ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
VÕ THẾ ANH
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC,
BẢO VỆ SỨC KHỎE DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
(1802 - 1885)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
Đà Nẵng - Năm 2021
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
VÕ THẾ ANH
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC,
BẢO VỆ SỨC KHỎE DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
(1802 - 1885)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 8229013
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY PHƯƠNG
Đà Nẵng - Năm 2021
v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...........................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
TRANG THÔNG TIN LUẬN VĂN THẠC SĨ ......................................................... iii
INFORMATION OF MASTER DISSERTATION ..................................................iv
MỤC LỤC ......................................................................................................................v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................................. vii
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................3
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................3
6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................4
7. Bố cục của công trình nghiên cứu ......................................................................5
CHƯƠNG 1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC, BẢO VỆ SỨC KHỎE DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
(1802 - 1885) ...................................................................................................................6
1.1. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn ............................6
1.2. Tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của các triều đại quân chủ Việt
Nam trước thời Nguyễn .................................................................................................12
1.3. Chính sách của triều Nguyễn đối với hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe ........18
1.3.1. Bài trừ mê tín dị đoan, đề cao nền y học cổ truyền dân tộc....................18
1.3.2. Thường xuyên bổ sung nguồn nhân lực, thầy thuốc giỏi cho Thái Y
Viện ............................................................................................................................... 20
1.3.3. Khuyến khích người giàu làm việc thiện, chủ động dự trữ nguồn thuốc ...21
1.3.4.Quan tâm đến tình hình sức khỏe của các quan đại thần và gia đình quan
lại phục vụ cho triều đình............................................................................................. 21
Tiểu kết chương 1 ..........................................................................................................24
CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC, BẢO VỆ SỨC KHỎE
CHO TRIỀU ĐÌNH VÀ NHÂN DÂN DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1885) .....25
2.1. Cơ quan quản lý và cơ sở khám chữa bệnh ............................................................ 25
2.1.1. Thái Y Viện ................................................................................................ 25
vi
2.1.2. Ty Lương Y ................................................................................................ 30
2.1.3. Bình An Đường...........................................................................................31
2.1.4. Sở Dưỡng Tế ............................................................................................... 32
2.1.5. Một số cơ sở khám chữa bệnh khác ............................................................ 33
2.2. Đội ngũ thầy thuốc và nguồn thuốc ........................................................................34
2.2.1. Đội ngũ thầy thuốc......................................................................................34
2.2.2. Chính sách của triều Nguyễn đối với đội ngũ thầy thuốc...........................40
2.2.3. Nguồn thuốc ................................................................................................ 51
2.3. Hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe dưới triều Nguyễn .....................................54
2.3.1. Hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho vua và hoàng tộc.....................54
2.3.2. Hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho quan lại, binh lính đóng tại kinh
sư và các địa phương .....................................................................................................57
2.3.3. Hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân .................................59
Tiểu kết chương 2 ..........................................................................................................65
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CHĂM SÓC, BẢO VỆ SỨC KHỎE DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802 1885) .............................................................................................................................. 66
3.1. Đặc điểm .................................................................................................................66
3.2. Vai trò .....................................................................................................................68
3.3. Hạn chế ...................................................................................................................70
KẾT LUẬN ..................................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................77
PHỤ LỤC ................................................................................................................. PL1
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (Bản sao)
vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Nxb
: Nhà xuất bản
PL
: Phụ lục
Tr
: Trang
TS
: Tiến sĩ
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia Long lên ngôi hoàng đế năm 1802, mở đầu thời kỳ trị vì của triều Nguyễn.
Để đưa đất nước phát triển ổn định về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, Gia Long bắt
tay ngay vào các công việc cấp thiết trước mắt, quan tâm, chú ý đến các lĩnh vực như
phát triển kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục… trong đó có vấn đề y tế.
Điều này được thể hiện khá rõ, đó là ngay trong năm đầu lên ngôi vua (1802) Gia
Long đã hạ lệnh “sai mộ những thầy thuốc ngoại khoa”, tức là cho người đi khắp mọi
miền đất nước để tìm kiếm, tuyển dụng các thầy thuốc giỏi trong nhân dân về kinh đô
làm việc.
Bên cạnh các cơ quan y tế trong triều đình với chức năng nghiên cứu, đào tạo các
quan lại có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho vua, hoàng tộc và quan lại, binh lính ở
các địa phương, trong đời sống hàng ngày của nhân dân cũng có rất nhiều lang y, thầy
thuốc ẩn sĩ hàng ngày bốc thuốc, dạy học, hành đạo cứu người không màng danh lợi.
Dưới chế độ quân chủ chuyên chế triều Nguyễn, trải qua bốn đời vua Nguyễn từ
Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức nền y tế Việt Nam đã được định hình và
phát triển, nhiều danh y nổi tiếng và bài thuốc chữa bệnh hiệu quả. Thời kỳ này, y học
phương Đông đã có sự kết hợp với y học phương Tây trong việc khám chữa bệnh, khi
mà sự giao thoa, tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Đông - Tây ngày càng rõ rệt.
Với sự tồn tại đa dạng và phát triển phong phú trên nhiều mặt của các tổ chức và
hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe trong đời sống hàng ngày dưới triều Nguyễn nên
vấn đề nghiên cứu về các tổ chức và hoạt động này cần được quan tâm, đánh giá đúng
với bản chất của nó. Trước đây, các nghiên cứu chỉ giới hạn trong một mảng nhỏ liên
quan đến tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe như nghiên cứu về cơ quan
Thái Y Viện trong triều đình mà bỏ quên sự đóng góp quan trọng của những thầy
thuốc trong nhân dân, hay là chỉ chú ý đến sự tồn tại của y học phương Đông mà quên
đi sự có mặt của y học phương Tây đã được truyền bá vào Việt Nam. Nếu có chú ý
đến Tây y, có chăng cũng chỉ nghiên cứu các hoạt động của các giáo sĩ phương Tây
kiêm luôn thầy thuốc chữa bệnh mà chưa nhận thấy rằng, ở thời kỳ này, Tây y và
Đông y đã có sự kết hợp, học hỏi lẫn nhau trong khám chữa bệnh.
Chính vì những điều kể trên, với mong muốn góp phần tổng hợp, đánh giá đúng
sự phát triển của tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe trong thời kỳ này
trên các bình diện xã hội, trên các giai tầng đời sống trong triều đình hay lẫn ngoài
nhân dân. Tôi quyết định chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức
2
khỏe dưới triều Nguyễn (1802 - 1885)” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước đây, liên quan đến vấn đề tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe
dưới triều Nguyễn cũng đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm, nghiên cứu.
Th.s Hồ Châu với đề tài luận văn thạc sĩ của mình “Viện Thái Y triều Nguyễn (1802 1885” hoàn thành năm 2013 tập trung nghiên cứu một cơ quan phụ trách vấn đề chăm
sóc, bảo vệ sức khỏe dưới triều Nguyễn với tên gọi là Viện Thái Y. Cơ quan này được
thành lập với đội ngũ các quan Ngự y có nhiệm vụ chăm sóc, thăm khám chữa bệnh
trong triều đình. Tuy nhiên, trong giới hạn của luận văn, tác giả chỉ đề cập đến các
hoạt động của Thái Y Viện trong triều đình mà thôi còn hoạt động chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân thì chưa được đề cập đến.
Tác giả Bùi Thị Hòa với luận án tiến sĩ sử học “Y tế phương Tây ở Bắc Kỳ từ
năm 1873 đến năm 1945” xuất bản năm 2019 đã làm rõ được các hoạt động y tế
phương Tây ở Bắc Kỳ. Tuy nhiên, với phạm vi không gian của luận án là ở vùng
Bắc Kỳ nên các hoạt động y tế ở các vùng miền khác trên lãnh thổ nước ta ngoài
Bắc Kỳ chưa được đề cập tới. Đồng thời, thời gian nghiên cứu của luận án này
cũng là khi thực dân Pháp đã chiếm được Bắc kì cho đến hết thời thuộc địa, nên
giai đoạn trước đó chưa được đề cập đến.
Trong khóa luận tốt nghiệp “Hoạt động của các giáo sĩ phương Tây ở Việt
Nam trên lĩnh vực y học (thế kỷ XVII - thế kỷ XIX)” tác giả Lê Vinh Quang với đề
tài nghiên cứu khoa học của mình đã trình bày các hoạt động trên lĩnh vực y học
của các giáo sĩ phương Tây, những đóng góp của họ đối với nền y học Việt Nam.
Tuy nhiên, với giới hạn của đề tài, là đi sâu nghiên cứu về Tây y mà chưa đề cập
đến Đông y, nền y học cổ truyền của dân tộc Việt Nam đã tồn tại lâu đời và phát
triển mạnh mẽ trong giai đoạn này.
Trong Hội thảo khoa học Kinh đô Huế thế kỷ XIX vừa được tổ chức vào tháng
6/2020, tác giả Trần Nguyễn Khánh Phong với bài viết “Tinh hoa Đông y Huế thế kỷ
XIX kế thừa truyền thống và phát triển” bàn về sự phát triển của Đông y trong giai
đoạn thế kỷ XIX. Tuy nhiên, với sự giới hạn về mục đích và đối tượng nghiên cứu là
Đông y nên bài viết không hề nhắc đến Tây y. Đây cũng là một đối tượng cần phải
nghiên cứu trong giai đoạn thế kỷ XIX, giai đoạn đã có sự giao thoa, ảnh hưởng, kết
hợp rõ rệt giữa hai nền y học Đông - Tây.
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết liên quan đến tổ chức và hoạt
động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe dưới triều Nguyễn nhưng các bài viết, công trình
3
nghiên cứu trên vì mục đích, đối tượng nghiên cứu khác nhau nên chỉ có thể trình bày
mảng này hay mảng khác liên quan đến hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, hạn chế
trong một khoảng thời gian hay phạm vi nghiên cứu nhất định. Chính vì những hạn
chế, thiếu sót trên, với mục đích hướng tới sự kế thừa, tiếp nối và hoàn thiện, bổ sung
thêm thông tin cho các đề tài, công trình nghiên cứu trên, tôi chọn đề tài: “Tổ chức và
hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe dưới triều Nguyễn (1802 - 1885)” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ
sức khỏe cho vua, hoàng tộc, quan lại, binh lính và nhân dân dưới triều Nguyễn giai
đoạn từ năm 1802 đến năm 1885.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tổ chức và hoạt
động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1885.
- Về phạm vi không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu phạm vi không gian trên
lãnh thổ nước Việt Nam dưới triều Nguyễn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm làm rõ ảnh hưởng của bối cảnh kinh tế - xã hội đến tổ chức và
hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cùng sự phát triển của tổ chức, hoạt động này
dưới triều Nguyễn giai đoạn từ năm 1802 đến năm 1885; trên cơ sở đó, cho thấy
những đặc điểm nổi bật cũng như vai trò của tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ
sức khỏe đối với đời sống xã hội lúc bấy giờ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn có ảnh hưởng
như thế nào đến tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe Việt Nam thời kỳ đó.
- Tìm hiểu về tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe dưới triều Nguyễn
giai đoạn từ năm 1802 đến năm 1885.
- Phân tích đặc điểm, vai trò của tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe
dưới triều Nguyễn.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, tôi sử dụng chủ yếu các nguồn tư liệu từ
4
thông sử, chính sử tới các tài liệu chuyên khảo, nghiên cứu về triều Nguyễn, trong đó
quan trọng nhất cần phải sử dụng đó là những tư liệu gốc - tư liệu nhà nước đương thời
đã được các cơ quan khoa học tổ chức biên dịch trong thời gian qua như: Đại Nam
thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Minh Mệnh chính yếu, Đại Việt sử ký toàn thư…
Bên cạnh đó, những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề
tài này cũng bổ sung cho tác giả nhiều thông tin cũng như nhận định có thể tham khảo
một cách hữu ích. Đồng thời, nguồn tư liệu phong phú trên mạng Internet cũng bổ
sung những bài viết liên quan đến đề tài mà tác giả có thể tham khảo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng kết hợp phương pháp luận nghiên cứu
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét, đánh giá vấn đề. Với đề tài này, tác
giả kết hợp giữa hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành lịch sử cụ thể và phương
pháp logic để xem xét các sự vật hiện tượng kết hợp với các phương pháp như thống
kê, mô tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… Vận dụng các phương pháp đó,
trong quá trình nghiên cứu tôi thực hiện các bước:
+ Thứ nhất, tìm kiếm, sưu tầm, tập hợp tư liệu cần thiết, phù hợp với nội dung đề tài.
+ Thứ hai, sau khi thu thập đủ tư liệu, tác giả tiến hành phân tích, thống kê các tư
liệu để tìm ra tính toàn vẹn, phát hiện các mối liên hệ giữa các vấn đề liên quan, từ đó
rút ra kết luận cần thiết liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
- Về mặt khoa học: Góp phần làm sáng tỏ tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ
sức khỏe dưới triều Nguyễn. Các thành quả, kinh nghiệm trong tổ chức và hoạt động
chăm sóc, bảo vệ sức khỏe thời kỳ đó truyền lại
- Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở các kinh nghiệm y học thời kỳ này để lại, luận văn
đề xuất các giải pháp nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa y học và truyền bá kiến thức y học
thời kỳ này cho các thế hệ ngày nay và mai sau góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả
hoạt động thăm khám, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.
- Đề tài cũng sẽ xây dựng một hệ thống tư liệu có giá trị tham khảo liên quan đến
các phương thuốc, bài thuốc và cách chữa trị cho các bệnh nội, ngoại khoa, các bệnh
dịch truyền nhiễm…
- Đề tài khi hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng để nghiên cứu,
giảng dạy và học tập về lịch sử việt Nam, lịch sử của ngành y tế và quan trọng hơn
cả là giá trị thực tiễn trong công tác tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức
5
khỏe cho nhân dân.
7. Bố cục của công trình nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được cấu trúc
thành ba chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến công tác tổ chức và hoạt động chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe dưới triều Nguyễn (1802 - 1885)
Chương 2: Tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho triều đình và
nhân dân dưới triều Nguyễn (1802 - 1885)
Chương 3: Một số nhận xét về công tác tổ chức và hoạt động chăm sóc, bảo vệ
sức khỏe dưới triều Nguyễn (1802 - 1885)
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC, BẢO VỆ SỨC KHỎE
DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1885)
1.1 . Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn
Tình hình chính trị
Việt Nam vào thế kỷ XIX nằm dưới sự trị vì của vương triều Nguyễn. Lịch sử
đã ghi nhận dưới triều Nguyễn, Việt Nam là một nước thống nhất sau mấy trăm
năm phân tranh, loạn lạc. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia
Long, thiết lập nên triều Nguyễn - vương triều cuối cùng trong lịch sử phong kiến
Việt Nam. Năm 1804, Gia Long đổi tên nước là Việt Nam, sau đổi thành Đại Nam.
Triều Nguyễn được kiến thiết trong những hoàn cảnh rất khó khăn, gian khổ nên
Gia Long khi lập đế nghiệp đã tận tâm, nỗ lực, kiên trì và khôn khéo để ổn định
chính sự, vỗ yên lòng dân, khôi phục kinh tế. Tuy nền quân chủ Việt Nam được
phục hồi trong các xu thế tan rã chung của chế độ phong kiến trên thế giới từ đầu
thế kỷ XVII, nhưng bước đầu Gia Long cũng đã ổn định lại được tình hình đất nước
sau gần 30 năm chiến tranh.
Ngay khi nắm chính quyền trong tay, Gia Long đã tập trung xây dựng một bộ
máy chính quyền chuyên chế cao độ, thực chất là tiếp tục thiết chế quân chủ thời Lê
Sơ (thế kỷ XV) nhưng được nâng lên ở mức cao hơn. Vua là người đứng đầu triều
đình và toàn quyền quyết định mọi công việc hệ trọng của đất nước, tổ chức hành
pháp cao nhất của triều Nguyễn gồm lục bộ lo sáu phần việc quan trọng: Lại, Hộ,
Lễ, Binh, Hình, Công, mỗi bộ có Thương thư đứng đẩuồi đến các chức Tả, Hữu
Tham tri; Tả, Hữu Thị lang. Ngoài ra còn có các cơ quan chuyên môn như: Đô sát
viện, Hàn lâm viện, Thái Y Viện... Đến đời Minh Mạng đặt thêm Cơ mật viện lấy 4
đại thần ở các bộ để cùng vua bàn bạc việc quân quốc quan trọng, đặt Tôn Nhân
Phủ để quản lý việc của Hoàng gia. Quyền hành quốc gia tập trung vào vua một
cách tuyệt đối, phản ánh quá trình tập trung quân chủ cao độ ở Việt Nam vào đầu
thế kỷ XIX.
Về quản lý hành chính, Gia Long sắp đặt cơ cấu hành chính căn bản. Đây là lần
đầu tiên ở Việt Nam các tổ chức hành chính được xếp đặt rất quy củ theo nguyên tắc
tập trung. Cả nước được chia làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc
Thành, từ Bình Định trở vào gọi là Gia Định Thành. Cai quản Bắc Thành và Gia
7
Định Thành là Tổng trấn và Phó Tổng trấn. Miền Trung có kinh đô Huế chịu sự cai
trị trực tiếp của triều đình Huế. Từ thời Minh Mạng trở đi, chế độ trung ương tập
quyền được tăng cường. Bắc Thành và Gia Định Thành bị bãi bỏ, cả nước được chia
thành 30 tỉnh, đông thời, vua còn đặt thêm chức quan ở miền núi nhằm ổn định trật
tự trong cả nước theo nguyên tắc chung, và điều này tạo nên sức mạnh cho hệ thống
chính trị Việt Nam đầu thế kỷ XIX.
Có thể nói, hệ thống chính trị nhà Nguyễn là một thiết chế nhà nước quân chủ
chuyên chế kiểu phương Đông. Mọi quyền hành trong triều và các địa phương đều tập
trung vào tay nhà vua, rõ nét nhất là từ thời vua Minh Mạng. Trong tổ chức bộ máy
nhà nước đó, các cơ quan quyền lực từ trung ương đến địa phương đều được tổ chức
theo lối phân tán, phối hợp và chế ước lẫn nhau triệt để. Ở đó, quyền lực bộ máy nhà
nước được phân chia khá cụ thể, với sự nổi lên của ba khối lớn là hành pháp, tư pháp
và giám sát, trong đó, vua là người nắm mọi quyền hành và quyết định mọi công việc
của nhà nước. Từ đó cho thấy, việc phân chia quyền hành nhưng thống nhất và tập
trung quyền lực là nhân tố quyết định làm cho nhà Nguyễn trở thành một nhà nước
mạnh ở Đông Nam Á hồi nửa đầu thế kỷ XIX.
Dù bước ra khỏi cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn trên tâm thế là người chiến
thắng nhưng Gia Long cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Do
phải quản lý một đất nước vừa thoát ra khỏi tình trạng nội chiến kéo dài, tình hình
chính trị và xã hội lại chưa ổn định hoàn toàn nên để quản lý đất nước hiệu quả,
nhà Nguyễn rất coi trọng việc ban hành luật pháp. Năm 1815, bộ Hoàng Việt luật
lệ hay còn gọi là luật Gia Long gồm 398 điều được chia thành 7 chương chính
thức được ban hành. Đây là bộ luật được soạn thảo với tinh thần đề cao quyền uy
của hoàng đế và triều đình.
Một điều quan trọng mà Gia Long đạt được sau nhiều năm nội chiến với nhà
Tây Sơn là quân đội được tổ chức tương đối mạnh với trang bị và huấn luyện theo
kiểu phương Tây. Sau khi làm chủ toàn bộ đất nước, nhà Nguyễn xây dựng quân
đội hoàn thiện hơn, chính quy hơn. Quân chính quy đóng tại kinh thành và những
nơi xung yếu, các địa phương đều có lực lượng vũ trang tại chỗ làm nhiệm vụ trị
an. Nhìn chung, nửa đầu thế kỷ XIX, quân đội nhà Nguyễn là một lực lượng khá
mạnh. Có thể nói, quân đội nhà Nguyễn thời bấy giờ là lực lượng quân sự tân tiến
hiện đại nhất ở khu vực Đông Nam Á, vượt qua các nước láng giềng như Trung
Quốc, Thái Lan. Các vua đầu triều Nguyễn ý thức được vai trò quan trọng của quân
đội đối với đất nước nên rất chú trọng xây dựng lực lượng. Tuy nhiên, chính sách
8
xây dựng quân đội của triều Nguyễn không được quản lý chặt chẽ, thực hiện thiếu
nghiêm túc ở bộ máy quan quân cấp dưới. Điều này cũng là nguyên nhân quân đội
triều Nguyễn ngày càng suy yếu và sa sút. Theo đánh giá của nhà sử học Trần
Trọng Kim trong Việt Nam sử lược thì: “Tuy nhà vua muốn lưu ý về việc binh lính
nhưng người mình lúc bấy giờ ai cũng trọng văn khinh võ, bình nhật không ai lo gì
đến việc quân lính khí giới. Hễ có lâm sự thì mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua nay có
chỉ dụ ra tập binh, mai có chỉ dụ ra tập trận mặc lòng, các quan chỉ làm cho xong
việc, rồi lại bỏ mặc bọn quản đội làm thế nào thì làm thành ra quân số ở trong sổ
sách thì nhiều, mà thế lực thì vẫn không đủ ấy là đời vua Thánh Tổ mà còn thế,
huống chi đến những đời sau, lại còn suy nhược hơn nữa” [21; tr.351]. Bên cạnh
đó, chính cái nhìn thiếu khách quan trong vấn đề mở cửa giao lưu với các nước
phương Tây đã dẫn đến những hạn chế trong việc tiếp nhận những thành tựu khoa
học kỹ thuật phương Tây để phát triển quân đội và đất nước đầu thế kỷ XIX. Điều
này cũng đã ảnh hưởng đến hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của các thầy
thuốc đến từ phương Tây, chưa phát huy hết thành tựu y học phương Tây trong bối
cảnh giao thoa văn hóa Đông - Tây ngày càng phát triển.
Trong chính sách đối ngoại, nhà Nguyễn chủ trương thần phục nhà Thanh nhưng
đối với Lào và Chân Lạp lại bắt họ phải thần phục. Đối với các nước phương Tây, thì
chủ trương đóng kín cửa, hạn chế giao lưu, quan hệ với họ. Chính sự bảo thủ trong
chính sống đối ngoại đã đưa đất nước ngày càng lún sâu vào tình trạng trì trệ, lạc hậu.
Tình hình kinh tế
Bước sang thế kỷ XIX, xu thế phát triển của xã hội Việt Nam đang có những
chuyển biến mới. Sau một thời kỳ loạn lạc kéo dài, vấn đề phục hồi kinh tế nông
nghiệp và phát triển công thương nghiệp trở thành những yêu cầu hết sức cấp bách.
Dưới triều Nguyễn, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản
xuất chủ yếu và là nền tảng kinh tế chủ yếu của xã hội phong kiến Việt Nam. Chiến
tranh liên miên khiến người nông dân phiêu tán tứ xứ, ruộng đất nhiều nơi trở nên
hoang hóa. Trong nông nghiệp, nhà nước khuyến khích nhân dân khai hoang, phục hóa
để mở rộng diện tích canh tác. Các trung tâm dinh điền, đồn điền được thành lập nhằm
khẩn hoang đất mới. Sự chú trọng đến công tác thủy lợi, đê điều, khai hoang lập ấp
cùng chế độ doanh điền cũng là những nỗ lực đáng ghi nhận của triều Nguyễn nhằm
phát triển kinh tế nông nghiệp. Một điểm tích cực trong chính sách phát triển kinh tế
nông nghiệp của triều Nguyễn là việc phân phối lại ruộng đất, hạn chế nạn kiêm tính
ruộng đất công. Năm 1803, Gia Long ra lệnh cấm bán mua ruộng đất công. Năm 1805,
9
định lại lệ quân cấp các loại ruộng này theo phẩm trật quan lại và tình trạng dân chúng,
nâng đỡ cô nhi, quả phụ... Đó là những chính sách tiến bộ có tính chất khuyến nông và
thực hiện nâng đỡ xã hội dưới triều Nguyễn.
Đi đôi với sản xuất nông nghiệp, hoạt động thủ công nghiệp cũng được chú ý, tuy
nhiên, hầu hết thủ công nghiệp tư nhân lúc này vẫn còn mang tính chất phường hội
phong kiến và sản xuất cá thể. Triều Nguyễn cũng đã chú trọng việc xây dựng các
quan xưởng. Các quan xưởng đã đúc được súng, chuông đỉnh, khắc in... Làm việc
trong các quan xưởng là những thợ giỏi tập trung từ các địa phương, nguồn vốn là của
nhà nước, chính vì vậy sản phẩm làm ra có chất lượng kỹ thuật cao. Ngành khai mỏ
cũng là một bộ phận quan trọng do nhà nước quản lý và có ý nghĩa quan trọng trong
giai đoạn này.
Triều Nguyễn thống nhất đất nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của kinh tế hàng hóa, dù quan niệm “trọng nông ức thương” vẫn chi phối nặng nề
trong xã hội Việt Nam. Từ khi triều Nguyễn được thiết lập, các vua triều Nguyễn
cho khai đào nhiều kênh ngòi, sửa đắp thêm một số đường bộ. Các công trình trên
vừa phục vụ mục đích hành chính, quân sự, vừa tạo thêm thuận lợi cho việc giao
lưu giữa các vùng trong nước. Số thuyền buôn tư nhân hồi đầu thế kỷ XIX tăng lên
rất nhiều. Gạo Gia Định được chở ra bán ở miền Trung và miền Bắc, ngược lại,
hàng thủ công miền Bắc được đưa vào tận miền Nam. Nhà nước giữ độc quyền về
ngoại thương, hàng hóa chỉ nhập những thứ mà nhà nước cần như: sắt, chì, gang,
lưu huỳnh, tơ lụa, sợi bông... Những thứ như gạo, muối, đồng, kim loại quý phải có
giấy phép mới được xuất cảng. Đối với phương Tây, lo ngại sự bành trướng và
nguy cơ bị xâm lược, triều Nguyễn thực hiện chính sách hạn chế việc buôn bán với
các nước phương Tây, và ngay cả với những nước láng giềng, chính quyền phong
kiến cũng luôn dè chừng, cảnh giác. Cùng với sự sa sút của kinh tế thương nghiệp,
các đô thị cũng lụi tàn dần.
Tình tình văn hóa - xã hội
Sau những năm nội chiến, chia cắt, triều Nguyễn đã bước đầu xác lập được sự
thống nhất về chính trị cũng như lãnh thổ của đất nước. Trên cơ sở của một nền chính
trị thống nhất, một nền kinh tế ổn định thì nền văn hóa của dân tộc cũng có điều kiện
để phát triển. Nền văn hóa dưới triều Nguyễn đã có bước phát triển vượt bậc so với các
triều đại trước đó.
Sự phát triển vượt bậc về văn hóa được thể hiện trên tất cả các phương diện, cả
về văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần. Về văn hóa vật chất, triều Nguyễn đã để lại
10
nhiều công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao, nổi bật là quần thể kiến trúc cung
đình triều Nguyễn và lăng tẩm ở Huế. Về văn hóa tinh thần, nghệ thuật sân khấu
chuồng, chèo, xiếc phát triển rộng rãi. Triều Nguyễn cũng xây dựng nhà hát có chỗ
diễn, chỗ ngồi cho khán giả ở kinh đô. Trong nhân dân, sân đình, sân chùa trở thành
sân khấu chèo vào những ngày lễ hội. Nghệ thuật ca múa nhạc cũng phát triển. Trong
lúc ở miền xuôi phổ biến các câu hát, điệu hò thì ở miền núi phát triển các điệu nhảy,
điệu múa làm cho cuộc sống thêm tươi vui và tăng tính cộng đồng.
Về tôn giáo, nhằm củng cố chế độ trung ương tập quyền, triều Nguyễn thi hành
chính sách độc tôn Nho giáo. Tuy đề cao Nho giáo, các vua triều Nguyễn vẫn tôn
trọng Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian. Tục thờ cúng tổ tiên và tôn thờ
các anh hùng dân tộc, những người có công với làng, với nước trở nên phổ biến trong
xã hội. Đình, đền, chùa được tôn tạo hoặc xây mới ở khắp nơi. Theo thống kê thì cho
đến giữa thế kỷ XIX trong cả nước có hơn 7000 vị thần được thờ. Trong khi đó triều
Nguyễn lại cấm đoán Thiên Chúa giáo, thậm chí còn thẳng tay đàn áp.
Dưới triều Nguyễn, các ngành khoa học xã hội nhân văn rất phát triển, đạt
nhiều thành tựu đáng chú ý là các ngành văn học, địa dư học, lịch pháp, pháp luật,
y học, lịch sử… Xuất hiện các tác phẩm văn học nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của
những tác giả tiêu biểu đó là: truyện Kiều của Nguyễn Du, các bài thơ Nôm của Hồ
Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Đáng nói là ngay các vị vua triều Nguyễn
như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng tham gia sáng tác văn học. Văn học dân
gian phát triển mạnh và phổ biến trong nhân dân. Thời Nguyễn cũng là thời có
nhiều tác phẩm địa lý học và địa lý lịch sử lớn được biên soạn và ấn hành như:
Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí, Gia Định Thành Thông Chí… Kỹ thuật vẽ bản
đồ đạt được những thành tự mới, đặc biệt là Đại Nam nhất thống toàn đồ được vẽ
cuối đời Minh Mạng thể hiện tương đối chính xác hình ảnh nước Đại Nam thống
nhất, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngoài biển Đông. Triều Nguyễn
bấy giờ cũng đã quan tâm đến việc soạn lịch, chủ động học hỏi kinh nghiệm làm
lịch của người phương Tây.
Sử học dưới triều Nguyễn được quan tâm, đây được xem là ngành văn hóa phát
triển nhất dưới thời Nguyễn. Nhờ nhận thức được tầm quan trọng của lịch sử, nên ngay
khi chính quyền mới được thành lập, triều Nguyễn đã chú ý tới việc làm Sử và xem
“Sử học là vũ khí văn hóa quan trọng góp phần ổn định và củng cố lòng người sau
một thời kỳ nội chiến kéo dài, để trên cơ sở đó củng cố vai trò và uy thế của dòng họ”.
Năm 1820 Quốc sử quán được thành lập chuyên sưu tầm, biên soạn, lưu trữ sử sách.
11
Các vua triều Nguyễn chăm lo xây dựng sứ quán và đặt vấn đề biên soạn quốc sử lên
hàng đầu. Nhiều tác phẩm sử học chính thống của vương triều lần lượt ra đời như: Đại
Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại
Nam hội điển sự lệ… Các thành tựu sử học mà triều Nguyễn đạt được đã phần nào thể
hiện thái độ trân trọng quá khứ lịch sử dân tộc của các vị vua triều Nguyễn, cũng như
ý thức gìn giữ những giá trị văn hóa dân tộc sâu sắc.
Bên cạnh những tiêu cực còn tồn tại, thì những di sản văn hóa mà triều Nguyễn
để lại là cả một kho tàng đồ sộ, đáng để tự hào và gìn giữ. Chính những cố gắng đáng
ghi nhận trong các chính sách văn hóa của triều Nguyễn, đã tạo nên sự chuyển biến
tích cực và sự khởi sắc thực sự cho nền văn hóa dân tộc. Trong bài “Vài suy nghĩ về vị
thế xứ Huế và vị thế lịch sử của nó”, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã đưa ra một nhận
định đầy công tâm và chính xác về nhà Nguyễn: “Có thời Nguyễn, chúng ta mới có
được một Việt Nam hoàn chỉnh như ngày nay” [33; tr.582].
Không chỉ thay đổi về kinh tế, xã hội Việt Nam thời kỳ này còn tồn tại nhiều
mâu thuẫn. Nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô nhưng cuối cùng đất
đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, cường hào. Hiện tượng dân lưu tán trở nên
phổ biến. Đê điều không được chăm sóc. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên.
Công thương nghiệp bị đình đốn, xu hướng độc quyền công thương của nhà nước đã
hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách “bế quan tỏa cảng”
của triều Nguyễn khiến nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài. Quân sự lạc hậu,
chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc “cấm đạo”, đuổi giáo sĩ phương
Tây, đã gây ra những mâu thuẫn, làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc, gây bất lợi
cho sự nghiệp kháng chiến sau này.
Việc nhà Nguyễn tăng cường đàn áp và thi hành những chính sách bóc lột
nặng nề đối với nhân dân lao động đã khiến cuộc sống của người nông dân rơi vào
cảnh khốn cùng: ruộng đất ngày càng bị thu hẹp, thiên tai, mất mùa… Cùng với nạn
phu phen tạp dịch, người dân còn phải hứng chịu thiên tai, bệnh dịch. Mâu thuẫn xã
hội ngày càng gay gắt mà đỉnh điểm là mâu thuẫn giữa một bên là triều đình phong
kiến triều Nguyễn và một bên là nhân dân lao động. Từ mâu thuẫn đó, nhiều phong
trào đấu tranh của nhân dân chống chính quyền và giai cấp thống trị đã nổ ra mạnh
mẽ. Chỉ riêng trong 4 triều đại đầu của nhà Nguyễn, từ Gia Long đến Tự Đức (1802
- 1885), nhà Nguyễn đã phải đối phó với 466 cuộc khởi nghĩa của nông dân. Triều
Nguyễn tập trung lực lượng đàn áp các cuộc khởi nghĩa này khiến cho năng lực
quân sự của triều đình bị yếu dần, làm suy giảm khả năng kháng chiến của nhân
- Xem thêm -