Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn quận hải châu, th...

Tài liệu Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn quận hải châu, thành phố đà nẵng

.PDF
75
97
99

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NGỌC HẠNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 838.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐINH NGỌC VƯỢNG HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan, luận văn "Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng" là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Ngọc Hạnh MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM .............. 10 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam ................................................................................................................. 10 1.2. Hệ thống chính trị ở cơ sở ........................................................................ 14 1.3. Tổ chức và hoạt động hệ thống chính trị ở Việt Nam .............................. 18 1.4. Những yếu tố tác động đến quá trình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở quận Hải Châu ........................................................... 23 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................................. 26 2.1. Khái quát về quận Hải châu, thành phố Đà Nẵng .................................... 26 2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tại quận Hải Châu................................................................................................................. 28 2.3. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tại quận Hải Châu ................................................................................................. 36 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..... 41 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở quận Hải Châu ................................................................................................. 41 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị quận Hải Châu ................................................................................................. 42 KẾT LUẬN .................................................................................................... 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ BTV Ban Thường vụ CBCNVC Cán bộ công nhân viên chức CBCNVC Can bộ công nhân viên chức CNXH Chủ nghĩa xã hội CTQG Chính trị Quốc gia ĐTN Đoàn thanh niên HCCB Hội Cựu chiến binh HĐND Hội đồng nhân dân HLHPN Hội Liên hiệp phụ nữ HTCT Hệ thống chính trị NXB Nhà xuất bản QCDC Quy chế dân chủ TB&XH Thương binh và Xã hội TU Thành ủy UBMT Ủy ban Mặt trận UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam UBND Ủy ban nhân dân XDCB Xây dựng cơ bản XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng bảng 2.1. Diện tích, dân số và mật độ dân số quận Hải Châu năm 2019 Trang 26 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khái niệm “hệ thống chính trị” lần đầu tiên xuất hiện trong các văn bản chính thức của Đảng ta từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI. Cho đến nay, khái niệm hệ thống chính trị được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản chính thức của Đảng, Nhà nước, các công trình nghiên cứu và các diễn đàn khoa học. Hệ thống chính trị của nước ta gồm các yếu tố về mặt tổ chức là: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (bao gồm Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam). Toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam, từ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện hệ thống chính trị và toàn xã hội; nguyên tắc dựa vào nhân dân, giữ vững mối quan hệ mật thiết với nhân dân; nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy lợi ích dân tộc làm điểm tương đồng và nguyên tắc nhân dân là chủ xã hội và đất nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986, trong khi đổi mới trên lĩnh vực kinh tế được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, thì Đảng cũng xác định phải đồng thời từng bước thực hiện đổi mới hệ thống chính trị. Tiếp tục xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị nói chung, hệ thống chính trị cơ sở nói riêng là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là điều kiện tất yếu đảm bảo thành công của sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Do đó, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa 1 IX của Đảng năm 2002, Ban Chấp hành TW Đảng đã ban hành nghị quyết về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn". Và cũng tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI của Đảng năm 2013 đã ban hành Kết luận số 64 ngày 28/5/2013 về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở" nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn (gọi tắt là cấp xã) được xác định là cấp cuối cùng trong phân cấp hành chính ở nước ta hiện nay, là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống, nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội. Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta bao gồm: Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội hoạt động trên địa bàn cấp xã, có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện, đồng thời vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời tổ chức hoạt động và huy động mọi khả năng tại cộng đồng dân cư để phát triển kinh tế - xã hội. Sau hơn 30 năm công cuộc đổi mới ở nước ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống chính trị các cấp nói chung và hệ thống chính trị cấp cơ sở đã được nâng lên, năng lực và hiệu quả hoạt động có nhiều chuyển biến. Bộ máy Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận đang được đổi mới cả về tổ chức cũng như phương thức hoạt động. 30 công cuộc Đổi mới ở nước ta chứng minh rằng, đổi mới hệ thống chính trị - một đòi hỏi khách quan, một chủ trương đúng đắn của Đảng ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng (khóa IX) “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 2 BCH Trung ương Đảng (khóa XI) về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung Đảng (khóa X) “Về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”; điều này cho thấy rằng sự quyết tâm của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị các cấp, trong đó có hệ thống chính trị cấp cơ sở. Với sự năng động, sáng tạo trong hoạt động, dám nghĩ, dám làm hệ thống chính trị cơ sở của quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã đạt được nhiều kết quả trên tất cả các lĩnh vực; quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát huy; tạo sự đồng thuận xã hội. Đội ngũ cán bộ ở quận Hải Châu được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Đảng bộ quận Hải Châu trong nhiều năm liền được Thành ủy Đà Nẵng công nhận danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Tuy vậy, cũng cần phải thấy rằng, hệ thống chính trị cơ sở ở quận Hải Châu vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị cở sở ở một số phường trong quận, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên chưa thực sự phát huy vai trò của mình, quyền làm chủ của người dân chưa được phát huy, có nơi nội bộ mất đoàn kết. Chính vì vậy quận Hải Châu phải khắc phục những yếu kém, phát huy những mặt tích cực, nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Vì vậy, tôi chọn đề tài "Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hiến pháp và Luật hành chính của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài  Các nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở (các nghiên cứu gần với đề tài) Các công trình nghiên cứu có phạm vi nghiên cứu gần với đề tài có thể 3 kể đến như: Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp cơ sở) trong giai đoạn hiện nay, TS. Lưu Minh Trị, năm 1993; Đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở nông thôn (thông qua khảo sát thực tế của tỉnh Tuyên Quang), Đặng Thị Hiền, Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên ngành Triết học, 1993; Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hoá đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, TS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp, TS. Võ Hoàng Công, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002; Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải pháp đổi mới, TS. Chu Văn Thành (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; GS, TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên): Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay (sách tham khảo). Các nghiên cứu nêu trên cũng chỉ ra những vấn đề thực trạng và những hạn chế cần khắc phục đối với hệ thống chính trị cơ sở nói chung và hệ thống chính trị cơ sở trên một số địa bàn cụ thể nói riêng. Ngoài ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra những cấu thành của hệ thống chính trị cơ sở, vị trí, vai trò của từng cấu thành và đánh giá các kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế đưa ra các giải pháp đổi mới đối với từng cấu thành trong hệ thống chính trị cơ sở. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cá biệt còn chỉ ra được những khác biệt về các điều kiện địa phương, môi trường… Từ đó đưa cho chúng ta những cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về vị trí, vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong các điều kiện xã hội nhất định. Đối với các kết quả nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở cũng giúp cho tác giả có được những nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của hệ thống 4 chính trị cơ sở đối với hệ thống chính trị nói chung và đối với xã hội nói riêng. Các nghiên cứu chung về hệ thống chính trị Các công trình này có thể kể đến như: Suy nghĩ về hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay của TS. Trần Thái Dương, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, 2013; Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động, GS.TS. Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 2, 2006; Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc, Tạp chí Triết học, số 3 năm 1996; Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới của tập thể tác giả: GS. Nguyễn Đức Bình, GS, TS. Trần Ngọc Hiên, GS. Đoàn Trọng Tuyến, Nguyễn Văn Thảo: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Giá trị của các công trình nghiên cứu trên đã đạt được những kết quả chủ yếu như sau: Thứ nhất, các nghiên cứu này chỉ ra các cách tiếp cận khác nhau từ đó đưa ra các khái niệm khác nhau về hệ thống chính trị. Về nhận diện chung các nghiên cứu này là khá đầy đủ và toàn diện trong các lý thuyết về hệ thống chính trị; Thứ hai, thông qua việc phân tích cấu trúc, đặc điểm, các nhân tố của hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị Việt Nam nói riêng. Các tác giả đã tiếp thu có chọn lọc những giá trị hợp lý trong việc tổ chức và hoạt động của các mô hình hệ thống chính trị trên thế giới đưa ra các kiến nghị về việc xây dựng, đổi mới hệ thống chính trị nước ta hoạt động có hiệu quả hơn nhưng vẫn giữ được những nét đặc thù Việt Nam; Thứ ba, từ việc tiếp cận nghiên cứu hệ thống chính trị nước ta ở phương diện khảo sát thực tiễn và nghiên cứu lý luận, các nhà khoa học đã chỉ ra những tích cực và những hạn chế, bất cập này cùng những nguyên nhân của nó. Nhiều công trình đã đi tìm những bức xúc nổi cộm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. 5 Những vấn đề mà đề tài cần phải tiến hành nghiên cứu Như đã trình bày, những nghiên cứu lý luận trước đây về hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng mặc dù đã được các tác giả dày công nghiên cứu nhưng vẫn có những ý kiến khác nhau. Có những các tiếp cận hệ thống chính trị từ phương diện thực tiễn, có các tiếp cận từ phương diện lý luận hoặc từ các mô hình. Do đó, mỗi các tiếp cận khác nhau đều mang đến những điểm khác nhau. Vì vậy muốn đề tài đạt được kết quả mong muốn tác giả hi vọng sẽ mang nhiều tiếng nói từ thực tiễn để có thể lý giải những vấn đề cần được làm rõ hiện nay. Trong các nghiên cứu đã đề cập trên, hầu hết các nghiên cứu đã giải quyết được những vấn đề mang tính lịch sử của nó đó là: Các nghiên cứu đó đáp ứng được những đòi hỏi thực tiễn ở giai đoạn đó nhưng hiện nay khi mà chúng ta đang có những nhiệm vụ chính trị của Đại hội XII thì mục tiêu cũng như các yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng là khác nhau. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, việc đổi mới hệ thống chính trị cần đáp ứng những điều kiện mới đó cũng là vấn đề mà đề tài phải quan tâm nghiên cứu. Sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay trong điều kiện một xã hội mở cửa, hội nhập, nhiều giá trị mới cũng như nhiều công nghệ mới được áp dụng, vận hành. Do đó, cách thức tiếp cận của hệ thống chính trị cơ sở đối với những vấn đề thực tiễn cũng cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện hơn. Việc nghiên cứu hệ thống chính trị ở cơ sở trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng là một nghiên cứu đặc thù. Chính vì vậy, đây cũng là vấn đề để Luận văn tập trung khai thác và đưa ra những kiến nghị khoa học trong nghiên cứu của mình. Trên đây là những vấn đề mà đề tài cần tiếp tục nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả thấy rằng, tất cả những công trình nghiên cứu 6 trước đây thực sự là những tư liệu quý giá đối với tác giả để tiếp cận và kế thừa có chọn lọc chúng trong quá trình nghiên cứu luận văn và nó có tính quyết định để tác giả hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Lựa chọn cơ sở lý thuyết phù hợp về hệ thống chính trị cơ sở sẽ là căn cứ quan trọng để tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài. Đồng thời đây là cơ sở quan trọng để luận giải sự phù hợp, hạn chế trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay Kết quả nghiên cứu, đánh giá thực trạng về hệ thống chính trị cơ sở ở quận Hải Châu, đưa ra trong Chương 3 những giải pháp chính góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý luận về hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. - Phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở nói chung và hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính 7 trị cơ sở từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ xã hội chủ nghĩa và về Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên các phương pháp trong nghiên cứu khóa học như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại… kết hợp lý luận và thực tiễn để giải quyết vấn đề đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm rõ thêm một số nhận thức chung về hệ thống chính trị nước ta nói chung và đặc biệt là tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở nói riêng căn cứ vào thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Trên cơ sở các luận cứ khoa học và các khảo sát thực tiễn để xác định những vấn đề bất cập và tồn tại đang đặt ra đối với hệ thống chính trị ở cơ sở trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Từ đó, luận văn đưa những kiến nghị trong đổi mới về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở ở nước ta hiện nay, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở quận Hải Châu. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các nội dung: Lời cam đoan, phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của Luận văn có 3 chương: 8 Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng 9 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị Người ta nói đến hệ thống chính trị khi nói đến nhà nước, cho nên hệ thống chính trị mang tính giai cấp. Nhà nước và thiết chế chính trị liên kết với nhau thành một hệ thống, tác động đến đời sống chính trị - xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ, phục vụ lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền. Giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động ở Việt Nam là chủ thể của quyền lực nhà nước. Do đó, hệ thống chính trị Việt Nam là công cụ thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khái niệm "Hệ thống chính trị" theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lenin, là sản phẩm của quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử nhất định. C. Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu khái niệm hệ thống chính trị như một chế độ chính trị với tính cách là một chỉnh thể, một hệ thống, như cơ cấu chính trị của xã hội, Chế độ chính trị của nhà nước. Phát triển tư tưởng về dân chủ và hệ thống chính trị của C.Mác, V.I. Lenin đã đưa ra khái niệm hệ thống chính trị ở nước Nga Xô viết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với khái niệm "chuyên chính vô sản" (Khái niệm này vẫn được dùng ở nước ta cho đến Hiến pháp năm 1980). Hệ thống chuyên chính vô sản theo quan niệm của Lenin bao gồm: Nhà nước của giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo đối với nhà nước và các tổ chức quần chúng, trong đó tổ chức công đoàn đóng 10 vai trò quan trọng. Ở phương Tây, về cơ bản có 2 cách tiếp cận đối với hệ thống chính trị. Một là, tiếp cận về thể chế: được xem hệ thống chính trị là tập hợp các thể chế chính trị bao gồm các tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và những mối quan hệ của chúng. Hai là, tiếp cận về hệ thống: được xem hệ thống chính trị không chỉ bao gồm cấu trúc thể chế và các quan hệ giữa chúng, mà còn là những hành vi chính trị, vai trò chính trị, chuẩn mực chính trị. Từ hai cách tiếp cận cơ bản này phát triển nên một số quan điểm khác nhau về hệ thống chính trị như: Nhà chính trị học Mỹ D.Istons, trong tác phẩm Hệ thống chính trị (1953), Giới hạn sự phân tích chính trị (1965) cho rằng: "Hệ thống chính trị giống như một bộ máy tự phát triển, tự điều tiết và phản ứng với những tác động từ bên ngoài. Hệ thống đó có đầu vào và đầu ra. Đầu vào đó là nơi tiếp nhận những tác động, yêu cầu, ủng hộ... của môi trường xã hội và văn hóa xã hội quanh nó. Còn đầu ra là những quyết định chính trị và hành động chính trị để thực hiện các quyết định đó" [43, tr.3334]. Cách tiếp cận khác của nhà chính trị học Mỹ G. Một số cách tiếp cận khác cho rằng: "Hệ thống chính trị là cơ chế để thực hiện và giải quyết các vấn đề, đồng thời để hoạch định và kiểm soát sự thực hiện các quyết định cũng như kiểm soát các quan hệ quản lý của Nhà nước" [43, tr.35]. Đến đầu những năm 80, khái niệm hệ thống chính trị được khẳng định trong các tài liệu triết học, chính trị học của Liên Xô. Ở nước ta, nhìn chung, cách tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị là mô tả các yếu tố thực thể cơ bản cấu thành và phản ánh chức năng tổng quát của hệ thống chính trị. Từ quan điểm đó, có thể đưa ra định nghĩa về hệ thống chính trị như sau: "Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế của chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức và các phong trào chính trị...) được xây dựng trên các quyền và chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những 11 nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị" [55, tr.262]. Như vậy, có thể thấy, hệ thống chính trị là một hệ thống cấu trúc, một chỉnh thể bao gồm các bộ phận cấu thành, có quan hệ mật thiết với nhau, có vai trò, vị trí, chức năng khác nhau. Hệ thống chính trị đó được thể hiện ở các cấp khác nhau: trung ương, địa phương, cơ sở. Cấu trúc hệ thống chính trị rất đa dạng, tùy theo mỗi quốc gia, hệ thống chính trị có đặc thù khác nhau nhưng về cơ bản có 3 bộ phận: Đảng chính trị, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội nhân dân. Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hệ thống chính trị, có thể lấy một số quan điểm tiêu biểu như sau: Thứ nhất, Hệ thống chính trị là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hội đó. Hệ thống này bao gồm nhà nước, các chính đảng, các nghiệp đoàn và các tổ chức chính trị khác, trong đó nhà nước đóng vai trò là yếu tố cơ bản và trung tâm. Thứ hai, Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội. Thứ ba, Hệ thống chính trị được cơ cấu, tổ chức gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp và hoạt động theo pháp luật hiện hành nhằm bảo vệ, duy trì và phát triển xã hội đó… Hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - thể hiện bản chất, các đặc điểm, quy luật hình thành và phát triển của chế độ chính trị mới, của chủ nghĩa xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động với tư cách là một hệ thống thống nhất của các thiết chế và quan hệ chính trị. Ở nước ta, hệ thống chính trị mới ra đời sau cách mạng tháng Tám cùng với sự hình thành Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cùng với việc xây dựng và phát triển của chế độ xã hội mới, hệ thống chính trị của nước ta ngày càng phát triển và hiện nay là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu tổng quát của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội 12 chủ nghĩa Việt Nam là xây dựng một xã hội phồn vinh, dân chủ, nhân đạo, công bằng không áp bức bóc lột. Ở nước ta, hệ thống chính trị về cơ cấu, tổ chức bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam và các tổ chức xã hội hợp pháp khác. Hệ thống chính trị nước ta có một số đặc điểm cơ bản sau: 1) Hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động rất chặt chẽ, có tính thống nhất cao trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ phận hợp thành hệ thống chính trị; 2) Hệ thống chính trị nước ta có mục tiêu hoạt động tương đối thống nhất có sự thống nhất về lợi ích lâu dài, hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tối cao là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; 3) Hệ thống chính trị nước ta có tính dân chủ cao; 4) Trong xã hội ta quần chúng lao động có tính tích cực chính trị cao. 1.1.2. Các thiết chế của hệ thống chính trị Hệ thống chính trị là một chính thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền. Hệ thống chính trị Việt Nam đi theo nguyên mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa đơn đảng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ thể chân chính của quyền lực. Hệ thống chính trị bao gồm 3 yếu tố chính: • Đảng Cộng sản Việt Nam, còn được gọi là Đảng chính trị, là lực lượng chủ yếu quyết định đường lối đối nội, đối ngoại của đất nước. 13 • Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam • Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận; đây là những tổ chức chính trị - xã hội để hỗ trợ và hậu thuẫn cho sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. 1.2. Hệ thống chính trị ở cơ sở 1.2.1. Khái niệm hệ thống chính trị ở cơ sở Trong khoa học chính trị - pháp lý ở Việt Nam, cấp cơ sở là chỉ cấp xã cấp thấp nhất trong hệ thống hành chính 4 cấp. Hệ thống chính trị ở cơ sở - theo tinh thần Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, là hệ thống chính trị ở cấp xã (xã, phường, thị trấn). Cơ sở là khái niệm dùng để chỉ một cấp quản lý cấp thấp nhất trong hệ thống bốn cấp hành chính hiện hành ở nước ta (xã, phường, thị trấn) Đây là nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội gần dân nhất, là nơi vừa diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh của cư dân, là đầu mối của thị trường, hình thành các quan hệ kinh tế trong mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Ở cấp cơ sở, vai trò của Đảng giữ vị trí hạt nhân lãnh đạo chính quyền, đoàn thể và nhân dân hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và tổ chức cuộc sống của nhân dân. Hiện có cách tiếp cận khác nhau về hệ thống chính trị cơ sở. Một là, hệ thống chính trị cơ sở được xem như một hệ thống về mặt tổ chức gồm các bộ phận cấu thành: các tổ chức Đảng bộ cơ sở, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (gọi chung là chính quyền), Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân (Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh và Hội Nông dân) ở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Đảng bộ cơ sở, cụ thể là Ban Chấp hành Đảng bộ xã, phường, thị trấn là hạt nhân chính trị, thực hiện vai trò lãnh đạo bằng việc đề ra các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết định hướng 14 cho chính quyền địa phương triển khai các hoạt động quản lý, điều hành trên phạm vi địa bàn; bằng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban Nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia giám sát và phản biện xã hội, làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Bên cạnh đó, cấp cơ sở hiện nay còn có nhiều tổ chức do nhân dân tự nguyện thành lập, đáp ứng nhu cầu giao tiếp, kết nối cộng đồng, cùng tổ chức đời sống của dân cư, tạo sự đồng thuận trong xã hội, đoàn kết trong nội bộ dân cư địa phương. Củng cố, nâng cao vai trò của hệ thống chính trị cơ sở cũng có nghĩa là phải củng cố từng tổ chức này, cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống, trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý điều hành của chính quyền, không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân Hai là, nói về hệ thống chính trị cơ sở không chỉ nói về mặt tổ chức, mà còn bao gồm cả các yếu tố, điều kiện đảm bảo cho các bộ phận của hệ thống đó vận hành thông suốt. Ở đây, hệ thống chính trị cơ sở được hiểu theo bản chất của dân chủ ở cơ sở. Ở phương diện này đòi hỏi phải nghiên cứu về quyền dân chủ trong bầu cử, hoạt động chất vấn đại biểu Hội đồng nhân dân theo phương châm "Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra". Các tổ chức chính quyền địa phương như Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân; tổ chức Đảng, Mặt trận và các đoàn thể phải phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Có như vậy mới tạo ra động lực thực sự thúc đẩy sự phát triển của cơ sở. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan