Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức và hoạt động của các chi cục thi hành án dân sự từ thực tiễn thàn...

Tài liệu Tổ chức và hoạt động của các chi cục thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
85
39
99

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG TRUNG HIẾU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS . NGUYỄN TUẤN KHANH HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Tuấn Khanh. Trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi có tham khảo một số bài viết, công trình nghiên cứu và các tài liệu liên quan của các tác giả, cơ quan Nhà nước. Các số liệu, trích dẫn được sử dụng trong Luận văn đều trung thực, chính xác và đảm bảo độ tin cậy, có nguồn gốc rõ ràng. Việc sử dụng các nguồn tham khảo được trích dẫn, chỉ ra trong Danh mục tài liệu tham khảo. Tôi xin cam đoan những lời trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. TÁC GIẢ Hoàng Trung Hiếu MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ........................................................ 8 1.1. Khái quát chung về công tác thi hành án dân sự ............................................................ 8 1.2. Địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chi cục thi hành án dân sự ..... 19 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của chi cục thi hành án dân sự ...... 27 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................. 31 2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội và sự tác động đến công tác thi hành án dân sự ............................................................................................ 31 2.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của các chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội................................................................................................................... 34 2.3. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của các chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội ..................................................................................................... 45 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................................................................................................... 58 3.1. Phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự58 3.2. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội .................................................................................................................. 62 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................... 76 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TAND : Tòa án nhân dân THADS : Thi hành án dân sự UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN: : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Điều 106 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [46, tr.27]. Thi hành án dân sự (THADS) có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về THADS. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2004) nêu rõ: “Tập trung thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng kéo dài.” [34, tr. 11], Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 đã nêu: “Xây dựng Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án; xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất công tác thi hành án; từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án.” [7, tr. 4]. Đặc biệt là trong Nghị quyết số 11NQ/TW ngày 03/6/2017 tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, lần đầu tiên THADS được xác định là một trong các hoạt động, lĩnh vực cần tăng cường tính độc lập, tập trung triển khai thực hiện để góp phần vào quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN [32, tr. 12]. 1 Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà nước trước đây, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và gần đây là Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 và Nghị quyết về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự số 24/2008/QH12, Luật số 64/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015 với mục đích nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác THADS, góp phần bảo đảm thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành. Thực hiện Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự đã góp phần cụ thể những quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự áp dụng trên thực tiễn. Tuy nhiên, những năm gần đây, do tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế, các giao lưu dân sự trong nội bộ nhân dân và giữa các cơ sở kinh tế ngày càng mở rộng và đa dạng, dẫn tới số vụ việc tranh chấp về dân sự và kinh tế ngày càng tăng về số lượng và phức tạp về nội dung. Kết quả là số lượng các bản án, quyết định phải thi hành ngày càng tăng theo từng năm, tổng số tiền và hiện vật phải thi hành ngày càng lớn, trong đó có nhiều vụ việc rất khó khăn, phức tạp trong việc tổ chức thi hành. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp Ủy Đảng, chính quyền và sự cố gắng của đội ngũ cán bộ, công chức thi hành án từ Trung ương tới địa phương do đó nhiều bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền đã được cơ quan THADS kịp thời đưa ra tổ chức thi hành theo quy định của pháp luật, đạt hiệu quả cao; hệ thống tổ chức cơ quan Thi hành án dân sự được thành lập ổn định, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, số vụ việc và số tiền phải thi hành chuyển kỳ sau vẫn còn rất lớn, có xu hướng tăng lên. Đáng lo ngại là trên thực tế nhiều vụ việc 2 không thể thi hành được còn tồn tại rất nhiều. Trong những năm qua, ngành thi hành án đã đạt được những kết quả nhất định nhưng lượng án tồn đọng vẫn còn đáng kể. Để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49/NQ-TW năm 2005 thì việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự nói chung và các Chi cục Thi hành án dân sự nói riêng là một yêu cầu cấp thiết. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự là một vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, công tác thi hành án ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, coi trọng. Do đó, ngày càng có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến công tác Thi hành án dân sự, có thể kể tên một số công trình nghiên cứu sau đây: - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới”, mã số 2000-58-198 do TS Nguyễn Đình Lộc làm chủ nhiệm đề tài, năm 2000; - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số 96-98-207/ĐT do Cục quản lý thi hành án dân sự Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; - Chuyên đề “Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, năm 2001; - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Những cơ sở lý luận, thực tiễn về chế định thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT, do Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý – Bộ tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực 3 hiện, năm 1998; - Hoàng Thọ Khiêm (Chủ biên), ổi mới tổ chức cơ quan thi hành án, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2006; - Đề tài “Một số vấn đề tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Văn Quảng (1996) tác giả thực hiện công trình nghiên cứu này sau khi pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 có hiệu lực pháp luật, cũng là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên sau khi cơ quan Thi hành án dân sự chuyển từ Tòa án các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ, trong đề tài của mình tác giả đã nghiên cứu thực trạng thi hành án dân sự giai đoạn đó và đề ra những ý kiến đề xuất cần phải ban hành Luật Thi hành án dân sự và nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. - Đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội của tác giả Nguyễn Văn Công, năm 2012. Đề tài tập trung nghiên cứu về một số quy định của pháp luật thi hành án dân sự và những kết quả đã đạt được của công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, những ưu điểm, tồn tại, hạn chế từ đó tìm ra nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Bắc Giang. - Đề tài: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Khoa học xã hội của tác giả Phạm Huy Ân, năm 2014. Đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình tổ chức và hoạt động của của cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, những hạn chế, vướng mắc từ đó tìm ra nguyên nhân và đề ra định hướng để hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Nam. - Đề tài:“Thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Lê Quỳnh Nga, năm 2014. Đề tài đi sâu nghiên cứu về vấn đề chung đặc điểm, vai trò, thực trạng công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, những 4 khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và đề ra phương hướng, giải pháp để đẩy mạnh công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Bắc Ninh. Đồng thời, còn rất nhiều các bài viết, bài tham luận, bài báo hoặc các giáo trình mà người viết đã tham khảo, xem xét như: Giáo trình Kỹ năng thi hành án dân sự (phần chung) của Học viện Tư pháp; Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự - Tổng cục Thi hành án dân sự; Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ Chấp hành viên trung cấp của Học viện Tư pháp; tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, lãnh đạo cấp phòng của Học viện Tư pháp; một số bài viết chuyên đề về công tác thi hành án dân sự trên Tạp chí Dân chủ pháp luật… Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu sâu về những vấn đề chung về thi hành án dân sự; những vấn đề mang tính tổng thể hay những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của thi hành án dân sự trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức và hoạt động của các chi cục thi hành án dân sự nói chung và đặc biệt là về tổ chức và hoạt động của các chi cục thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội nói riêng. Đồng thời, đa số các công trình nghiên cứu liệt kê ở trên được thực hiện trước khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2015. Như vậy, đây là một đề tài vừa mang tính thời sự, cấp thiết nhưng không có sự trùng lắp với các công trình khoa học đã công bố. Chính sự không trùng lắp này là một trong các lý do để đề tài này được lựa chọn thực hiện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động và tổ chức của các Chi cục Thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội những năm qua, chỉ ra những tồn tại, khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân 5 từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả s tập trung nghiên cứu các nội dung sau: Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về tổ chức và hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự: Quan niệm, đặc điểm, mục đích, nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự thủ tục thi hành án dân sự, địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chi cục Thi hành án dân sự, các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự. Thứ hai, phân tích, đánh giá quá trình hình thành, phát triển và thực trạng tổ chức và hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, chỉ rõ những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế, nguyên nhân của tồn tại hạn chế trong tổ chức và hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội. Thứ ba, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự nói chung và các Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đ ượ ê u Luận văn s tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội. 4.2. P m ê u Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của 30 Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của 30 Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận để thực hiện đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư 6 tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm: - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp được áp dụng cho nội dung nghiên cứu trong phần cơ sở lý luận trình bày tại Chương 1 của luận văn. - Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh được sử dụng cho những nghiên cứu trong các nội dung nêu tại Chương 2 của luận văn. - Phương pháp phân tích, tổng hợp và quy nạp áp dụng tại Chương 3 của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận, luận văn góp phần làm rõ thêm một số khái niệm như: Thi hành án dân sự, kiểm tra thi hành án dân sự; về tổ chức và hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự; chỉ ra những tồn tại, hạn chế, bất cập; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự nói chung và các Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội nói riêng. Về thực tiễn, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên và những người làm công tác có liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu trong Luận văn cũng có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức trong quá trình nghiên cứu, tham mưu xây dựng chính sách, pháp luật về THADS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức và hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1 Khái quát chung về công tác thi hành án dân sự 1.1.1. Qu ệm, ặ ểm Xét về mặt thuật ngữ, thi hành án dân sự là một cụm từ ghép bao gồm hai vế “thi hành án” và “dân sự”. Nếu như khái niệm “dân sự” đã được định nghĩa rõ nét trong Bộ luật dân sự năm 2005 thì khái niệm “thi hành án” cho đến nay vẫn đang được quan tâm nghiên cứu. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là thực hiện điều đã chính thức quyết định [65, tr.1559]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết các vấn đề trong vụ án kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, hình sự, dân sự, hành chính… Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực, hiệu quả, ngoài bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội, công dân đối với phán quyết của Tòa án. Đồng thời, nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị xâm hại. Theo từ điển Luật học thì thi hành án là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật [55, tr.464]. Do đó, thi hành án được xem là hoạt động Tư pháp do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) tại Điều 1 và Điều 2 đã quy định thi hành án dân sự là hoạt động của nhiều tổ chức và cá nhân, bao gồm cả cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại. Việc xác định bản chất của THADS vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận cả từ góc độ lý luận và thực tiễn, có nhiều cách lập luận cũng như tiếp cận khác nhau. Dựa trên những luận cứ khác nhau, có quan điểm cho rằng: Quan điểm thứ nhất: THADS là một hoạt động tư pháp vì nó gắn liền với các giai đoạn tố tụng. Thi hành án là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, trên 8 cơ sở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp được pháp luật quy định để đưa chân lý trở thành hiện thực trong đời sống thực tế. Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác về bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức và quản lý. Thi hành án nhằm mục đích thực thi các phán quyết của Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành và thi hành có hiệu quả trên thực tế, giải quyết các vấn đề thi hành án về phần dân sự và tài sản trong vụ án hình sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính... các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử [63, tr. 8]. Quan điểm thứ hai: THADS là một loại hoạt động hành chính. Quan điểm này dựa trên cơ sở pháp luật hiện hành không quy định cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, vì bản chất, mục đích của thi hành án khác hoàn toàn với tố tụng, không thể gắn nó với hoạt động tố tụng dân sự. Bởi l , bản chất và mục đích của hoạt động tố tụng dân sự là đi tìm sự thật khách quan của các vụ án, vụ việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo quy định của pháp luật. Để có được các phán quyết đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân tiến hành tố tụng tham gia theo một quy trình tố tụng chặt ch , công khai, minh bạch. Còn hoạt động THADS lại là một quy trình đi ngược lại với quy trình, thủ tục tố tụng. Xuất phát từ một bản án, quyết định của toà án, cơ quan thi hành án dân sự đưa ra một quyết định mang tính hành chính dựa trên một văn bản cá biệt để điều chỉnh hoạt động của cá nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và chủ thể được thi hành án. Hoạt động THADS mang tính quản lý hành chính nhà nước rõ nét vì bản chất hoạt động này mang tính chất chấp hành và điều hành. Tuy nhiên, vẫn còn điểm bất hợp lý là ở chỗ nếu coi THADS là một hoạt động hành chính thì với những trường hợp người được thi hành án không làm đơn yêu cầu thi hành án thì cơ quan THADS không có cơ sở và các phương pháp hành chính như: Mệnh lệnh, quyền uy để đưa ra các biện pháp thi hành án dân sự được. Do đó, yếu tố hành chính không đảm bảo. Quan điểm thứ ba, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động hành chính tư pháp. Có nghĩa là hoạt động này vừa mang yếu tố của tính hành chính, vừa mang yếu tố của tính tư pháp. Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà 9 nước, trong đó Tòa án đã xác định quyền và nghĩa vụ của các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn hoàn toàn khác, không thuộc quá trình tố tụng. Thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng bởi vì "thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [49, tr. 21]. Cùng quan điểm trên PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: Không thể đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố tụng, do hoạt động thi hành án có tính chất chính trị, xã hội và pháp lý của nó. Nghiên cứu hoạt động thi hành án hiện nay cần phải đặt trong vấn đề để xây dựng nhà nước pháp quyền. Xét về bản chất, hoạt động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu, cụ thể: Xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình thi hành án. Tính đặc thù trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án; Đặc thù trong các quan hệ về thủ tục thi hành án. Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ mang tính hành tính- tư pháp và quan hệ tố tụng. Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận ra các quan hệ mang tính hành chính - tư pháp thể hiện đậm nét hơn. Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, có thể thấy điểm khác biệt căn bản ở hoạt động thi hành án và hoạt động tố tụng là trong một số lĩnh vực, một số công việc của hoạt động thi hành án, Nhà nước có thể xây dựng hành lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này còn hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không có xã hội hóa. Quan điểm này cho rằng, thi hành án dân sự chỉ là hoạt động thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, không thuộc quá trình tố tụng nên không phải là hoạt động tư pháp. Trong quá trình thi hành án không chỉ có Toà án mà còn nhiều cơ quan hành chính nhà nước khác có liên quan cùng tham gia tổ chức thi hành án, trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì s bị cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án để đảm bảo thưc hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Nhận xét về ba quan điểm nêu trên cho thấy, cả ba quan điểm đều có những điểm hợp lý. Tuy nhiên, theo tác giả để nghiên cứu sâu hơn về vấn đề lý luận và thực tiễn cho thấy, quan điểm thứ ba coi thi hành án là hoạt động hành chính – tư 10 pháp s là hợp lý hơn cả, bởi những lý do sau: - Cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định dân sự của Toà án; các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ quan tư pháp. Do đó, không có kết quả của hoạt động xét xử thì không có hoạt động thi hành án. - Trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án tác động tới người phải thi hành án để họ tự nguyện thi hành, trong trường hợp họ không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án s áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định để buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, quyết định khác theo quy định của pháp luật. Qua đó, nhằm giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của họ cũng như những người xung quanh. Để thực hiện được điều đó, yêu cầu của hoạt động thi hành án phải có tính tổ chức, kế hoạch, kiểm tra, đôn đốc… đó là những tính chất cơ bản của hoạt động quản lý. - Thi hành án dân sự và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả với nhau. Vì vậy, nếu bản án, quyết định khi được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, cụ thể, rõ ràng được người dân ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án s dễ dàng, nhanh chóng. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án tuyên không khách quan, thiếu công bằng thì s ảnh hưởng rất lớn đến việc thi hành án, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án để thi hành bản án, quyết định đó. - Thi hành án dân sự là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật thiết với các giai đoạn tố tụng trước đó. Quyết định thi hành án dân sự của Thủ trưởng cơ quan THADS mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện. Tính chấp hành trong thi hành án phản ánh một đặc trưng chứng tỏ nó không đơn thuần là hoạt động tố tụng thuần túy. - Bản chất của THADS là hoạt động chấp hành, nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau, buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của THADS là bảo đảm cho các quyết định của Toà án được thực hiện trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành, đây là nét đặc trưng cơ bản 11 của hoạt động hành chính. Trong các văn bản pháp luật về thi hành án thì chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm cụ thể về thi hành án dân sự. Dưới góc độ lý luận chung, khái niệm “dân sự” trong thi hành án dân sự có hai quan điểm như sau: Ý kiến thứ nhất: “dân sự” trong thi hành án dân sự được hiểu là những bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản (như bản án, quyết định về tranh chấp về hôn nhân gia đình, hợp đồng dân sự, và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự). Ý kiến thứ hai: “dân sự” ở đây hiểu theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với hôn nhân và gia đình, các loại hợp đồng dân sự cũng như một số loại án khác có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định. Từ những phân tích nêu trên, tác giả đồng tình với ý kiến thứ hai, bởi l theo quy định của pháp luật hiện hành, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự khác nhau nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự và thủ tục thi hành án dân sự như đã nêu. Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về Thi hành án dân sự như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do cơ quan Thi hành án dân sự tiến hành thống nhất theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm đảm bảo thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền. Từ góc độ tiếp cận về khái niệm của thi hành án dân sự nêu trên, căn cứ các quy định của pháp luật hiện hành cũng như dựa vào thực tiễn công tác thi hành án dân sự, theo tác giả, thi hành án dân sự có những đặc điểm sau: Thứ nhất, hoạt động thi hành án dân sự mang tính hành chính - tư pháp: Tính hành chính - tư pháp là một đặc điểm quan trọng cần được lưu ý trong khi quy định về tổ chức và hoạt động của thi hành án. Thi hành án dân sự là hoạt động không chỉ thuộc trách nhiệm của các cơ quan thi hành án mà còn thuộc trách nhiệm của hệ thống các cơ quan hành pháp nên trong các quy định của pháp luật thi hành án phải xác định rõ trách nhiệm chính trong tổ chức, quản lý và chỉ đạo công tác thi hành án phải thuộc về Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp tại địa phương. Với đặc điểm là hoạt động mang tính chất tư pháp thì những tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trực tiếp thi hành án phải có tính độc lập tương đối, hoạt 12 động theo luật và phải chịu trách nhiệm cho những hành vi của mình. Điều 12 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về giám sát, kiểm sát việc thi hành án và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, thì “Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có quyền kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật về thi hành án của cơ quan Thi hành án dân sự...”. Như vậy, có thể thấy, ngay trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như Luật Thi hành án dân sự và đặc biệt là Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, cũng đã khẳng định THADS là hoạt động tư pháp. Bản chất của THADS là dạng hoạt động chấp hành, nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử, căn cứ vào các phán quyết đó, cơ quan thi hành án tiến hành áp dụng các cách thức, biện pháp khác nhau để buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện trên thực tế. Thật khó để xác định rõ được mức độ cụ thể của tính hành chính và tính tư pháp trong thi hành án. Trong thực tiễn, có thể xác định mức độ của tính hành chính và tính tư pháp thông qua đặc điểm của mỗi loại hình thi hành án cũng như của mỗi nhóm vụ việc trong từng loại hình thi hành án, thông thường trong thi hành án, tính tư pháp luôn thể hiện ở mức độ hạn chế hơn tính hành chính. Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động mang tính tài sản: Bản chất trong các quan hệ dân sự là quan hệ mang tính tài sản, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, tức là khôi phục lại những lợi ích về vật chất trước đó đã bị xâm hại của người được thi hành án, do đó, quá trình tổ chức THADS cũng mang tính tài sản. Do vậy, trình tự và thủ tục về THADS cần được quy định một cách chặt ch , thống nhất biện pháp áp dụng thực hiện bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó đều liên quan đến quyền công dân. Thứ ba, trình tự thủ tục thi hành án dân sự được tiến thành theo một trình tự, thủ tục chặt ch do pháp luật quy định: Trình tự thủ tục thi hành án dân sự là một cơ chế chặt ch được tiến hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự với mục đích phục vụ cho chức năng thi hành án, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc quá trình thi hành án, trên một cơ sở pháp lý đầy đủ và rõ ràng, nhằm đảm bảo sự công bằng trong thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên trong thi hành án. Hoạt động thi hành án là để hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thi hành án dân sự, do đó, thủ tục thi hành án phải đảm bảo được tính 13 chính xác. Việc tuân thủ các trình tự này đảm bảo tính dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch và đảm bảo cho kết quả của hoạt động THADS là thực thi có hiệu quả các bản án và quyết định của Tòa án. Hiện nay trình tự, thủ tự THADS được quy định cụ thể tại chương III Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), cụ thể như sau: Cơ quan THADS nhận bản án, quyết định do Tòa án có thẩm quyền chuyển hoặc nhận yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, người phải thi hành án (thời hiệu yêu cầu thi hành án 05 năm). Trong trường hợp đủ điều kiện thụ lý, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án và đồng thời phân công cho Chấp hành viên tiến hành tổ chức thi hành. Việc thi hành án được thi hành xong khi các đương sự đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ của mình hoặc có quyết định đình chỉ thi hành án theo quy định tại Điều 50 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Thứ tư, thi hành án dân sự tôn trọng nguyên tắc thỏa thuận trong quan hệ dân sự: Xuất phát từ những nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng và hòa giải trong quan hệ dân sự, ngoài những trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định của pháp luật thì cơ quan THADS chỉ tổ chức thi hành án căn cứ theo yêu cầu của người phải thi hành án và người được thi hành án, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa thuận và tự nguyện thi hành án. Luật Thi hành án dân sự tại Điều 6 đã quy định về “Thỏa thuận thi hành án” đối với người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về việc họ có quyền thỏa thuận về thi hành án, nếu sự thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trường hợp các bên đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về phương thức, nội dung thi hành án và người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án s áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Thứ năm, thi hành án dân sự là hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước. Trước hết, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bản án, quyết định của Tòa án bắt buộc phải thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án. Việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân không chấp hành hay chấp hành không nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án s dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định và có thể phải bị cưỡng chế hoặc xử lý bằng các chế tài pháp luật nghiêm khắc. Cưỡng chế là phương tiện đảm bảo cho việc thực hiện quyền lực nhà nước 14 trong lĩnh vực hành pháp, bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong thi hành án dân sự, Chấp hành viên được phân công phụ trách việc thi hành án, khi tiến hành tổ chức thi hành án được sử dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật để bảo đảm các bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế. Các chủ thể liên quan phải tôn trọng các bản án, quyết định của Tòa án, đồng thời nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình để bảo vệ pháp chế, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Với đặc điểm là thực thi quyền lực nhà nước, Chấp hành viên tổ chức thi hành án độc lập và chỉ tuân theo quy định của pháp luật. Chấp hành viên được lựa chọn các biện pháp thích hợp và chủ động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thi hành án sao cho việc thi hành án đạt được mục đích và hiệu quả, miễn là bảo đảm đúng theo quy định pháp luật mà không phụ thuộc vào các hoạt động tố tụng khác như trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Luật thi hành án dân sự tại Điều 20 đã quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên như: thi hành đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án; triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án; xác minh điều kiện thi hành án; quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án… 1.1.2. ẩm quyề , rì r , 1.1.2.1. Thẩm quyền trong thi hành án dân sự Thẩm quyền thi hành án của cơ quan thi hành án được quy định tại Điều 35 Luật thi hành án dân sự 2008, được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện tại Điều 35 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. Theo đó, thẩm quyền của các cơ quan thi hành án được quy định như sau: * Thẩm quyền cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh Theo quy định tại khoản 2, Điều 35, thì cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau đây: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cùng địa bàn; - Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao; - Quyết định của Tòa án nhân dân tối cao chuyển giao cho cơ quan thi hành 15 án dân sự cấp tỉnh; - Bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; - Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; - Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; - Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự nơi khác hoặc cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác; - Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều 35 Luật thi hành án dân sự mà thấy cần thiết lấy lên để thi hành; - Bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 35 Luật thi hành án dân sự mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp về thi hành án[47, tr.39,40]. * Thẩm quyền cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện Theo quy định tại khoản 1, Điều 35, thì cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở; - Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có trụ sở; - Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở; - Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi khác, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác [47, tr.37,38]. * Thẩm quyền cơ quan thi hành án dân sự cấp quân khu Theo quy định tại khoản 3 Điều 35 Luật thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án cấp quân khu có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau đây: - Quyết định về hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan