-1-
CHƯƠNG 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1
Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp năng lượng điện là ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân của Việt Nam và có tốc độ tăng trưởng khá cao từ khi nền kinh tế
quốc gia chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (15% Là mức tăng trưởng điện thương phẩm bình quân thời kỳ 1995 - 2012 của EVN. Riêng
năm 2002, mức tăng trưởng đạt kỷ lục 17,1%. Năm 2012, Tổng sản lượng điện thương
phẩm là 117 tỷ kWh, tăng 11,5% so với năm 2011. Giá bán điện bình quân toàn Tập
đoàn đạt 1.459 đồng/kWh. Lũy kế 8 tháng năm 2013, sản lượng điện sản xuất và mua
của EVN ước đạt 84,509 tỷ kWh, tăng 8,55% so với cùng kỳ năm 2012. Lũy kế 8 tháng
năm 2013, điện thương phẩm ước đạt 75,969 tỷ kWh, tăng 9,64% so với cùng kỳ năm
2012 theo www.evn.com.vn) . Để đảm bảo mức tăng trưởng này, những năm qua, EVN
đã tập trung tối đa các nguồn lực, đặc biệt là huy động các nguồn vốn khác nhau ở trong
và ngoài nước, đảm bảo đầu tư liên tục cho phát triển nguồn và lưới.
Với nhu cầu về vốn cũng như theo lộ trình của chính phủ về việc cổ phần hóa
các doanh nghiệp nhà nước. EVN đã tiến hành cổ phần hóa một số nhà máy điện (từ
hạch toán phụ thuộc chuyển sang hạch toán độc lập và chuyển sang cổ phần) trong đó
có TMP. Một mặt là để phát huy tính độc lập, tự chủ của chính bản thân từng đơn vị đó,
mặt khác còn có thể hỗ trợ cho EVN về mặt tài chính cũng như các dự án nguồn điện
mới bằng cách huy động vốn cổ đông bên ngoài.
Tại Việt Nam, nguồn điện được huy động chủ yếu từ các nhà máy điện Thủy
điện, Nhiệt điện chạy khí, chạy dầu, một số rất ít từ các nhà máy Phong điện và năng
lượng mặt trời do vốn đầu tư lớn giá bán điện cao nên việc đầu tư các dự án nguồn điện
từ phong điện và năng lượng mặt trời ít được quan tâm,… TMP là một công ty cổ phần
được cổ phần hóa từ Nhà máy thủy điện Thác Mơ mà trước đây hạch toán phụ thuộc
vào EVN. Vì vậy, TMP mang phong cách làm việc mang năng tính nhà nước, làm việc ì
ạch, mô hình tổ chức công ty cũng như bộ máy kế toán đơn giản, chỉ có bộ máy kế toán
làm bộ phận kiểm soát. Sau khi cổ phần, Công ty vẫn chưa phát huy được bộ phận tài
-2-
chính kế toán để đáp ứng nhu cầu phát triển theo mong đợi của EVN cũng như các cổ
đông. Để đáp ứng nhu cầu đó, TMP cần phải tổ chức lại bộ phận tài chính kế toán nhằm
đáp ứng nhu cầu của EVN, của cổ đông trong việc phát triển thành một công ty cổ phần
vững mạnh trong tương lai.
Chính vì mục đích như vậy mà đề tài luận văn này là “ Tổ chức Công tác kế toán
quản trị tại Công ty cổ phần Thủy điện Thác Mơ.”; nhằm giúp công ty có thể phát triển
mạnh hơn nữa trong tương lai.
1.2
Mục tiêu của đề tài
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về kế toán quản trị trong doanh nghiệp.
Phân tích, đánh giá hiện trạng tổ chức công tác kế toán và kế toán quản trị tại
Công ty cổ phần thủy điện Thác Mơ, từ đó rút ra những ưu điểm và những vấn đề
còn tồn tại trong công tác kế toán của Công ty.
Từ các ưu điểm, nhược điểm được rút ra này, nghiên cứu đề xuất các giải
pháp hoàn thiện công tác kế toán quản trị tại Công ty Cổ phần thủy điện Thác Mơ,
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy kế toán công ty nói
riêng và tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung.
1.3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phân tích cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ
máy kế toán tại Công ty Cổ phần thủy điện Thác Mơ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những nội dung kế toán quản trị áp dụng cụ
thể vào việc hoàn thiện hệ thống công tác kế toán quản trị tại Công ty như: Hoàn thiện
hệ thống lập dự toán ngân sách, kế toán trách nhiệm, kế toán chi phí sản xuất&tính giá
thành sản phẩm và hệ thống thông tin phục vụ ra quyết định kinh doanh tại Công ty Cổ
Phần Thủy điện Thác Mơ.
1.4
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định
lượng nhưng trọng tâm sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính là chính.
Phương pháp nghiên cứu định lượng chủ yếu được sử dụng là thống kê mô tả thông
qua khảo sát. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương
-3-
pháp so sánh, đối chiếu, hệ thống, phân tích tổng hợp.... để giải quyết các vấn đề về
lý luận, thống kê số liệu thu thập, đánh giá thực trạng để đưa ra phương hướng, đề
ra một số giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện các vấn đề như mục tiêu đã đặt ra.
1.5
Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có rất nhiều luận văn nghiên cứu về hoàn thiện công tác
kế toán tại các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam ở nhiều góc độ và
mục đích khác nhau, nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bộ
máy kế toán, đơn cử:
-
Kế toán quản trị ở doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam (Ngô Thị Thu
Hồng – 2010)
-
Tổ chức Công tác kế toán quản trị tại Công ty TNHH Chí Hùng (Nguyễn
Văn Hải - 2012)
-
Tổ chức Công tác kế toán quản trị tại Công ty cổ phần Thủy sản 584 Nha
Trang (Nguyễn Thị Bảo Ngọc – 2013)
Nhìn chung, những nghiên cứu trên đều phân tích thực trạng công tác kế toán
quản trị, nên các giải pháp hoàn thiện chỉ phù hợp với đặc thù hoạt động của mình,
các giải pháp mang tính chất hoàn thiện chung chung.
Hơn nữa, hiện nay tại Công ty Cổ phần Thủy điện Thác Mơ chưa có đề tài
nào nghiên cứu về tổ chức công tác kế toán quản trị . Vì vậy, dựa vào nền tảng của
những nghiên cứu trên, tác giả đã kế thừa phát triển để phù hợp với đặc thù hoạt
động kinh doanh của Công ty hiện tại.
Điểm nổi bật của đề tài là thông qua việc phân tích và đánh giá thực trạng tổ
chức công tác kế toán quản trị của Công ty Cổ phần Thủy điện Thác Mơ, tác giả đã
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bộ máy kế toán của
Công ty.
1.6
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục luận văn viết thành năm chương, gồm:
Chương 1: Phần mở đầu
Chương 2: Tổng quan về kế toán quản trị trong doanh nghiệp
-4-
Chương 3: Tình hình công tác kế toán quản trị tại Công ty
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện Kế toán quản trị cho Công ty.
Chương 5: Kiến nghị và kết luận
-5-
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
TRONG DOANH NGHIỆP
2.1
Một số vấn đề chung về kế toán quản trị
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của kế toán quản trị
Cùng với sự phát triển tập trung và chuyên môn hóa quá trình kinh doanh đã
hình thành nhiều ngành, nhiều dạng tổ chức với nhiều loại sản phẩm dịch vụ phong phú
có phương thức quản lý riêng biệt. Đặc biệt, sự tách rời quyền sở hữu của các chủ sở
hữu doanh nghiệp và quyền quản lý của các nhà quản trị doanh nghiệp đã dẫn đến sự
cần thiết phải có thông tin kế toán quản trị để hình thành các quyết định của những nhà
quản lý điều hành doanh nghiệp. Để Ban quản trị điều hành doanh nghiệp có thể kiểm
soát một cách có hiệu quả tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình, kế
toán phải biết tiên liệu kết quả và dự phần vào việc quản trị doanh nghiệp.
Kế toán quản trị được áp dụng cho mọi thành phần kinh tế và mọi lĩnh vực kinh
doanh, kế cả các tổ chức hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Nếu như kế toán tài
chính đã ra đời cách đây rất lâu, thì cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người ta còn
biết rất ít về kế toán quản trị. Theo giáo sư Lyle E.Jacobsen viết trên báo London
Economist tháng 06/1960 thì, người đầu tiên viết về kế toán quản trị là Thomas Suther
Land – một nhà kinh doanh người Anh. Vào năm 1875, ông đã viết: “Các doanh nghiệp
cần phải xác định được lợi nhuận của một năm hoặc một khoảng thời gian ngắn hơn
nữa. Cho nên có một điều hiển nhiên là các nhà quản lý cần phải nắm được các thông
tin chi tiết về hoạt động của doanh nghiệp, các thông tin này có thể thu thập được ngay
trong thực tiển hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp, nó trợ giúp cho các nhà quản lý
hiểu được nhanh chóng và rõ ràng những nguyên nhân có thể ảnh hưởng tốt, xấu đến
hoạt động của doanh nghiệp.
Kế toán quản trị được áp dụng đầu tiên ở Bắc Mỹ và Anh vào nửa cuối thế kỷ 19
trong các ngành công nghiệp dệt lụa, đường sắt sau đó thâm nhập vào các ngành công
-6-
nghiệp thuốc lá, luyện kim, hóa chất… và đến năm 1925 kế toán quản trị đã thâm nhập
vào hầu hết các ngành kinh tế và được định hình phát triển cho đến nay.
Các sự kiện đã thúc đẩy phát triển của kế toán quản trị đó là: sự cạnh tranh trong
kinh doanh toàn cầu; sức ép khóc liệt của giá thành, sự phát triển nhanh chóng của kỹ
thuật trong lĩnh vực tự động hóa; khả năng so với trong việc thu thập và báo cáo thông
tin và sự chuyển động mạnh mẽ theo hướng vượt khỏi các quy định của các ngành dịch
vụ. Những thay đổi do các sự kiện này đã đem đến và làm tăng thêm nhu cầu về thông
tin của các nhà quản lý, đặc biệt là các thông tin có liên quan đến hoạt động nội bộ mà
họ không thể nào có được từ các báo cáo thu thập truyền thống và bảng cân đối kế toán.
2.1.2 Khái niệm kế toán quản trị
Theo định nghĩa của hiệp hội kế toán Mỹ (NAA) – văn kiện số 1A tháng
03/1981, thì: “Kế toán quản trị là quá trình cung cấp thông tin cho nhà quản lý doanh
nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch, trong việc kiểm soát và điều hành hoạt
động của doanh nghiệp. Quy trình của kế toán quản trị bao gồm các công việc xác định,
cân, đo, đong, đếm, thu thập, tích lũy, phân tích, chuẩn bị thông tin, giải thích và cung
cấp thông tin cho nhà quản lý để các nhà quản lý xử lý những thông tin này theo hướng
có lợi nhất cho doanh nghiệp.”
Theo thông tư 53/2006/TT-BTC thì thông tin hoạt động nội bộ mà kế toán quản
trị cung cấp có thể là:chi phí của từng bộ phận, từng công việc, từng sản phẩm, phân
tích đánh giá tình hình thực hiện với kế hoạch về doanh thu, chi phí, lợi nhuận, phân tích
mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng và lợi nhuận, lựa chọn thông tin thích hợp cho
các quyết định đầu tư ngắn hạn, dài hạn, lập dự toán ngân sách nhằm phục vụ việc điều
hành, kiểm tra và ra quyết định.
Như vậy, qua các khái niệm trên ta có thể đưa ra khái niệm tổng quát về kế toán
quản trị như sau: Kế toán quản trị là một chuyên ngành kế toán thực hiện việc ghi chép,
đo lường, tính toán, thu thập, tổng hợp, xử lý và cung cấp thông tin kinh tế có thể định
lượng nhằm phục vụ chủ yếu cho các nhà quản trị doanh nghiệp trong quá trình hoạch
định, kiểm soát và ra quyết định kinh doanh.
-7-
2.1.3 Mục tiêu của kế toán quản trị
Để thực hiện các công việc trong quá trình quản lý hoạt động của tổ chức, các
nhà quản lý cần thông tin.Thông tin mà các nhà quản lý cần để thực hiện công việc
được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau: các nhà kinh tế, các chuyên gia tài chính, các
chuyên viên tiếp thị, sản xuất và các nhân viên kế toán quản trị của tổ chức.
Hệ thống thông tin kế toán quản trị trong tổ chức có nhiệm vụ cung cấp thông tin
về những quyết định nội bộ được tạo ra bởi công nhân và người quản lý, thông tin phản
hồi và kiểm tra tình hình hoạt động. Kế toán quản trị có bốn mục tiêu chủ yếu như sau:
-
Cung cấp thông tin cho nhà quản lý để lập kế hoạch và ra quyết định;
-
Trợ giúp nhà quản lý trong việc điều hành và kiểm soát hoạt động của tổ
chức;
-
Thúc đẩy các nhà quản lý đạt được các mục tiêu của tổ chức.
-
Đo lường hiệu quả hoạt động của các nhà quản lý và các bộ phận, đơn vị trực
thuộc trong tổ chức.
2.1.4 Vai trò của kế toán quản trị
Vai trò kế toán quản trị là kế toán theo chức năng quản lý, vì thế vai trò của nó
là cung cấp thông tin hữu ích liên quan đến việc lập kế hoạch tổ chức, điều hành hoạt
động, kiểm tra và ra quyết định.
-
Cung cấp thông tin cho quá trình lập kế hoạch.
Việc lập kế hoạch trong một tổ chức liên quan đến 2 vấn đề đó là: Xác định mục
tiêu của tổ chức và xây dựng những phương thức để đạt được mục tiêu đó. Dự toán
ngân sách trong kế toán quản trị sẽ là một công cụ để kế toán viên giúp Ban quản trị
trong quá trình lập kế hoạch và kiểm soát việc thực hiện kế hoạch . Vì vậy, kế toán quản
trị phải trên cơ sở đã ghi chép, tính toán, phân tích chi phí, doanh thu, kết quả từng loại
hoạt động, từng sản phẩm, từng ngành hàng,… Lập các bảng dự toán chi phí, doanh thu,
lợi nhuận, dự toán vốn… Để cung cấp các thông tin trong việc phác họa, dự kiến tương
lai nhằm phát triển doanh nghiệp.
-
Cung cấp thông tin cho quá trinh tổ chức điều hành hoạt động:
Để đáp ứng thông tin cho chức năng tổ chức, điều hành hoạt động của các nhà
-8-
quản trị, kế toán quản trị sẽ cung cấp thông tin cho các tình huống khác nhau với các
phương án khác nhau để nhà quản trị có thể xem xét, đề ra quyết định đúng đắn nhất
trong quá trình tổ chức điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với các mục
tiêu đã vạch ra. Và như vậy, kế toán quản trị phải tổ chức ghi chép, xử lý thông tin đầu
và hệ thống hóa các số liệu chi tiết theo hướng đã định.
-
Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm soát:
Để giúp các nhà quản trị thực hiện chức năng kiểm soát, kế toán quản trị sẽ cung
cấp các báo cáo thực hiện, trong đó: so sánh những số liệu thực hiện với số liệu kế
hoạch hoặc dự toán, liệt kê tất cả các sự khác biệt và đánh giá việc thực hiện. Các báo
cáo này có tác dụng như một hệ thống thông tin phản hồi để nhà quản trị biết được kế
hoạch đang được thực hiện như thế nào, đồng thời nhận diện các vấn đề hạn chế cần có
sự điều chỉnh, thay đổi nhằm hướng hoạt động của tổ chức về mục tiêu đã xác định.
-
Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định:
Chức năng ra quyết định đòi hỏi nhà quản trị phải có sự lựa chọn hợp lý trong
nhiều phương án khác nhau được đưa ra. Các quyết định trong một tổ chức có thể có
ảnh hưởng ngắn hạn đến tổ chức hoặc có thể là các quyết định chiến lược ảnh hưởng lâu
dài đến tổ chức. Tất cả các quyết định đều có nền tảng từ thông tin, và phần lớn thông
tin do kế toán quản trị cung cấp nhằm để phục vụ chức năng ra quyết định của nhà quản
trị. Vì vậy, kế toán quản trị phải cung cấp thông tin linh hoạt kịp thời và mang tính hệ
thống, trên cơ sở đó phân tích các phương án được thiết lập để lựa chọn phương án tối
ưu nhất cho việc ra quyết định. Các thông tin này cũng có thể diễn đạt dưới dạng mô
hình toán học, đồ thị, biểu đồ… để nhà quản trị có thể xử lý nhanh chóng.
2.2
Nội dung của kế toán quản trị
Từ những phân tích về vai trò của kế toán quản trị ở phần trên, có thể nhận thấy
nội dung cơ bản của kế toán quản trị bao gồm những phần sau:
-
Dự toán ngân sách
-
Kế toán theo các trung tâm trách nhiệm và đánh giá trách nhiệm quản lý
-
Hệ thống kế toán chi phí và quản trị chi phí sản xuất kinh doanh trong công
ty.
-9-
-
Thiết lập thông tin kế toán quản trị cho việc ra quyết định và dự báo.
Các phương pháp nghiệp vụ được sử dụng trong kế toán quản trị:
Các phương pháp được sử dụng trong kế toán quản trị cơ bản giống như kế toán
tài chính, đó là:
-
Phương pháp chứng từ kế toán
-
Phương pháp đối ứng tài khoản
-
Phương pháp tinh giá
-
Phương pháp tổng hợp cân đối
2.2.1 Dự toán ngân sách:
Là dụng cụ định lượng được sử dụng bởi các kế toán viên để giúp các nhà quản
trị trong việc hoạch định và kiểm soát, bao gồm dự toán ngân sách chủ đạo, dự toán
ngân sách linh hoạt, dự toán vốn.
Dự toán ngân sách là những tính toán, dự kiến một cách toàn diện mục tiêu kinh
tế, tài chính mà công ty cần đạt được trong kỳ hoạt động, đồng thời chỉ rõ cách thức,
biện pháp huy động các nguồn lực để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đó. Dự toán ngân
sách là một hệ thống bao gồm nhiều dự toán như: dự toán tiêu thụ, dự toán sản xuất, dự
toán chi phí nguyên vật liệu, dự toán chi phí nhân công, dự toán chi phí sản xuất chung,
dự toán chi phí bán hàng, dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp, dự toán giá vốn hàng
bán, dự toán vốn đầu tư, dự toán tiền, dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, dự
toán bảng cân đối kế toán. Dự toán ngân sách là cơ sở để đánh giá thành quả hoạt động
của từng bộ phận, từ đó xác định trách nhiệm của từng bộ phận nhằm phục vụ tốt cho
quá trình tổ chức và hoạch định.
Dự toán ngân sách là công cụ của nhà quản lý, chính vì thế đòi hỏi nhà quản lý
phải am hiểu các loại dự toán để thích ứng với từng nhu cầu riêng lẻ và từng hoàn cảnh
cụ thể của từng tổ chức trong từng thời kỳ, từng giai đọan. Tùy theo cách thức phân loại
sẽ có các loại dự toán ngân sách sau đây:
Phân loại theo thời gian: theo cách phân loại này thì dự toán chia làm hai loại
là dự toán ngắn hạn và dự toán dài hạn.
-
Dự toán ngân sách ngắn hạn: Dự toán ngân sách ngắn hạn là dự toán được
- 10 -
lập cho kỳ kế hoạch là một năm và được chia ra từng kỳ ngắn hơn là hàng
quý và hàng tháng. Dự toán ngân sách ngắn hạn thường liên quan đến các
hoạt động kinh doanh thường xuyên của tổ chức như mua hàng, bán hàng,
thu tiền, chi tiền, sản xuất.. Dự toán ngân sách ngắn hạn được lập hàng năm
trước khi niên độ kế toán kết thúc và được xem như là định hướng chỉ đạo
cho mọi hoạt động của tổ chức trong năm kế hoạch.
-
Dự toán ngân sách dài hạn: Dự toán ngân sách dài hạn còn được gọi là dự
toán ngân sách vốn, đây là dự toán được lập liên quan đến tài sản dài hạn,
thời gian sử dụng tài sản vào các hoạt động kinh doanh thường hơn một năm.
Dự toán dài hạn thường bao gồm việc dự toán cho các tài sản lớn phục vụ
cho hoạt động sản xuất và hệ thống phân phối như: nhà xưởng, máy móc
thiết bị…… để đáp ứng yêu cầu chiến lược kinh doanh. Đặc điểm cơ bản của
dự toán ngân sách vốn là lợi nhuận dự kiến lớn, mức độ rủi ro cao, thời gian
thu hồi vốn dài.
Phân loại theo chức năng: theo cách phân loại này thì dự toán chia làm hai loại
chính là dự toán hoạt động và dự toán tài chính
-
Dự toán hoạt động: Dự toán hoạt động bao gồm các dự toán liên quan đến
hoạt động cụ thể của công ty. Như dự toán tiêu thụ nhằm phán đoán tình hình
tiêu thụ của công ty trong kỳ dự toán, dự toán sản xuất được áp dụng cho các
công ty sản xuất nhằm dự toán sản lượng sản xuất đủ cho tiêu thụ từ đó tính
dự toán chi phí sản xuất, dự toán mua hàng nhằm dự toán khối lượng hàng
cần thiết phải mua đủ cho tiêu thụ và tồn kho, sau đó lập dự toán chi phí bán
hàng và quản lý, dự toán kết quả kinh doanh.
-
Dự toán tài chính: Dự toán hoạt động là các dự toán liên quan đến tiền tệ, vốn
đầu tư, bảng cân đối kế toán, dự toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh,
trong đó: dự toán tiền tệ là kế hoạch chi tiết cho việc thu và chi tiền, dự toán
vốn đầu tư trình bày dự toán các tài sản dài hạn và vốn cần thiết cho hoạt
động kinh doanh ở những năm tiếp theo, dự toán bảng cân đối kế toán, dự
toán báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là các dự toán tổng hợp số liệu
- 11 -
kinh doanh của công ty.
Phân loại theo phương pháp lập: theo cách phân loại này thì dự toán chia làm
hai loại chính là dự toán cố định và dự toán linh hoạt.
-
Dự toán ngân sách linh hoạt: Dự toán ngân sách linh hoạt là dự toán cung cấp
cho công ty khả năng ước tính chi phí và doanh thu tại nhiều mức độ hoạt
động khác nhau. Dự toán linh hoạt được lập theo mối quan hệ với quá trình
hoạt động, giúp xác định ngân sách dự kiến tương ứng ở từng mức độ và
phạm vi hoạt động khác nhau. Thông thường dự toán linh hoạt được lập ở ba
mức độ hoạt động cơ bản là: mức độ hoạt động bình thường, trung bình;
mức độ hoạt động khả quan nhất; mức độ bất lợi nhất. Ưu điểm của dự toán
linh hoạt là có thể thích ứng với sự thay đổi của hoạt động kinh doanh, mở
rộng phạm vi dự toán, tránh được việc sửa đổi dự toán một cách phiền phức
khi mức độ hoạt động thay đổi. Mặt khác, có thể dùng dự toán để xem xét
tình hình thực hiện trong thực tế.
-
Dự toán ngân sách cố định: Dự toán ngân sách cố định là dự toán tại các số
liệu tương ứng với một mức độ hoạt động ấn định trước. Dự toán ngân
sách cố định phù hợp với công ty có hoạt động kinh tế ổn định. Dự toán cố
định chỉ dựa vào một mức độ hoạt động mà không xét tới mức độ này có thể
bị biến động trong kỳ dự toán. Nếu dùng dự toán này để đánh giá thành quả
kinh doanh của một công ty mà các nghiệp vụ luôn biến động thì khó đánh
giá được tình hình thực hiện dự toán của công ty.
Phân loại theo mức độ phân tích: theo cách phân loại này thì dự toán chia làm
hai loại chính là dự toán gốc và dự toán cuốn chiếu.
-
Dự toán từ gốc: Dự toán từ gốc là khi lập dự toán phải gạt bỏ hết những dự
toán số liệu đã tồn tại trong quá khứ và xem các nghiệp vụ kinh doanh như
mới bắt đầu. Tiến hành xem xét khả năng thu nhập, những khoản chi phí phát
sinh và khả năng thực hiện lợi nhuận của công ty để lập các báo cáo dự toán.
Các báo cáo dự toán mới sẽ không lệ thuộc vào số liệu của báo cáo dự toán
cũ. Dự toán từ gốc không chịu hạn chế các mức chi tiêu đã qua, không có
- 12 -
khuôn mẫu vì thế nó đòi hỏi nhà quản lý các cấp phải phát huy tính năng
động chủ quan, tính sáng tạo và căn cứ vào tình hình cụ thể để lập dự toán
ngân sách. Phương pháp dự toán từ gốc có nhiều ưu điểm:
o Thứ nhất, nó không lệ thuộc vào các số liệu của kỳ quá khứ. Thông
thường thì các công ty thường hay dựa vào số liệu của các báo cáo dự
toán cũ kết hợp với mục tiêu mới để lập dự toán ngân sách cho năm
sau. Nhưng cách lập dự toán ngân sách như vậy sẽ che lấp và lệ thuộc
vào các khuyết điểm của kỳ quá khứ tồn tại mãi trong công ty. Dự
toán từ gốc sẽ khắc phục nhược điểm này trong quá trình lập dự toán.
o Thứ hai, phương pháp dự toán từ gốc sẽ phát huy mạnh mẽ tính chủ
động và sáng tạo của bộ phận lập dự toán. Quan điểm của các bộ
phận lập dự toán không bị ảnh hưởng, chi phối bởi những quan điểm
sai lầm của những người đi trước. Thông thường thì các bộ phận lập
dự toán có khuynh hướng dựa vào ý định của người quản lý cùng với
các quy định có sẵn để lập dự toán, thiếu chủ động suy nghĩ về tình
hình tương lai, không mạnh dạn khai thác cơ hội phát triển công việc.
Vì vậy làm cho công tác dự toán chỉ mang tính hình thức, mất đi tính
hiệu quả thực sự.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là tất cả mọi hoạt động phân tích,
nghiên cứu đều bắt đầu từ con số không, khối lượng công việc nhiều, thời gian dùng cho
việc lập dự toán dài, kinh phí cho việc lập dự toán cao và cũng không thể chắc chắn
rằng số liệu dự toán từ gốc chính xác hoàn toàn, không có sai sót.
-
Dự toán cuốn chiếu: Dự toán cuốn chiếu còn gọi là dự toán nối mạch. Dự
toán theo phương pháp này là các bộ phận lập dự toán sẽ dựa vào các báo cáo
dự toán cũ của công ty và điều chỉnh với những thay đổi trong thực tế để lập
các báo cáo dự toán mới.
o Ưu điểm của phương pháp này là các báo cáo dự toán được sọan thảo,
theo dõi và cập nhật một cách liên tục, không ngừng. Dự toán cuốn
chiếu giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp có thể kế hoạch hóa liên
- 13 -
tục các hoạt động kinh doanh của các năm một cách liên tục mà
không đợi kết thúc việc thực hiện dự toán năm cũ mới có thể lập dự
toán cho năm mới.
o Khuyết điểm của phương pháp này là quá trình lập dự toán ngân sách
lệ thuộc rất nhiều vào các báo cáo dự toán cũ, không phát huy tính
chủ động sáng tạo của các bộ phận lập dự toán ngân sách.
2.2.2 Hệ thống kế toán chi phí và quản trị chi phí sản xuất kinh doanh
Hầu hết các quyết định quản trị đều có liên quan đến chi phí sản xuất kinh
doanh.Vì vậy, các kế toán viên quản trị phải có khả năng phân loại chi phí thành từng
loại chi phí khác nhau phù hợp với yêu cầu của mỗi loại quyết định.
2.2.2.1 Dưới góc độ quản trị, chi phí thường được phân loại thành các cặp như sau:
Chi phí cố định và chi phí biến đổi
Chi phí biến đổi: Là các khoản chi phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ với các biến đổi
của các mức hoạt động.
Xét về tính chất tác động, chi phí khả biến được chia làm 2 loại: chi phí khả biến
thực thụ và chi phí khả biến cấp bậc.
Chi phí cố định: Là các khoản chi phí không thay đổi về tổng số lượng trong một
phạm vi nhất định khi có sự thay đổi của các mức độ hoạt động.
Cho mục tiêu lập kế hoạch, các khoản chi phí bất biến có thể phân ra thành chi
phí bất biến bắt buộc và chi phí bất biến không bắt buộc.
Chi phí hổn hợp: bao gồm cả hai yêu tố khả biến và bất biến. Phần bất biến của
chi phí hổn hợp thường phản ánh chi phí căn bản tối thiểu để duy trì phục vụ và để giữ
dịch vụ đó luôn luôn ở tình trạng sẵn sàng phục vụ. Còn phần chi phí khả biến trong chi
phí hỗn hợp thường phản ánh thực tế chi phí sử dụng hoặc sử dụng quá định mức. Do
vậy, yếu tố khả biến sẽ biến thiên tỷ lệ thuận với mức dịch vụ phục vụ hoặc mức sử
dụng vượt quá định mức.
Nhằm mục đích lập kế hoạch , kiểm soát hoạt động kinh doanh và chủ động
trong quản lý chi phí, kế toán viên quản trị cần phải ghi chép chi phí hỗn hợp khi chúng
- 14 -
phát sinh và tách chúng ra thành hai yếu tố là chi phí khả biến và chi phí bất biến.
Có ba phương pháp phân tích chi phí hỗn hợp thành các chi phí bất biến và chi
phí khả biến đó là: Phương pháp cực đại – cực tiểu; Phương pháp đồ thị phân tán và
Phương pháp bình phương bé nhất.
Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp:
Chi phí trực tiếp: Là những chi phí chỉ quan hệ trực tiếp đến việc sản xuất một
loại sản phẩm, một công việc, lao vụ hoặc một hoạt động, một địa điểm nhất định và
hoàn toàn có thể hạch toán, quy nạp trực tiếp cho sản phầm, công việc, lao vụ đó.
Chi phí gián tiếp: Là chi phí có liên quan đến nhiều sản phẩm, công việc, lao vụ,
nhiều đối tượng khác nhau nên phải tập hợp, quy nạp cho từng đối tượng bằng phương
pháp phân bổ thông qua các tiêu thức phù hợp
Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được:
Chi phí kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó là chi phí mà nhà quản lý cấp
đó xác định được chính xác sự phát sinh của nó, đồng thời có thẩm quyền ra quyết định
đối với sự phát sinh của các khoản chi phí đó. Những chi phí nằm ngoài khả năng định
ra được một cấp được gọi là chi phí không kiểm soát được.
Chi phí chênh lệch và chi phí lặn:
Chi phí chênh lệch: Các nhà quản lý thường phải đứng trước sự so sánh, lựa
chọn những phương án khác nhau, quyết định sẽ được hình thành chủ yếu dựa trên cơ
sở chi phí của từng phương án. Nhưng thực tế lại có những chi phí tồn tại trong phương
án này nhưng lại không hoặc chỉ tồn tại một phần trong phương án kia. Tất cả những sự
thay đổi đó hình thành chi phí chênh lệch và chính nó sẽ làm căn cứ để nhà quản lý lựa
chọn phương án.
Chi phí lặn: Chi phí lặn là những chi phí phát sinh trong quá khứ mà công ty
phải chịu và vẫn còn phải chịu trong tương lai bất kể công ty lựa chọn phương án nào.
Ví dụ, chi phí khấu hao tài sản cố định thường là chi phí lặn.
Chi phí xác định và chi phí cơ hội:
Chi phí xác định: Là các khoản chi phí về nhân công, nguyên liệu và các yếu tố
sản xuất khác đã thực chi, thực trả. Các khoản chi phí này được phản ánh trên sổ sách kế
- 15 -
toán của công ty.
Chi phí cơ hội: Là lợi nhuận tìm tàng bị mất đi do chọn phương án này, thay vì
chọn phương án và hành động khác.
2.2.2.2 Các mô hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm:
Trong kế toán quản trị, để đảm bảo thông tin được cung cấp vừa có tính chính
xác, vừa mang tính linh hoạt, kịp thời cho việc ra quyết định kinh doanh cũng kiểm soát
được chi phí phát sinh, thì hệ thống kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
có thể được thiết kế theo các mô hình sau:
-
Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế:
Đặc điểm của mô hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo
chi phí thực tế là tập hợp chi phí sản xuất, căn cứ vào chi phí sản xuất thực tế phát sinh,
tập hợp chi phí sản xuất là tính giá thành sản phẩm dựa trên cơ sở chi phí sản xuất thực
tế. Theo mô hình này, việc tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chỉ có
thể thực hiện vào thời điểm cuối kỳ. Theo đó, các khoản mục chi phí cấu thành sản
phẩm phát sinh trong quá trình sản xuất bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung sẽ được phản ánh và tính toán theo chi
phí thực tế phát sinh. Vì vậy, giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ được tính toán
vào cuối kỳ tương ứng với kỳ tính giá thành đã được xác định
-
Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế kết hợp với
chi phí dự toán:
Đặc điểm của mô hình này là việc tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ vẫn ghi
chép và phản ánh theo số liệu thực tế. Tuy nhiên, việc kết chuyển chi phí sản xuất để
tính giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ lại dựa trên chi phí thực tế và chi phí dự
toán. Theo đó, hai khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực
tiếp thường được tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng tính giá thành. Còn khoản mục
chi phí sản xuất chung sẽ được phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí theo mức dự
toán. Chênh lệch giữa chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh và chi phí sản xuất chung
đã phân bổ theo số dự toán được xử lý tùy thuộc vào tính chất trọng yếu của mức chênh
lệch.
- 16 -
-
Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm theo chi phí định mức:
Chi phí định mức là những chi phí được định trước đối với chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, trong hệ thống kế toán
của mô hình này các dữ liệu định mức sẽ thay thết tấc cả các dữ liệu thực tế. Các tài
khoản như nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung,
sản phẩm dở dang, thành phẩm, giá vốn hàng bán được phản ánh theo chi phí định mức.
Chênh lệch vào cuối kỳ kế toán giữa chi phí định mức và chi phí thực tế sẽ được nhân
viên kế toán tính toán, tìm nguyên nhân làm cơ sở để đưa ra các biện pháp xử lý.
2.2.2.3 Các phương pháp tính giá thành sản xuất sản phẩm:
2.2.2.3.1 Phương pháp hệ số:
Phương pháp hệ số được áp dụng trong trường hợp trên cùng một quy trình
công nghệ sản xuất, sử dụng cùng loại vật tư, lao động, máy móc, thiết bị nhưng kết
quả tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau đều là sản phẩm chính và giữa các sản phẩm có
quan hệ tỷ lệ. Đối tượng tập hợp chi phí là từng nhóm sản phẩm gắn liền với quy trình
công nghệ sản xuất, đối tượng tính giá thành là sản phẩm trong từng nhóm.
2.2.2.3.2 Phương pháp tỷ lê:
Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp trên cùng một quy trình công
nghệ sản xuất một nhóm sản phẩm cùng loại với những chủng loại, phẩm cấp, quy cách
khác nhau. Các sản phẩm này không có quan hệ tương ứng tỷ lệ để quy đổi tương ứng.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thường là từng nhóm sản phẩm, đối tượng
tính giá thành là từng quy cách sản phẩm.
2.2.2.3.3 Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng:
Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt
hàng. Đối tượng tập hợp chi phí là từng đơn đặt hàng riêng biệt, đối tượng tính giá thành
là từng đơn đặt hàng.
2.2.2.3.4 Phương pháp phân bước:
Phương pháp phân bước được áp dụng đối với các quy trình công nghệ phức tạp
gồm nhiều giai đoạn chế biến kế tiếp nhau. Sản phẩm của giai đoạn trước là nguyên liệu
đầu vào của giai đoạn sau. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng giai đoạn của quy
- 17 -
trình công nghệ sản xuất, đối tượng tính giá thành là thành phẩm hoặc bán thành phẩm
và thành phẩm.
2.2.3 Kế toán các trung tâm trách nhiệm.
Là một công cụ đề có thể đánh giá kiểm soát trong các công ty phân quyền,
thông qua việc xác định các trung tâm trách nhiệm và nhiệm vụ báo cáo của chúng.
Theo nhóm tác giả Anthony A,Atkinson, Rajiv. D.Banker, Robert S.Kaplan và
Smark Young (1997) “ Kế toán trách nhiệm là một hệ thống có chức năng thu thập,
tổng hợp và báo cáo các dữ liệu kế toán có liên quan đến trách nhiệm của từng nhà quản
lý riêng biệt trong một tổ chức nhằm cung cấp các thông tin liên quan đến chi phí, thu
nhập và các số liệu hoạt động của từng khu vực trách nhiệm hoạch từng đơn vị trong tổ
chức mà họ có quyền kiểm soát. Đồng thời tạo ra các báo cáo bao gồm cả những đối
tượng kiểm soát được hoặc không kiểm soát được đối với một cấp quản lý”
Đối với tác giả Jame R. Martin thì “ Kế toán trách nhiệm là một hệ thống cung
cấp các thông tin về kết quả và hiệu quả hoạt động của các bộ phận bên trong một
doanh nghiệp. Đó là công cụ đo lường, đánh giá hoạt động của những bộ phận liên quan
đến đầu tư, lợi nhuận, doanh thu và chi phí mà mỗi bộ phận đó có quyền kiểm soát và
chịu trách nhiệm tương ứng”.
Như vậy, kế toán trách nhiệm là hệ thống thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin
có thể kiểm soát theo phạm vi trách nhiệm của từng nhà quản trị nhằm đạt được mục
tiêu chung của tổ chức.vấn đề trên
Từ các vấn đề trên, có thể xác định các nội dung cơ bản để thực hiện hệ thống kế
toán trách nhiệm như sau:
-
Xác định các trung tâm trách nhiệm
-
Xác định các chỉ tiêu để đo lường thành quả của mỗi trung tâm
-
Xác định trách nhiệm báo cáo của từng trung tâm trách nhiệm
2.2.3.1 Xác định các trung tâm trách nhiệm.
Trung tâm trách nhiệm là một bộ phận trong một tổ chức mà các nhà quản trị của
nó chịu trách nhiệm đối với thành quả hoạt động của chính bộ phận do mình phụ trách
và có thể kiểm soát được. Có 4 loại trung tâm trách nhiệm là: Trung tâm chi phí, trung
- 18 -
tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư.
Trung tâm chi phí
Trung tâm chi phí là một bộ phận mà các nhà quản trị của nó chỉ được quyền ra
quyết định đối với chi phí phát sinh của bộ phận đó.
Trung tâm doanh thu
Trung tâm doanh thu: là một bộ phận mà các nhà quản trị của nó chỉ được quyền
ra quyết định đối với doanh thu phát sinh trong bộ phận đó. Trung tâm này thường gắn
với cấp cơ sở như bộ phận kinh doanh, chi nhánh tiêu thụ, khu vực tiêu thụ,…
Trung tâm lợi nhuận
Trung tâm lợi nhuận: Là một bộ phận mà các nhà quản lý của nó chỉ được quyền
ra quyết định đối với lợi nhuận đạt được của bộ phận đó. Nhà quản trị trung tâm này
chịu trách nhiệm cả về doanh thu, chi phí. Như vậy, chịu trách niệm với kết quả sản xuất
và tiêu thụ của Trung tâm
Trung tâm đầu tư
Trung tâm đầu tư: là một bộ phận mà các nhà quản lý của nó được quyền ra
quyết định đối với lợi nhuận và vốn đầu tư của bộ phận đó. Trung tâm đầu tư thường
gắn liền với cấp quản lý cao nhất như Hội đồng quản trị, Tổng công ty,…Người quản lý
của trung tâm đầu tư có nhiều quyền hạn và trách nhiệm hơn, vì ngoài việc đưa ra các
quyết định về chi phí sản phẩm, phương thức sản xuất, cơ cấu sản phẩm, giá bán, họ còn
kiểm soát các quyết định về đầu tư. Vì vậy, họ có thẩm quyền điều phối , sử dụng, đầu
tư tài sản để tìm kiếm mức lợi nhuận cao nhất.
- 19 -
2.2.3.2 Xác định các chỉ tiêu đo lường thành quả hoạt động của các trung tâm trách
nhiệm
Ngoài các hoạt động của trung tâm trách nhiệm đã được xem xét trên cả hai mặt,
đó là hiệu quả và hiệu năng, việc đánh giá này thông qua các bảng điều tra khảo sát
thăm dò về thái độ phục vụ khách hàng, hậu mãi…..
Đối với trung tâm chi phí:
Đối với trung tâm chi phí thường được chia làm 2 loại:
Trung tâm chi phí tiêu chuẩn: là trung tâm chi phí mà các yếu tố chi phí và các
mức hao phí về nguồn lực sử dụng để sản xuất ra một đơn vị sản phảm, dịch vụ đã được
xây dựng định mức cụ thể. Trung tâm chi phí tiêu chuẩn thường gắn liền với các nhà
quản trị cấp cơ sở ở các nhà máy, phân xưởng, tổ đội sản xuất. Tại trung tâm này, các
nhà quản trị có trách nhiệm kiểm soát chi phí phát sinh sao cho đúng với định mức đã
được xây dựng. Để đánh giá thành quả của Trung tâm này cần căn cứ vào:
Về mặt hiệu quả: đánh giá việc trung tâm hoàn thành được kế hoạch sản lượng
sản xuất trên cơ sở đảm bảo đúng chất lượng và thời hạn quy định.
Về mặt hiệu năng: đo lường bằng cách so sánh giữa chi phí thực tế với chi phí
định mức. Nhà quản trị sẽ phân tích sự biến động về chi phí để tìm ra nguyên nhân tác
động đến tình hình thực hiện định mức chi phí.
Trung tâm chi phí dự toán: Là trung tâm chi phí mà các yếu tố được dự toán và
đánh giá căn cứ vào nhiệm vụ chung được giao. Nhà quản trị các trung tâm này có trách
nhiệm kiểm soát chi phí sao cho phù hợp với chi phí dự toán và đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Trong công ty các trung tâm này thường là: Phòng kế toán, Phòng
hành chánh, Phòng nhân sự, Phòng marketing,…Căn cứ để đánh giá thành quả của các
trung tâm chi phí dự toán là:
Về hiệu quả: So sánh giữa kết quả công việc với mục tiêu phải hoàn thành của
Trung tâm
Về hiệu năng: được đánh giá thông qua khả năng kiểm soát chi phí của nhà quản
lý ở bộ phận so với chi phí dự toán đã được duyệt.
- 20 -
Đối với trung tâm lợi nhuận:
Đối với trung tâm lợi nhuận thường gắn liền với bậc quản lý cấp trung, đó là
giám đốc điều hành các công ty phụ thuộc hoặc chi nhánh công ty. Cách đánh giá thành
quả của trung tâm này như sau:
Về hiệu quả: Việc đánh giá thành quả quản lý của các nhà quản trị ở trung tâm
lợi nhuận được căn cứ vào lợi nhuận có thể kiểm soát được ở mỗi trung tâm lợi nhuận.
Bằng cách so sánh kết quả thực tế với dự toán, các nhà quản trị có thể đánh giá được
đâu là chênh lệch có lợi và không có lợi do thành quả kiểm soát doanh thu và chi phí
mang lại.
Về hiệu năng: do có thể lượng hóa bằng tiển cả đầu vào và đầu ra nên hiệu năng
của trung tâm này có thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như sau: tỷ lệ lợi nhuận
gộp, lợi nhuận bộ phận, tỷ lệ lợi nhuận bộ phận trên doanh thu toàn bộ,…
Đối với trung tâm doanh thu:
Thành quả quản lý của các trung tâm doanh thu thường được đánh giá bằng việc
so sánh doanh thu có thể kiểm soát được giữa thực tế với dự toán và phân tích các
nguyên nhân gây ra chênh lệch như giá bán, khối lượng sản phẩm tiêu thụ, cơ cấu sản
phẩm tiêu thụ,…
Đối với trung tâm đầu tư:
Cách thức đánh giá thành quả của trung tâm này như sau:
Về hiệu quả: có thể đánh giá giống như trung tâm lợi nhuận;
Về hiệu năng: sự thành công của trung tâm đầu tư được đo lường không chỉ số
lợi nhuận tạo ra mà là lợi nhuận trong mối tương quan với tổng vốn đầu tư, tức khả năng
sinh lợi của đồng vốn, được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (ROI): là tỷ số giữa lợi nhuận thuần trên vốn đầu tư đã bỏ
ra.
ROI =
Lợi nhuận
Vốn đầu tư
=
Lợi nhuận
Doanh thu
Sử dụng chỉ tiêu ROI để đánh giá 02 nội dung:
x
Doanh thu
Vốn đầu tư
- Xem thêm -