HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐÀO HUY TOÀN
TÍNH TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ CỦA NÔNG DÂN
VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 62 31 02 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
HÀ NỘI - 2017
CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH
TẠI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Lại Quốc Khánh
2. TS. Tống Đức Thảo
Phản biện 1: .................................................................................................
Phản biện 2: .................................................................................................
Phản biện 3: .................................................................................................
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi ….. giờ ……, ngày …….. tháng …… năm 2017
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia.
- Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong đời sống chính trị hiện đại, tính tích cực chính trị của công dân có vai
trò to lớn, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình dân chủ hoá đời sống chính trị, đến
sự vận hành của thể chế chính trị pháp quyền dân chủ nên việc nghiên cứu vấn đề
này có ý nghĩa quan trọng, luôn được sự quan tâm của Đảng, nhà nước ta và của
giới nghiên cứu khoa học.
Ở Việt Nam, trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nông dân
vẫn là lực lượng đông đảo nhất, đã có những đóng góp rất lớn trong suốt chiều
dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, là một trong các lực lượng
chủ lực trong phát triển đất nước. Nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ trong thời gian
qua luôn đoàn kết, phát huy tiềm năng thế mạnh của Vùng trong phát triển kinh tế,
chính trị, xã hội, thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới, cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, từng bước phát huy vị trí địa chiến
lược là cửa ngõ ra biển của các tỉnh, thành phố miền Bắc nước ta và là huyết mạch
chính giao thương với Trung Quốc cả trên bộ và trên biển. Tuy nhiên, hiện nay còn
nhiều khó khăn, nhiều nông dân chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của mình trong
phát triển kinh tế - xã hội, chưa tích cực tham gia các hoạt động chính trị, chưa chuẩn
bị tốt các điều kiện để hội nhập quốc tế,.. trong khi đó hội nhập với Trung Quốc
đang diễn ra sôi động, nhanh chóng và quyết liệt, đòi hỏi sự vào cuộc tích cực của
người dân. Đến nay có nhiều nghiên cứu về nông dân nhưng chưa có công trình
nghiên cứu khung lý thuyết về tính tích cực chính trị của nông dân và tính tích cực
chính trị của nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Tính
tích cực chính trị của nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ Việt Nam hiện nay” là
nhiệm vụ quan trọng, góp phần xây dựng lý thuyết về tính tích cực chính trị của
nông dân Việt Nam nói chung và các giải pháp để nâng cao tính tích cực chính trị của
trên 5 triệu nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ, tạo ra nguồn lực nói chung và nguồn
lực con người nói riêng để phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về tính tích cực chính trị của nông dân Việt Nam; khái
niệm, đặc điểm, vai trò, hình thức thể hiện tính tích cực chính trị của nông dân.
Tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu là: (1)- Xây dựng khái niệm tính tích cực
chính trị của nông dân; làm rõ đặc điểm, vai trò, hình thức thể hiện tính tích cực
2
chính trị của nông dân. (2)- Xác định những yếu tố chủ yếu tác động đến tính
tích cực chính trị của nông dân (3)- Xây dựng tiêu chí cơ bản để đánh giá tính
tích cực chính trị của nông dân. (4)- Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng tính
tích cực chính trị của nông dân trong đời sống chính trị vùng duyên hải Bắc Bộ
Việt Nam. (5)-Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính tích cực
chính trị của nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ hiện nay.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT TÍNH TÍCH CỰC
CHÍNH TRỊ CỦA NÔNG DÂN
- Thời gian qua, đã có nhiều nghiên cứu về nông dân nhưng hiện nay chưa
có công trình nghiên cứu khung lý thuyết về tính tích cực chính trị của nông dân.
- Công trình nghiên cứu về tính tích cực chính trị nói chung (trong đó có
nông dân), đã đề cập, làm rõ khung lý thuyết về tính tích cực chính trị, điển hình
là tác giả Chu Khắc về tính tích cực chính trị - xã hội, tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa
về “Tính tích cực chính trị của công dân Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế hiện
nay” đã định nghĩa về tính tích cực chính trị của công dân “Tính tích cực chính
trị của công dân là toàn bộ những biểu hiện của sự tự giác, chủ động, sáng
tạo trong hoạt động của công dân tham gia vào quá trình chính trị, trên những
cơ sở, điều kiện xác định, nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính trị tiến bộ, thúc
đẩy sự phát triển của cá nhân công dân và của cộng đồng” đã tạo cơ sở quan
trọng để tiếp tục nghiên cứu sâu về nông dân.
- Các công trình nghiên cứu có đề cập về nội hàm khái niệm tính tích cực
chính trị như: Chính sách kinh tế mới qua lăng kính của thời đại hiện nay (1990) của
tác giả Epghênhi Ambaraxumốp; Participation of Women in Political Life, Inter Parliamentary Union – Geneva, Nền dân trị Mỹ của Alexis De Tocqueville,
Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035 - Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công
bằng và dân chủ của Ngân hàng thế giới; Báo cáo năm 2012 của Tổ chức Oxfam
tại Việt Nam về Vun trồng một tương lai no đủ,.. Tuy không nghiên cứu trực tiếp
về tính tích cực chính trị của nông dân, nhưng những kết quả nghiên cứu này là
gợi mở rất lớn để xây dựng lý thuyết về tính tích cực chính trị của nông dân.
3
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG, QUAN ĐIỂM
VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ CỦA
NÔNG DÂN
- Các cuốn sách “Làng xã Việt Nam - Một vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội”,
“Mấy vấn đề văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử” của tác giả Phan Đại Doãn;
“Xã thôn Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hồng Phong; “Cơ cấu tổ chức của làng Việt
cổ Bắc bộ” của tác giả Nguyễn Từ Chi đã khắc họa rõ đặc điểm kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của làng xã Việt Nam truyền thống; cuốn sách “Người nông dân
châu thổ Bắc Kỳ”của Pierre Gourou - nhà nghiên cứu địa lý học người Pháp đã khắc
họa hình ảnh nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ tham gia vào đời sống chính trị - xã
hội; nhà nghiên cứu nhân học Hà Lan là Jonh Keinen đã nghiên cứu rất sâu sắc về sự
vận động, biến đổi của làng Việt và sự tham gia tích cực của người nông dân thể hiện
qua cuốn sách “Làng Việt đối diện với tương lai, hồi sinh quá khứ”. Tính tích cực
của nông dân Việt Nam không chỉ thể hiện qua đấu tranh cách mạng, qua duy trì hoạt
động của làng xã, mà còn thể hiện sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế qua cuốn sách
“Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” của tác giả Đặng Phong.
Nghiên cứu sự biến đổi vị thế chính trị, xã hội của người nông dân Việt Nam đã
được tác giả Hoàng Chí Bảo khái quát trong cuốn sách “Hệ thống chính trị ở cơ
sở nông thôn nước ta hiện nay”, với 4 lần biến đổi,.. đã khái quát thực trạng tính
tích cực chính trị nông dân qua các thời kỳ lịch sử.
- Trong 5 năm qua, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nông thôn mới và hội nhập quốc tế, có
nhiều nghiên cứu về nông dân và đời sống chính trị nông thôn với những kết quả đạt
được, đồng thời nêu lên nhiều khó khăn, thách thức đang đặt ra và quan điểm, giải
pháp đối với việc phát huy tính tích cực của nông dân như: Luận án tiến sĩ kinh tế
của tác giả Nguyễn Văn Đại (2012) về “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, nhóm
tác giả Nguyễn Thị Lệ Thủy, Bùi Hồng Việt, Mai Thị Ánh với đề tài “Thu nhập của
nông dân bị tách biệt xã hội về kinh tế - thực trạng và khuyến nghị”, tác giả Đỗ Thị
Hải Hà với nghiên cứu về “ Việc làm của nông dân ở nước ta hiện nay - Thách thức
và giải pháp”; cuốn sách “Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam” do tác
giả Tạ Ngọc Tấn chủ biên đã mô tả, phân tích thực trạng biến đổi cơ cấu
xã hội Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2010 trong đó đưa ra một số quan
điểm, dự báo đối với sự biến đổi của nông dân; cuốn sách: “Kinh nghiệm
quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa”
4
của tác giả Đặng Kim Sơn đã làm rõ các quan niệm về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn ở các nước, chỉ rõ kinh nghiệm và giải pháp của Nhật Bản, Hàn
Quốc, Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan trong công nghiệp hóa nông nghiệp, nông
thôn; cuốn sách “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn - Kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc”; cuốn sách
“Trung Quốc đối mặt với những điểm nóng lý luận” do Cục Lý luận - Ban
Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc phát hành năm 2013, đã
đề cập và luận giải những vấn đề nóng bỏng đặt ra trong quá trình phát triển của
Trung Quốc, trong đó đề cập sâu sắc thực trạng và một số quan điểm, giải pháp
nâng cao tính tích cực chính trị của nông dân,..
1.3. THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN
ĐƢỢC TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể thấy, các nghiên cứu hiện có
đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tính tích cực chính trị nhất là khái niệm
và nhiều nội dung về tính tích cực chính trị của công dân, cơ sở và điều hiện
hình thành tính tích cực chính trị của công dân,.. là cơ sở quan trọng về lý luận
và thực tiễn để tiếp tục nghiên cứu các vấn đề về nông dân và tính tích cực
chính trị của nông dân
Nhiều nghiên cứu đã nêu bật đặc điểm môi trường chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội nông thôn; khẳng định trong lịch sử hàng nghìn năm qua cũng như
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều thể hiện lịch sử tính tích cực
chính trị của nông dân; chỉ rõ xu thế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đô thị hóa ở các quốc gia, đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, hướng tới
nông nghiệp công nghệ cao,.. việc chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các
ngành khác là một tất yếu, làm cho số lượng nông dân giảm, vai trò, vị trí của
nông dân sẽ có những thay đổi đáng kể, xuất hiện thêm nhiều vấn đề xã hội
như: Di cư, thiếu việc làm, phân hóa thu nhập, ô nhiễm môi trường,.. Đồng thời
các nghiên cứu đã chỉ rõ những mâu thuẫn, nghịch lý về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn Việt Nam hiện nay như: Mâu thuẫn giữa yêu cầu rất cao và cấp
bách của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với sự trì
trệ, thờ ơ của nông dân đang chiếm tỷ lệ cao trong lao động xã hội hiện nay;
mâu thuẫn giữa yêu cầu phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển
nông nghiệp, nông thôn với những bất cập của những thiết chế xã hội bảo đảm
tăng cường năng lực chủ thể của nông dân,..
5
Bên cạnh những thành tựu nghiên cứu đạt được, cho ta thấy còn thiếu các
nghiên cứu sâu về nông dân nói chung và nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ nói
riêng, nhất là chưa làm rõ được khái niệm tính tích cực chính trị của nông dân.
Thực tiễn đang đặt ra nhiều yêu cầu mới, cần nghiên cứu sâu sắc hơn về tính
tích cực chính trị của nông, làm cơ sở để xây dựng các giải pháp nâng cao tính
tích cực chính trị của nông nói chung và vùng duyên hải Bắc Bộ nói riêng, phục
vụ kịp thời sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Xây dựng khái niệm tính tích cực chính trị của nông dân, xác định những
yếu tố chủ yếu tác động đến tính tích cực chính trị của nông dân, lấy đó làm cơ
sở phân tích nguyên nhân, đề xuất các giải pháp nâng cao tính tích cực chính trị
của nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ Việt Nam hiện nay; xây dựng tiêu chí cơ
bản để đánh giá tính tích cực chính trị của nông dân; điều tra, khảo sát, đánh giá
thực trạng tính tích cực chính trị của nông dân trong đời sống chính trị vùng
duyên hải Bắc Bộ Việt Nam; đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
tính tích cực chính trị của nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ hiện nay.
Chƣơng 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ
CỦA NÔNG DÂN
2.1. KHÁI NIỆM TÍNH TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ CỦA NÔNG DÂN
2.1.1. Các khái niệm
2.1.1.1. Nông dân
Nông dân là người cư trú ở nông thôn, tham gia lao động sản xuất trong lĩnh
vực nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp) trực tiếp sử
dụng tư liệu sản xuất cơ bản gắn với đất, rừng và biển để sản xuất ra sản phẩm nông
nghiệp.
2.1.1.2. Tính tích cực
Về mặt thuật ngữ, theo tiếng Latinh, tích cực là “actives”, tiếng Anh là
“activity”, dùng để chỉ trạng thái hoạt động, khi tính tích cực gắn liền với hoạt
động, tính tích cực bao hàm tính chủ động, tính chủ định có ý thức của chủ thể.
Theo từ điển Tiếng Việt, tích cực là có ý nghĩa, có tác dụng khẳng định thúc
đẩy sự phát triển. Người tích cực là người tỏ ra chủ động có những hành động
nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển. Theo GS.TSKH Thái Duy Tiên,
tính tích cực biểu hiện sự nỗ lực của chủ thể khi tương tác với đối tượng trong
6
quá trình học tập, nghiên cứu,.. như vậy, tính tích cực là trạng thái chủ động và
có ý thức trong hoạt động của chủ thể nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát
triển.
2.1.1.3. Chính trị
Chính trị là một phạm trù rộng lớn, có tính bao quát của một loại hoạt động
phổ biến trong xã hội loài người, ra đời gắn liền với sự ra đời của giai cấp và nhà
nước. Có thể quan niệm: Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai
cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng
quyền lực nhà nước; là sự tham gia của người dân vào công việc của nhà nước và xã
hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, nhà nước,
tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa
mãn lợi ích.
2.1.1.4. Tính tích cực chính trị của nông dân
Tính tích cực chính trị của nông dân là khái niệm dùng để chỉ tính chất chủ
động, tự giác và có ý thức trách nhiệm của người nông dân nhằm tiến hành có hiệu
quả các hoạt động chính trị hợp hiến, hợp pháp trên địa bàn nông thôn, qua đó thực
hiện quyền và nghĩa vụ công dân, góp phần bảo đảm sự ổn định và phát triển của chế
độ chính trị, của đất nước
2.1.2. Đặc điểm tính tích cực chính trị của nông dân
2.1.2.1. Tính tích cực chính trị của nông dân mang tính giai cấp, tính lịch
sử
Tích tích cực chính trị của nông dân góp phần thực hiện mục tiêu của quá trình
chính trị vì sự phát triển của cá nhân, của cộng đồng, giai cấp, mang lý tưởng, niềm
tin, ý thức giai cấp, phục vụ lợi ích trực tiếp của giai cấp, vì vậy nó mang tính giai cấp
sâu sắc. Tính tích cực chính trị luôn gắn với các điều kiện lịch sử xác định, với mục
tiêu chính trị trước mắt và mục tiêu lâu dài, khi tình hình và điều kiện lịch sử thay đổi
thì nội dung, tính chất, hình thức tính tích cực chính trị cũng khác nhau. Tính tích cực
chính trị của nông dân mang yếu tố động, luôn biến đổi, nảy sinh, phát triển cùng với
giai cấp và nhà nước, chuyển hóa theo đời sống chính trị, theo yêu cầu, nhận thức và
trình độ của nông dân. Khi chế độ, thể chế chính trị thay đổi thì nội dung, tính chất,
hình thức tính tích cực chính trị cũng thay đổi.
2.1.2.2. Tính tích cực chính trị của nông dân vừa mang yếu tố tự thân của
người nông dân, vừa mang yếu tố cộng đồng
Tính tích cực chính trị là sự chủ động, tự giác, trách nhiệm của người nông dân
trong nhận thức và tiến hành hoạt động chính trị, đó là sự tự nguyện, nỗ lực tự thân
của người nông dân. Không thể áp đặt được việc chủ động, tự giác, áp đặt niềm tin,
7
lý tưởng chính trị đối với mọi người dân vì vậy cũng không thể áp đặt được tính tích
cực chính trị, chỉ có thể tác động vào các yếu tố, điều kiện hình thành để làm thay đổi
nó. Mặt khác, tính tích cực chính trị của nông dân còn mang tính cộng đồng dựa trên
khối cộng cư, cộng lợi, cộng cảm, cộng mệnh gắn bó truyền thống từ bao đời của
làng, xã.
2.1.2.3. Tính tích cực chính trị của nông dân có tính không loại trừ và tính
dùng chung
Tính tích cực chính trị của nông dân có tính không loại trừ và tính dùng chung,
nhất là lợi ích đem lại từ tính tích cực thì mọi người trong cộng đồng đều được hưởng
lợi mặc dù nhiều người không tích cực tham gia, không chi phí cho sự tham gia. Mặt
khác mọi nông dân đều có thể tham gia vào quá trình chính trị với các mức độ khác
nhau. Vì vậy, tính dùng chung và tính không thể loại trừ có thể dẫn tới tính phi hiệu
quả bởi các lý do như: Cá nhân tích cực thì phải chịu các chi phí cao về nguồn lực,
thời gian, trong khi kết quả đạt được thì mọi người cùng hưởng,.. dẫn tới tính cào
bằng, ỷ lại vào tập thể, vào cộng đồng.
2.1.3. Vai trò tính tích cực chính trị của nông dân
2.1.3.1. Hiện thực hóa vai trò làm chủ của nông dân trong đời sống chính trị
Tích cực chính trị của nông dân giúp cho người nông dân chủ động, hăng hái
tham gia vào đời sống chính trị, tham gia vào các hoạt động của nhà nước; nông dân
chủ động, tự giác tiếp cận các tri thức chính trị, chính sách pháp luật, từ đó ý thức được
vai trò chính trị của mình, ý thức được “quyền làm chủ” của mình và có điều kiện,
năng lực để tự mình thực hiện quyền làm chủ đó. Ngược lại, nếu nông dân trông chờ,
thụ động, không thể hiện được tiếng nói và hành động của mình, sẽ không thực hiện
được vai trò làm chủ, không hoàn thành vai trò chính trị của nông dân và giai cấp nông
dân.
2.1.3.2. Nâng cao vị thế chính trị của nông dân, giai cấp nông dân
Nông dân tích cực chính trị, nhờ đó tập hợp đông đảo nông dân thực hiện các
mục tiêu chính trị của giai cấp nông dân, tham gia mạnh mẽ vào đời sống chính trị,
người nông dân trưởng thành hơn về nhận thức và hành vi chính trị, tin tưởng hơn, tham
gia tích cực hơn vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; tiếng nói, hành
động của nông dân trong đời sống chính trị thể hiện rõ hơn và vị thế của giai cấp nông
dân được khẳng định. Ở nước ta, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức là nền tảng lãnh đạo xã hội, vị thế của giai cấp nông dân được nâng cao giúp cho
liên minh giai cấp bền chặt hơn và vị thế của liên minh giai cấp được nâng cao, là cơ sở
8
để phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội và hội nhập quốc tế.
2.1.3.3. Thúc đẩy quá trình nhận thức và điều chỉnh hành vi vì sự phát triển
của cá nhân và cộng đồng
Tính tích cực chính trị thúc đẩy chủ thể chính trị tự giác nhận thức toàn diện nội
dung, hình thức, mối quan hệ, tác động của quá trình chính trị đến đời sống chính trị,
nhờ đó giúp cho chủ thể có thêm hiểu biết và tri thức chính trị, biến các các tri thức
thành hành vi chính trị một cách tự giác, chủ động và được điều chỉnh vì lợi ích của cá
nhân và cộng động. Tính tích cực chính trị không dừng lại ở việc biến nhận thức thành
hành động tự giác, mà sau hành động chủ thể chính trị tiếp tục nhận thức lại hành
động, nhận thức kết quả đạt được và những thiếu sót, lệch lạc, đề xuất sáng tạo những
nội dung mới để thực hiện các quá trình chính trị với mục đích và hiệu quả cao hơn vì
sự phát triển của cá nhân và cộng đồng. Nhờ tự giác, chủ động thực hiện các quá
trình chính trị nhân văn, tiến bộ với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và
cộng đồng, giúp cho cá nhân trưởng thành từ nhận thức đến hành động, không chỉ
vì lợi ích của cá nhân mà còn gắn với lợi ích của cộng đồng, nhờ đó thúc đẩy cộng
đồng phát triển.
2.2. NỘI DUNG TÍNH TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ CỦA NÔNG DÂN
2.2.1. Cơ sở hình thành tính tích cực chính trị của nông dân
2.2.1.1. Kinh tế
Mối quan hệ giữa kinh tế và tính tích cực chính trị của nông dân thực chất
là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng. Với tư cách thuộc kiến trúc thường tầng thì tính tích cực
chính trị không thể tách rời cơ sở kinh tế của xã hội và cơ sở kinh tế quy định
mục đích, nội dung, tính chất của tính tích cực chính trị.
2.2.1.2. Chính trị
Để người nông dân tích cực tham gia công việc của nhà nước thì cơ chế hoạt
động của hệ thống chính trị phải là cơ sở, là điều kiện cho phép phát huy tính tích cực
chính trị, trong đó nổi bật là vai trò của hệ thống chính trị, của nhà nước với chế độ
dân chủ và pháp luật. Nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà chỉ có tâm thức
nông dân, tâm lý tiểu nông nên quan trọng là ý thức hệ của giai cấp cầm quyền phải
đủ sức để lôi cuốn nông dân thực hiện các mục tiêu chính trị.
Môi trường chính trị tác động trực tiếp và thường xuyên đối với nông dân là
môi trường chính trị nông thôn. Nếu môi trường chính trị lành mạnh, dân chủ, sôi
9
động sẽ kích thích, cuốn hút nông dân vào quá trình chính trị, phát huy tính tích cực
chính trị, ngược lại, nó sẽ kìm hãm, làm mất đi tính tích cực chính trị của người dân.
2.2.1.3. Văn hóa
Văn hóa tham gia vào việc kiến tạo nên con người, duy trì sự bền vững và
trật tự xã hội, văn hóa không đứng ngoài chính trị, luôn có mối quan hệ hữu cơ
với chính trị, văn hóa bồi đắp tình cảm chính trị, lý tưởng chính trị,.. Văn hóa
chính trị, văn hóa truyền thống đã tạo nên môi trường văn hóa tại cơ sở, là một
trong những cơ sở, điều kiện hình thành tính tích cực chính trị của nông dân.
Việc giáo dục, bồi dưỡng, kế thừa truyền thống dân tộc, tiếp thu những giá trị
văn hóa nhân loại có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành nên những giá trị
tinh thần, những chuẩn mực hành vi ứng xử, truyền thống yêu nước, tinh thần
tự tôn dân tộc, lòng nhân nghĩa, đoàn kết, vị tha,.. quy định thái độ, cách ứng xử
cho việc tham gia chính trị của nông dân.
2.2.1.4. Xã hội
Con người vừa là một thực thể sinh học vừa là một thực thể xã hội. Trong đời
sống xã hội các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng
đồng được hình thành và phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp hình thành nên tư
tưởng, tình cảm và nhân cách của con người. Ngoài những quan hệ xã hội, thì vấn đề
an sinh xã hội cũng là yếu tố quan trọng tác động đến tính tích cực chính trị của nông
dân. Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam được cấu thành gồm hai bộ phận chính là:
Bảo hiểm xã hội và Cứu trợ xã hội, đảm bảo nhu cầu thiết yếu cuộc sống của người
dân.
2.2.1.5. Bản thân người nông dân
Người nông dân vừa là những người lao động, vừa là những người tư hữu nhỏ,
thật thà, chất phác, cần cù và nhẫn nại, ăn mặc, sinh hoạt giản dị. Nông dân không có
hệ tư tưởng độc lập, tư tưởng của họ thường bị dao động và phụ thuộc rất lớn vào hệ
tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Nông dân sẵn sàng tin và đi theo giai cấp nào mang
lại lợi ích cho họ, tin vào hành động, vào kinh nghiệm thực tiễn và có tính cố kết
cộng đồng cao, trọng tình cảm, trọng danh dự, tuổi tác,.. Bên cạnh đó, những hạn chế
như tính bảo thủ, ích kỷ, cục bộ, trông chờ ỷ lại vào cộng đồng đã ảnh hưởng đến
việc hình thành, phát triển tính tích cực chính trị của nông dân.
2.2.2. Cấu trúc tính tích cực chính trị của nông dân
2.2.2.1. Động cơ chính trị
Được hình thành chủ yếu từ nhu cầu và lợi ích chính trị, từ mục đích, nội dung
của quá trình chính trị, người nông dân sẽ tìm thấy lợi ích, đó là những giá trị góp
10
phần vào thỏa mãn những nhu cầu về vật chất, tinh thần của nông dân mong muốn
đạt được. Sự phản ánh lợi ích trong ý thức sẽ biến thành động cơ thúc đẩy người
nông dân chủ động hành động để thỏa mãn nhu cầu.
2.2.2.2. Sự hiểu biết về chính trị
Nói về vai trò của học vấn đối với chính trị, V.I. Lênin nhận xét “Người
không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”. Không có hiểu biết chính trị thì khó
có thể đạt tới trình độ tự giác, tích cực tham gia hoạt động chính trị. Sự hiểu biết
chính trị không chỉ biểu hiện ở trình độ học vấn chính trị mà còn ở trình độ kinh
nghiệm, sự khôn ngoan, sự từng trải, sự nhạy bén, mẫn cảm,.. về chính trị được
tích lũy qua thực tiễn chính trị của chủ thể, giúp cho người nông dân nhận thức
được quá trình chính trị, mục đích và nội dung, phương thức của quá trình chính
trị,..
2.2.2.3. Niềm tin và ý thức chính trị
Niềm tin chính trị là sự tin tưởng về sự đúng đắn của một lý tưởng, mục tiêu
chính trị, tổ chức chính trị và được hình thành bằng những con đường khác nhau,
ở mỗi đối tượng cụ thể trong một không gian và thời gian, môi trường chính trị
nhất định. Người nông dân thể hiện niềm tin chính trị qua những phẩm chất, thái
độ đối với lý tưởng, chế độ chính trị, nhà nước, chính đảng, đối với các cơ quan
lãnh đạo, các nhà lãnh đạo,.. niềm tin chính trị sẽ góp phần tạo nên sức mạnh
chính trị, sự tự nguyện, ý chí, lòng trung thành cho tính tích cực chính trị. Ý thức
chính trị là sự quan tâm, ủng hộ, bảo vệ phấn đấu cho mục tiêu chính trị, là sự giác
ngộ và hành động chính trị trên cơ sở lý luận khoa học, đường lối, chủ trương, vì
vậy có vai trò to lớn trong nhận thức chính trị, lựa chọn và hành động chính trị có
hiệu quả.
2.2.2.4. Định hướng giá trị của cá nhân
Định hướng giá trị là sự đánh giá, sắp xếp, lựa chọn giá trị, có ý nghĩa
hướng dẫn, định hướng hoạt động của con người, hướng tới lẽ phải, cái hay, cái
đẹp, cái tiến bộ và con người không chỉ hiểu về các giá trị mà còn yêu thích, khát
khao, trân trọng giữ gìn, thực hiện các giá trị, vì vậy nó là cơ sở bên trong của
hành động, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, định hướng hành
động, cho phép con người thực hiện được các quyền và nghĩa vụ nhất là quyền
về chính trị của mình.
2.2.3. Phƣơng thức thể hiện tính tích cực chính trị của nông dân
Phương thức thể hiện tích cực chính trị phụ thuộc trước hết vào nội dung thực
hiện, vào môi trường dân chủ và pháp luật, vào sự phát triển của khoa học và công
nghệ, trình độ dân trí và hiểu biết về chính trị, pháp luật,..
11
2.2.3.1. Tiếp cận thông tin
Hiểu biết của nông dân về quá trình chính trị được thực hiện qua việc tiếp cận
thông tin. Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý về cung cấp thông tin, nông
dân chủ động, tự giác tiếp nhận thông tin, thực hiện tốt quyền được cung cấp thông
tin, tiếp cận các quá trình chính trị, tri thức chính trị. Việc tiếp cận thông tin của nông
dân hiện nay được thực hiện qua nhiều hình thức, qua quá trình học tập, qua các diễn
đàn hội nghị, qua các mô hình, phong trào phát triển kinh tế - xã hội, qua phương tiện
thông tin đại chúng,...
2.2.3.2. Tiến hành hoạt động chính trị
Được thể hiện qua nhiều hình thức, tập trung vào các hình thức chủ yếu là:
Qua “tiếng nói” của nông dân, qua thái độ, hành động, việc làm cụ thể và việc nêu
gương của nông dân, được đặt trong cộng đồng và các tổ chức hợp pháp của nông
dân.
2.3. TIÊU CHÍ CƠ BẢN ĐỂ ĐÁNH GIÁ TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ CỦA
NÔNG DÂN
2.3.1. Nội dung tiêu chí
Trong điều kiện môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển đảm bảo từ nhu
cầu tối thiểu của người dân, đời sống chính trị dân chủ, mục tiêu của quá trình chính trị
luôn hướng tới sự phát triển của người dân và cộng đồng, thì tính tích cực chính trị của
nông dân được đánh giá bằng 02 quá trình hoạt động (nhận thức và tiến hành hoạt
động chính trị), có thể đánh giá tính tích cực chính trị của nông dân qua 5 tiêu chí cơ
bản là: (1)-Hiểu biết về chính trị; (2)-Chủ động, tự giác và tinh thần trách nhiệm trong
hoạt động; (3)-Mục đích tiến hành hoạt động; (4)-Chấp hành pháp luật; (5)-Hiệu quả
tiến hành hoạt động. Đánh giá qua 05 mức là: Rất tích cực, tích cực, bình thường, tiêu
cực, rất tiêu cực. Trong đó tiêu chí về tích cực gồm: (1)-Có hiểu biết về chính trị; (2)Chủ động, tự giác và có tinh thần trách nhiệm trong hoạt động; (3)-Có mục đích xây
dựng; (4)-Đúng pháp luật; (5)-Có hiệu quả.
2.3.2. Hình thức đánh giá
Có nhiều hình thức đánh giá, nhưng hình thức phổ biến nhất là sử dụng bảng hỏi
cho từng hoạt động chính trị với các tiêu chí cụ thể, kết hợp với các báo cáo của các tổ
chức chính trị, xã hội đánh giá về hoạt động của nông dân. Kết quả đánh giá cộng
đồng, tập thể tham gia vào các quá trình chính trị được thể hiện qua tỷ lệ người dân
thực hiện các tiêu chí đánh giá. Cần lựa chọn những nội dung cụ thể để đánh giá về
quá trình hình thành hệ thống chính trị, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính
trị; hoạt động hoạch định và thực hiện các quyết định chính trị; kiểm tra, giám sát
12
hoạt động của hệ thống chính trị. Từ giới hạn nhiệm vụ nghiên cứu, Luận án tiến
hành khảo sát đánh giá với trọng tâm là thực hiện công tác bầu cử; thực hiện Pháp
lệnh số 34/ 2007/PL-UBTVQHK11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ( gọi
tắt là quy chế dân chủ ở cơ sở) trong xây dựng nông thôn mới.
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG TÍNH TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ CỦA NÔNG DÂN
VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của vùng duyên
hải Bắc Bộ tác động đến tính tích cực chính trị của nông dân
Vùng duyên hải Bắc Bộ có diện tích tự nhiên khoảng 12.005 km2, nằm chủ
yếu trong vùng đồng bằng sông Hồng, phía Bắc giáp Trung Quốc với đường biên
giới trên bộ dài 118,8 km, phía Đông giáp Biển Đông có đường biển dài gần 600 km,
có vị trí địa chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự và đối ngoại. Dân số vùng
duyên hải Bắc Bộ có 7.704467 người, trong đó nông thôn 5.391543 người (tỷ lệ
69,98%) với 1.111984 hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, song tình hình kinh tế
vùng duyên hải Bắc Bộ ổn định và phát triển khá, bình quân cao hơn cả nước, huy
động được nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, an sinh xã hội có nhiều chuyển biến
tốt, nhất là công tác giảm nghèo, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội, chương trình
xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống của nhân dân. Quốc phòng - an ninh
được củng cố, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm,
giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cơ bản để phát triển kinh
tế - xã hội.
Vùng duyên hải Bắc Bộ có 55 huyện, thị xã, thành phố (7 thành phố, 2 thị xã, 7
quận và 39 huyện) với 1069 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 826 xã, 194 phường và
49 thị trấn). Công tác xây dựng hệ thống chính trị được quan tâm, tổ chức và hoạt
động của chính quyền các cấp có nhiều đổi mới. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể được tăng cường qua việc đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
Quy chế giám sát và phản biện xã hội; tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền,..
13
3.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA NÔNG DÂN VÙNG DUYÊN HẢI
BẮC BỘ
- Nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ mang đậm đặc điểm của nông dân
vùng đồng bằng Bắc Bộ: Là lực lượng chiếm số đông trong xã hội và cơ cấu lao
động xã hội, luôn đoàn kết, có truyền thống cách mạng, gắn bó lâu đời với cội
nguồn của dân tộc Việt Nam, mang mối quan hệ Gia đình, họ hàng - Làng - Nước,
có lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tính cố kết cộng đồng cao; yêu lao động,
cần cù, vượt khó trong lao động; hiếu học; trọng người cao tuổi,.. Bên cạnh đó, nông
dân vùng duyên hải Bắc Bộ vẫn còn một số hạn chế, nhất là tâm lý tiểu nông, tư duy
manh mún; tâm lý hẹp hòi, cục bộ, tùy tiện, ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt.
- Nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ mang đặc điểm nông dân miền biển;
một bộ phận mang đặc điểm nông dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số: Với vị
trí địa lý nằm bên bờ vịnh Bắc bộ với 600 km đường biển, 3 đảo lớn,.. người
dân phải thích ứng với điều kiện tự nhiên, một bộ phận ngư dân vùng duyên hải
Bắc Bộ thường xuyên phải ra khơi đánh bắt hải sản, chống chọi với sóng to, gió
lớn (trong đó có trên 1500 tàu với công suất lớn, đánh bắt xa bờ), đã tạo cho
người dân môi trường gắn kết chặt chẽ, hỗ trợ nhau trong lúc khó khăn, gắn kết
cộng đồng rất cao, con người với tính cách “ăn to, nói lớn”, cởi mở, phóng
khoáng, thẳng thắn, quyết đoán, kiên cường nhưng cũng có tính ngang tàng,
liều lĩnh.
Nông dân miền núi tỉnh Ninh Bình và tỉnh Quảng Ninh và vùng biên giới tỉnh
Quảng Ninh chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số với các nét văn hóa đậm đà bản
sắc văn hóa dân tộc, luôn thật thà, chất phác, gắn kết với làng bản, thôn xóm để sản
xuất, sinh sống,.. Hiện nay dân trí còn thấp, còn nhiều người mù chữ, tỷ lệ qua đào
tạo nghề rất thấp, đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều khó khăn, một số tập quán
ăn ở, vệ sinh môi trường chưa tốt, ma chay, cưới xin nặng nề, tốn kém. Nhiều
nông dân còn trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước và sự hỗ trợ của
cộng đồng nên ý thức tự vươn lên, tiếp cận thị trường còn nhiều hạn chế.
- Một bộ phận nông dân đổi mới, năng động tiếp cận với thị trường: Từ những
điều kiện về địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội của Vùng, đã góp phần tạo cho nông dân
có tính cách cởi mở, thẳng thắn, quyết đoán, kiên cường và tính cộng đồng rất
cao. Mặt khác do yêu cầu về lao động, việc làm, về khai thác tài nguyên làm
cho nông dân “vượt ra khỏi lũy tre làng” đến với sự phát triển năng động của đô
thị, của các cửa khẩu biên giới, tích cực chuyển đổi nghề để có thu nhập cao
hơn,.. đã tạo nên sự đổi mới, năng động của nhiều nông dân vùng duyên hải
Bắc Bộ. Bên cạnh đó một bộ phận nông dân chạy theo các yếu tố tiêu cực của thị
14
trường, theo lợi ích cục bộ, quên đi trách nhiệm và lương tâm để sản xuất, trà trộn các
sản phẩm nông nghiệp kém chất lượng, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm;
một số tiêu tốn hết tiền bạc, ruộng đất, trở thành người đi làm thuê khắp nơi. Nhiều
gia đình nông dân làm ruộng theo phương thức “đi thuê”, thuê làm đất, thuê
gieo cấy, thuê làm cỏ, thuê thu hoạch nên thường bị thua lỗ.
- Nông dân có sự thay đổi nhanh về số lượng và chất lượng: Trước tác động
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường, nông dân đã và
đang có nhiều biến đổi không chỉ nhận thức, hành động mà còn thay đổi về số lượng
và chất lượng; gia đình nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ hầu hết đã chuyển từ mô
hình gia đình truyền thống với nhiều thế hệ cùng sinh sống sang gia đình hạt nhân 2
thế hệ (bố mẹ và con cái), phát triển năng động hơn. Do phân tầng về thu nhập, dẫn
đến xã hội nông thôn hiện nay có nhiều tầng lớp khác nhau. Lao động trẻ, có trình
độ rút khỏi nông nghiệp, ra thành phố tìm việc, làm cho nông nghiệp thiếu trầm
trọng lao động qua đào tạo, thiếu vắng các chuyên gia trẻ, để lại nông thôn chủ
yếu là người già, phụ nữ và trẻ em, làm “lão hóa” nông thôn và “phụ nữ hóa”
nông nghiệp.
3.3. THỰC TRẠNG TÍNH TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ CỦA NÔNG
DÂN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN
3.3.1. Thực trạng tính tích cực chính trị của nông dân vùng duyên hải
Bắc Bộ hiện nay
- Về nhận thức: Đông đảo nông dân đã có nhận thức cơ bản về quyền và nghĩa
vụ công dân, về nội dung, mục đích của quá trình chính trị, nhất là có nhận thức đúng
về công tác bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng nông
thôn mới, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,.. Tuy nhiên, hiểu biết về chính trị và
pháp luật của số đông nông dân còn hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ về trách
nhiệm chính trị trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; thiếu kiến
thức, thiếu kỹ năng hội nhập, nhất là thiếu hiểu biết về luật pháp quốc tế, kiến thức
ngoại ngữ hết sức hạn chế, thiếu thông tin thị trường và đối tác mình sẽ hợp tác,..
- Tính chủ động, tự giác và ý thức trách nhiệm trong hoạt động: Đa số
nông dân đoàn kết, tích cực và trách nhiệm tham gia xây dựng hệ thống chính
trị, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Bên
cạnh những kết quả đạt được, một bộ phận nông dân không tham gia các hoạt
động chính trị - xã hội, không sinh hoạt đoàn thể; tham gia kiểm tra, giám sát
hoạt động của chính quyền còn nhiều hạn chế; một bộ phận nông dân vẫn
trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng; việc tham gia xây dựng
và thực hiện chính sách về nông nghiệp rất hạn chế,..
15
- Về mục đích tiến hành các hoạt động chính trị: Đa số nông dân tham gia
hoạt động với tinh thần xây dựng, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh. Nhiều nông dân có động cơ, thái độ tốt khi
tham gia hoạt động đoàn thể chính trị - xã hội, tích cực tham gia vào các hoạt động
của làng xã, thôn xóm với tinh thần tự giác, ngày càng nhiều nông dân phấn đấu trở
thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, còn nhiều nông dân tham
gia các hoạt động chỉ vì lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ của dòng họ, thôn
xóm.
- Về chấp hành pháp luật: Đông đảo nông dân đã có ý thức chấp hành
pháp luật, thực hiện tốt các quy định về bầu cử, Quy chế dân chủ ở cơ sở, quy
ước khu dân cư,.. Quyền và nghĩa vụ công dân được thực hiện tốt hơn. Bên
cạnh những kết quả đạt được, tình trạng vi phạm đường lối đối ngoại và hội
nhập quốc tế còn xảy ra; việc chấp hành pháp luật còn nhiều hạn chế, tình
trạng khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp tiếp tục gia tăng, cá biệt còn
xảy ra việc chống người thi hành công vụ, gây rối an ninh trật tự,..Tình trạng vi
phạm Luật an toàn giao thông; buôn bán phụ nữ; tệ nạn cờ bạc, số đề, bảo kê, ma tuý
còn diễn biến phức tạp ở nông thôn.
- Về hiệu quả tiến hành các hoạt động chính trị: Nông dân tích cực tham
gia các hoạt động chính trị, đã góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức thành công cuộc bầu cử Đại biểu Quốc
hội và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ (2016 - 2021), xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ; dẫn
đầu cả nước về xây dựng nông thôn mới; vai trò và vị thế nông dân được nâng
lên, xuất hiện hàng nghìn tấm gương nông dân điển hình tiên tiến trong tham gia hoạt
động xã hội, trong sản xuất, kinh doanh giỏi, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám
làm, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất, hình thành các mô
hình liên kết kinh tế,.. Bên cạnh kết quả đạt được, hiệu quả hoạt động của nông dân
chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới, hội nhập quốc tế; nông dân
còn nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống; kết quả tham gia phản biện xã hội,
phản biện chính sách còn nhiều hạn chế,..
Qua 5 nội dung đánh giá, có thể khái quát tính tích cực chính trị của nông dân
vùng duyên hải Bắc Bộ với các kết quả đạt được và hạn chế sau:
Về kết quả đạt được: Một là, đông đảo nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ
tích cực chính trị, nhất là trong xây dựng nông thôn mới, phát huy dân chủ ở cơ sở,
bảo vệ an ninh trật tự,.. Hai là, không gian để nông dân tham gia, tiến hành hoạt
động chính trị ngày càng được mở rộng. Tiếng nói của nông dân trong đời sống
16
chính trị cơ sở được đề cao hơn, ngày càng nhiều nông dân quan tâm đến chính trị
và ý thức được trách nhiệm chính trị của mình. Ba là, tích cực chính trị của nông
dân vùng duyên hải Bắc Bộ đã khẳng định vai trò, tiếng nói của nông dân, góp phần
xây dựng đời sống chính trị cơ sở ổn định, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền đất nước.
Về hạn chế: Một là, tính tích cực của nhiều nông dân vùng duyên hải Bắc
Bộ vẫn đang ở mức thấp, chủ yếu dừng ở mức tham gia vào các hoạt động
gắn với lợi ích trực tiếp và trước mắt của nông dân, hiểu biết về chính trị,
pháp luật còn nhiều hạn chế; tính chủ động, tự giác chưa cao, người tham gia
hoạt động thôn, xóm nhưng chỉ dừng lại ở vai trò tham dự, rất ít trong vai trò
tuyên truyền, vận động và tổ chức thực hiện. Hai là, một bộ phận nông dân
chưa tích cực chính trị, thậm chí tiêu cực, gây cản trở cho quá trình chính trị. Ba là,
hiệu quả hoạt động chính trị của nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ chưa cao,
chưa tạo được phong trào rộng khắp, việc đề xuất và sáng tạo còn rất ít so với
tiềm năng, lợi thế và yêu cầu về sản xuất nông nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu
xây dựng nông thôn mới và hội nhập quốc tế đang đặt ra hiện nay.
3.3.1. Nguyên nhân của thực trạng tính tích cực chính trị của nông
dân vùng duyên hải Bắc Bộ hiện nay
- Nguyên nhân chủ yếu của ưu điểm: (1). Nguyên nhân về kinh tế: Tính dân
chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động kinh tế ngày càng được quan tâm, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. Xuất hiện nhiều mô
hình sản xuất nông nghiệp tập trung đem lại hiệu quả cao; (2). Nguyên nhân về chính
trị: Môi trường chính trị ổn định, dân chủ trong chính trị có bước tiến nổi bật, tiến
hành đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, qua đó dân
chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. (3). Nguyên
nhân về văn hóa, xã hội: Người dân đã quan tâm bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể, tổ chức tốt các lễ hội truyền thống hàng năm, trở thành
nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Phát huy tốt hơn quyền làm chủ của
nông dân trong đời sống xã hội. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” được tổ chức rộng khắp, mọi người, mọi nhà đều tham gia, nhờ đó đã tạo
được sức lan tỏa trong xã hội, thi đua xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa. Chính
sách an sinh xã hội được mở rộng, chăm lo, hỗ trợ kịp thời các đối tượng chính sách,
nông dân tham gia thảo luận và giám sát các dự án về an sinh xã hội, về xóa đói,
giảm nghèo, về hỗ trợ do thiên tai,.. (4) Về bản thân người nông dân: Đông đảo
17
nông dân có tinh thần đoàn kết, kiên cường, quyết đoán trong hoạt động;
nhiều nông dân có tinh thần hiếu học, đổi mới, lao động sáng tạo và hiệu quả
đã góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, chính trị - xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần.
- Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế: (1). Nguyên nhân về kinh tế:
Kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng, phân hóa giàu nghèo ngày càng
lớn, đời sống nông dân còn nhiều khó khăn. Chương trình xây dựng nông thôn mới
có biểu hiện nóng vội, chạy theo thành tích, nợ tiêu chí nông thôn mới hoặc đạt tiêu
chí một cách gò ép, nợ đọng kinh phí kéo dài. Mặt khác, trước tác động của kinh tế
thị trường và toàn cầu hóa, các khối cộng cư, cộng lợi, cộng cảm, cộng mệnh của
người nông dân trên nhiều thôn, xã đang bị rạn nứt và địa vị, vai trò kinh tế của nông
dân, nông thôn đang có biểu hiện giảm sút trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và đô thị hóa. (2). Nguyên nhân về chính trị: Đất nước ta đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế thời trong điều kiện nhiều khó khăn, điểm
xuất thấp, thiếu kinh nghiệm và kiến thức về hội nhập. Một số chính sách của Nhà
nước về phát triển kinh tế - xã hội nhất là đối với nông nghiệp, nông dân chưa phát
huy hết hiệu quả. Đặc biệt là tính chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp,
nông thôn tuy được ghi nhận về mặt quan điểm, chủ trương, nhưng chưa được thể
chế hóa bằng pháp luật nên còn nhiều bất cập trong thực hiện. Công tác tuyên truyền
giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa sâu rộng, chưa đủ
sức lan toả, thay đổi hành vi của người dân. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu
dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống, thoái hoá biến chất, tham
nhũng, làm ảnh hưởng đến lòng tin trong nhân dân. Chưa thật sự xây dựng được môi
trường công khai, minh bạch và thuận lợi để nông dân tham gia vào đời sống chính
trị, phát huy tính tích cực chính trị; chưa thực hiện tốt quyền được thông tin của
người dân, thông tin đến với người dân thường chậm và không đầy đủ. Hoạt động
của các tổ chức nông dân nhìn chung còn nhiều hạn chế. (3). Nguyên nhân về văn
hóa, xã hội: Những thói quen xấu như vô kỷ luật, luộm thuộm, tác phong nông
nghiệp,.. đang ảnh hưởng tới kết quả phát huy tính tích cực chính trị của nông dân.
Văn hóa chính trị và nhất là truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam chưa được phát
huy. (4) Về bản thân người nông dân: Còn nhiều nông dân chưa thích ứng kịp
với kinh tế thị trường, dân trí còn nhiều hạn chế, hiểu biết và ý thức chấp hành
pháp luật thấp; một bộ phận nông dân vẫn mang tư tưởng tiểu nông, dòng họ,
cục bộ địa phương, bè phái, bảo thủ, thói quen vô kỷ luật,.. tính ngang tàng, liều
lĩnh trong một bộ phận nông dân chậm được khắc phục kịp thời.
18
3.4. DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG
TÍNH TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ CỦA NÔNG DÂN VÙNG DUYÊN HẢI
BẮC BỘ HIỆN NAY
- Một số dự báo tình hình thế giới và trong nước: Trong những năm tới,
tình hình thế giới còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, tranh chấp lãnh thổ, chủ
quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức
tạp. Trong nước, sức mạnh tổng hợp của đất nước ta tăng lên, uy tín trên trường quốc
tế ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời gian tới tham gia các hiệp định thương mại tự do
thế giới mới, hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, đặt ra thách thức rất gay gắt cho nông
nghiệp, nông dân và nông thôn.
Vùng duyên hải Bắc Bộ tiếp tục phát triển năng động, song phải khắc phục
nhiều khó khăn về tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao; giải
quyết vấn đề môi trường sống; đảm bảo an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo; bảo về độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ khu vực biên giới,.. Nông dân
tiếp tục có những biến đổi nhanh chóng về số lượng và cơ cấu lao động, tính thuần
túy trong sản xuất nông nghiệp của nông dân giảm dần. Mặc dù có nhiều biến
đổi, phát triển nhưng nông dân vẫn chịu sự chi phối của truyền thống làng xã,
quan hệ dòng tộc, tư tưởng cục bộ, bình quân chủ nghĩa, phong cách làm việc
thủ công, nặng về kinh nghiệm .
- Một số vấn đề đặt ra trong tính tích cực chính trị của nông dân vùng
duyên hải Bắc Bộ hiện nay: Một là, cần tập trung giải quyết mâu thuẫn giữa yêu
cầu về tích cực chính trị rất cao và cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế với sự trì trệ, thờ ơ của nông dân đang chiếm tỷ lệ cao
trong lao động xã hội hiện nay; mâu thuẫn giữa phát huy tính tích cực chính trị của
nông dân trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với những bất cập
của những thiết chế xã hội bảo đảm cho nông dân phát huy tính tích cực chính trị.
Hai là, tiếp tục nâng cao tính tích cực chính trị, khắc phục tình trạng người
nông dân chỉ dừng ở việc quan tâm đến chính trị hoặc chỉ tích cực tham gia một
số hoạt động chính trị gắn với lợi ích trực tiếp của mình. Ba là, xác định và
xây dựng động lực tính tích cực chính trị của nông dân vùng duyên hải Bắc Bộ
hiện nay. Bốn là, đề xuất xây dựng cơ chế, mô hình nào cho phát huy tính tích
cực chính trị của nông dân hiện nay.
- Xem thêm -