nhà nước trao quyền thực hiện, bảo đảm hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định về dân sự khác của cơ quan có thẩm quyền được thi hành trên thực tế; duy trì và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thứ hai, thi hành án dân sự dựa trên các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực nhưng được thi hành ngay, đó là: bản án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự (phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí); quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam (gọi chung là bản án, quyết định của Tòa án). Những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, bao gồm: bản án, quyết định của Tòa án về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân… Thứ ba, trong thi hành án dân sự thông thường tồn tại ba chủ thể chính với địa vị pháp lý khác nhau, đó là cơ quan thi hành án dân sự, người phải thi hành án và người được thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và một số có quan có liên quan tham gia quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự không phải vì lợi ích của chính mình, mà nhân danh nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước trên thực tế để thi hành những phán quyết về dân sự của Tòa án, nhằm bảo đảm lợi 12 ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật của Nhà nước. Thứ tư, THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử; bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án dân sự. Nếu không có hoạt động xét xử thì không có hoạt động thi hành án. Do đó, THADS có mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng lại có tính độc lập tương đối, thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng cơ quan THADS mang tính bắt buộc chấp hành đối với các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS. Thứ năm, trong quá trình thi hành án, bằng các qui định của pháp luật, cơ quan thi hành án tác động tới đối tượng phải thi hành án nhiều biện pháp để họ tự nguyện thi hành hoặc áp dụng các biện pháp khác buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Toà án. Qua đó, giáo dục họ và những người liên quan về ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của tập thể và cá nhân, tôn trọng kỷ cương của nhà nước. Để thực hiện được điều đó, yêu cầu của hoạt động thi hành án phải có tính kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra... đó là những tính chất của hoạt động quản lý. Thứ sáu, trong thi hành án dân sự, việc thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định của Toà án chỉ phát sinh khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Điều đó có nghĩa là, sau khi tranh chấp đã được Toà án xét xử, các bên vẫn có quyền tiếp tục tự thoả thuận với nhau về hình thức, thời gian thực hiện quyền và nghĩa vụ trong suốt quá trình thi hành án. Cơ quan THADS có trách nhiệm theo dõi, giám sát và ghi nhận việc tự thoả thuận thi hành của các bên đương sự. Đây là một đặc điểm của thi hành án dân sự, xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận của các bên trong giao lưu dân sự được qui định trong Bộ luật dân sự. Từ chính đặc điểm này, làm cơ sở để nhà nước thực hiện chủ trương xã hội hoá một số mặt hoạt động THADS. Thứ bảy, hoạt động của cơ quan THADS chủ yếu thông qua vai trò của các cá nhân được Nhà nước trao quyền thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, như: 13 Chấp hành viên, thẩm tra viên, thư ký thi hành án... Khi tổ chức thi hành thi hành án, họ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Việc thi hành án dân sự phải theo một cơ chế chặt chẽ do pháp luật về thi hành án dân sự qui định. Trong quan hệ về thi hành án dân sự, Nhà nước ban hành hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự một cách chi tiết, chặt chẽ bao gồm các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan thi hành án thực hiện nhiệm vụ trên thực tế. Điều đó thể hiện tính độc lập rất cao trong hoạt động thi hành án dân sự. 1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự Thứ nhất, THADS có vai trò bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ gìn trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Thông qua hoạt động THADS, những phán quyết của Tòa án được thực thi trên thực tế, công lý, công bằng xã hội được đảm bảo thực hiện, trật tự xã hội được giữ vững, niềm tin của nhân dân đối với nhà nước được củng cố. Một vụ việc chỉ được kết thúc, khi bản án, quyết định của Tòa án đã được thi hành đầy đủ trên thực tế. Nếu các bản án, quyết định của Tòa án không được thi hành trên thực tế thì sẽ tác động ngược lại đến toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định của Tòa án không được tôn trọng; pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự, kỷ cương xã hội chưa nghiêm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại, đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự xung đột xã hội, tạo hiệu ứng tiêu cực trong xã hội. Thứ hai, THADS là khâu hoàn tất hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động tư pháp khác. Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp và tốn kém, song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án, quyết định của Tòa án không được đưa ra thi hành trên thực tế. Thông qua hoạt động THADS, hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án được đảm bảo. THADS còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án đối với tính đúng dắn, khách quan, trung thực, chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử. Thực tế cho thấy, nhiều vụ việc khi cơ quan Thi hành án tổ chức thi hành, đương sự không những 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan