ĐỀ TÀI: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
B2C CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
I) Giới thiệu về B2C
B2C là gì?
B2C là các giao dịch kinh doanh trực tiếp giữa nhà cung cấp và
khách hàng thông qua mạng Internet. Giao dịch loại này còn được
gọi là giao dịch thị trường giúp doanh nghiệp tiếp cận với người
tiêu dùng để từ đó chào bán các sản phẩm hoặc dịch vụ của họ cho
khách hàng. Khi nói tới thương mại điện tử B2C, mọi người
thường nghĩ đến Amazon.com, một công ty bán sách trực tuyến
trên mạng đã thành công nhờ biết sử dụng công cụ Internet. Tuy
nhiên, ngoài việc bán lẻ trên mạng, B2C đã phát triển cả các dịch
vụ như ngân hàng trực tuyến, dịch vụ du lịch trực tuyến, đấu giá
trực tuyến, thông tin về sức khoẻ và bất động sản…
II)Tình hình phát triển B2C trên thế giới
1) Tình hình phát triển B2C trên thế giới
Theo báo cáo thương mại điện tử 2005 của UNCTAD, tốc độ tăng
trưởng về số lượng người sử dụng Internet toàn cầu là 15,1%, thấp
hơn so với 2 năm trước đó (26%). Tuy số người sử dụng Internet
ngày càng tăng nhanh ở Châu Phi (56%), Đông Nam á và SNG
(74%) nhưng nhìn chung khoảng cách giữa các nước phát triển và
đang phát triển vẫn rất lớn (chỉ 1,1% người dân Châu Phi truy cập
được Internet năm 2003 so với 55,7% của dân cư Bắc Mỹ).
Nhằm tận dụng triệt để tính năng của Internet, người sử dụng
không chỉ cần có kết nối mà họ còn cần kết nối nhanh với chất
lượng tốt. Trong một số ứng dụng kinh doanh điện tử, băng thông
rộng đã trở thành một điều kiện không thể thiếu. Nếu các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở các nước đang phát triển không thể truy cập
Internet băng rộng, họ khó có thể triển khai các chiến lược ICT
nhằm cải thiện năng suất lao động trong những mảng tìm kiếm và
duy trì khách hàng, kho vận và quản lý hàng tồn. Hiện nay, Mỹ
chiếm hơn 80% tỷ lệ TMĐT toàn cầu, và tuy dung lượng này sẽ
giảm dần, song Mỹ vẫn có khả năng lớn cho việc chiếm tới trên
70% tỷ lệ TMĐT toàn cầu trong 10-15 năm tới. Mặc dù một số
nước châu Á như Singapore và Hong Kong (Trung Quốc) đã phát
triển rất nhanh và rất hiệu quả, thương mại điện tử tử các nước
khác ở châu lục này đều còn phát triển chậm.
Thương mại điện tử không chỉ giải quyết những yêu cầu thiết
yếu, cấp bách trên các lĩnh vực như hệ thống giao dịch hàng hoá,
điện tử hoá tiền tệ và phương án an toàn thông tin..., mà hoạt động
thực tế của nó còn tạo ra những hiệu quả và lợi ích mà mô hình
phát triển của thương mại truyền thống không thể sánh kịp (ví dụ,
trường hợp hiệu sách Amazon, trang web đấu giá eBay). Chính vì
tiềm lực hết sức to lớn của thương mại điện tử nên chính phủ các
nước đều hết sức chú trọng vấn đề này. Nhiều nước đang có chính
sách và kế hoạch hành động để đẩy mạnh sự phát triển của thương
mại điện tử ở nước mình, nhằm nắm bắt cơ hội của tiến bộ công
nghệ thông tin nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của đất nước, giành lấy vị trí thuận lợi trong xã
hội thông tin tương lai.
Với phương thức B2C, loại hình bán lẻ tổng hợp (siêu thị thương
mại điện tử) dù chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số cửa hàng bán
lẻ trực tuyến nhưng lại nắm giữ phần lớn giá trị giao dịch B2C trên
thị trường ảo. Việc kết hợp cửa hàng bán lẻ trực tuyến với các
kênh phân phối truyền thống hiện vẫn là phương thức được nhiều
nhà kinh doanh lựa chọn.
Ở nước Mỹ, Các "Thương mại điện tử B2C ở Mỹ", báo cáo theo
dõi các xu hướng như di chuyển đối phó trực tuyến từ sức mạnh
đến sức mạnh. Với trường hợp ít hơn của những trang web bị rơi
và hàng hóa đến cuối năm, các nhà bán lẻ đã có thể thay đổi quan
điểm của họ từ các vấn đề kỹ thuật và hoạt động cho kinh doanh
của các tinh chỉnh thiết kế trang web và cải thiện dịch vụ khách
hàng.
Trong vài năm trước đây, các nhà bán lẻ thương mại điện tử B2C
đã được cải thiện dịch vụ của họ trong một số cách. Khách hàng
bây giờ có thể trả lại hoặc nhận hàng hóa mua trực tuyến tại một
cửa hàng gạch-và-vữa. công nghệ mới và các giao diện giúp người
tiêu dùng đánh giá sản phẩm tốt hơn - đó là gần giống như đi dạo
ảo trong một siêu thị.
Với giao dịch trên Internet trở nên dễ dàng và thuận tiện và tương
đối an toàn hơn, nó không tự hỏi rằng thương mại điện tử B2C là
rất phổ biến ngày hôm nay.
Quy mô thị trường và tăng trưởng của thương mại điện tử B2C
Các Bộ Thương mại Mỹ (DOC) ước tính rằng Hoa Kỳ thương mại
điện tử B2C doanh số bán lẻ kết thúc vào năm 2003 đã được hơn
56 tỷ$, so với một ít hơn 44 tỷ $ năm 2002.
Sau đây là website http://www.amazon.com/ là một công ty
thương mại điện tử đa quốc gia đóng tại Hoa Kỳ. Trụ sở chính tại
thành phố Seattle, bang Washington, đây là nhà bán lẻ trực tuyến
lớn nhất Hoa Kỳ, với doanh số bán hàng trên mạng internet gấp
gần ba lần so với doanh thu của hãng xếp hạng nhì trong cùng lĩnh
vực Staples, Inc tại thời điểm tháng 1 năm 2010. Jeff Bezos đã
thành lập Amazon.com, Inc vào năm 1994 và đưa nó trực tuyến
trong năm 1995. Công ty này ban đầu được đặt tên là Cadabra, Inc,
nhưng tên này đã được thay đổi khi người ta phát hiện ra rằng đôi
khi mọi người nghe tên là "Cadaver" ("tử thi"). Tên gọi
Amazon.com tên được chọn vì song là con sông lớn nhất trên thế
giới, và vì vậy tên gợi lên quy mô lớn, và cũng một phần vì nó bắt
đầu bằng 'A' và do đó sẽ hiện lên gần đầu danh sách chữ cái.
Amazon.com bắt đầu như là một hiệu sách trực tuyến, nhưng
nhanh chóng đã đa dạng hoá lĩnh vực bán lẻ của mình, bán cả
DVD, CD, tải nhạc MP3, phần mềm máy tính, trò chơi video, hàng
điện tử, hàng may mặc, đồ gỗ, thực phẩm, và đồ chơi. Amazon đã
thành lập trang web riêng biệt tại Canada, Vương quốc Anh, Đức,
Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc. Nó cũng cung cấp vận chuyển
quốc tế với các nước nhất định cho một số sản phẩm của mình.
Một điều tra năm 2009 cho thấy rằng là trang mạng âm nhạc, nhà
bán lẻ video của Anh quốc, và nhà bán lẻ tổng thể thứ ba tại Anh
quốc. Amazon, một trong những trang web thương mại điện tử
hàng đầu thế giới trong năm ngoái vẫn làm ăn phát đạt bất chấp
suy thoái kinh tế toàn cầu. Lợi nhuận trong 3 tháng cuối năm 2008
của hãng đạt 225 triệu USD. Để so sánh, lợi nhuận cùng kỳ năm
2007 chỉ đạt 207 triệu USD. Doanh thu cũng tăng tương ứng 18%
lên 6,7 tỷ USD. Điều này cho thấy sự ưa chuộng mua sắm
trên Internet tại Mỹ.
Website: http://www.ebay.com/
Cái tên eBay đang ngày càng trở nên phổ biến đối với hầu hết
tất cả mọi người. Nó được người ta sử dụng như một động từ
về việc đem rao bán hàng trên mạng. Bây giờ người ta sẽ chẳng
ngạc nhiên khi nghe ai đó nói:”Tôi chán cái xe ô tô này lắm rồi,
đã tới lúc eBay (rao bán trên trang web eBay) nó rồi đây”.
Với một công ty chỉ mới thành lập từ năm 1995 như eBay thì đây
quả thực là một kỳ tích. Thật vậy, có thể thấy Coca-Cola hay Pepsi
- để có thể trở thành thương hiệu nổi tiếng như hiện nay, phải mất
một thời gian dài hơn eBay rất rất nhiều. Có lẽ do xã hội ngày càng
“số hóa”, khi mà tốc độ của việc truyền miệng chậm hơn tốc độ
máy tính đã giúp eBay nhanh chóng trở thành cái tên được người
ta nhắc tới hàng ngày.
Ngay cả vào thời buổi suy thoái kinh tế như hiện nay, lợi nhuận
của công ty vẫn tiếp tục gia tăng, và giá cổ phiếu thì vẫn ở mức cao
(khoảng 70 đôla Mỹ một cổ phiếu) trong khi các công ty dotcom
khác đang cố gắng đấu tranh tồn tại để khỏi bị loại ra khỏi cuộc
chơi
eBay có một lịch sử với các câu chuyện cực kì ấn tượng, như một
người mua gần như cả thị trấn Briggeville, California thông qua
eBay với giá khoảng 1.8 triệu đôla Mỹ. Hay như một gia đình tự
bán đấu giá mình trên eBay với mức giá khởi điểm là 5 triệu đô.
Rồi một người đàn ông ở Seatle đã tìm cách để có thể rao bán linh
hồn của mình. Hay như Levis mua lại chiếc quần Jean được sản
xuất năm 1980 của họ với giá là 46.532 đôla Mỹ; mô người ở
Minnesota bán ngôi nhà thời thơ ấu của mình với giá là 94600 đô.
Rồi chuyện một người lừa nửa triệu đô trên eBay bị bắt ở Kansa;
hay chuyện bán đấu giá một chiếc bánh hamburger ăn dở của một
ngôi sao ca nhạc nổi tiếng với giá khởi điểm 1đôla tới giá cuối là
hàng chục ngàn đôla Mỹ v.v…
Khách hàng của eBay vẫn đang tiếp tục gia tăng và theo thống kê
thì đầu tháng 1 năm 2003, eBay có 61.7 triệu người đăng ký thành
viên.
Trang web eBay bao gồm hệ thống trả lời cho phép khách hàng gửi
những ý kiến xấu, tốt sau khi mua bán; điều này giúp khách hàng
có những kinh nghiệm trong việc mua bán trên mạng. Có người đã
tự tạo trang Web eBayersthatsuck.com - nơi mà người mua lẫn
người bán đã từng bị lừa có thể kể những câu chuyện của mình để
cho người khác rút kinh nghiệm.
Trong khi những công ty dot.com như uBid.com (đang tìm cách
sống còn), Yahoo! Aution (chỉ là một phần nhỏ trong toàn thể công
việc kinh doanh Yahoo), đang cố gắng tồn tại trong thời buổi cạnh
tranh, thì eBay vẫn là 1 trang web khổng lồ về việc bán đấu giá
trên mạng. Tại sao như vậy chứ? Có lẽ bởi vì eBay là công ty đầu
tiên đưa ra ý tưởng này trên mạng.
Trước đây, người ta thường chỉ bán đấu giá các món hàng cao cấp,
đắt tiền; nó không được áp dụng cho các món hàng bình thường
như chiếc áo khoác, ôtô hay bộ sưu tập cúc áo. Thế nhưng trên
eBay, bạn có thể bán đấu giá bất cứ thứ gì với điều kiện bạn là
thành viên của trang eBay. Người tiêu dùng thích trang web này
bởi vì nó kết hợp cả những đặc tính của việc đầu giá truyền thống
với cả một thế giới của hàng chợ trời.
Nếu bạn là người có thể bỏ ra hàng triệu đô để mua 1 bức tranh
quý, hay như món đồ trang sức, những bộ sưu tập các loại, eBay sẽ
chỉ đường dẫn lối cho bạn tìm đúng địa chỉ mà bạn cần.
Không đối thủ cạnh tranh, và mức tăng trưởng lợi nhuận làm kinh
ngạc tất cả mọi người (87 triệu đô năm 2002 so với 25.9 triệu đô
năm 2001), nhưng một câu hỏi người ta đang đặt ra là liệu trong
tương lai, eBay có còn phát triển mạnh như thế nữa không?
eBay cũng từng bị chỉ trích khi trang web ngưng họat động trong
vài tiếng đồng hồ, làm gián đoạn hàng ngàn cuộc đấu giá. Rất
nhiều các công ty kinh doanh nhỏ hoạt động dựa vào eBay đã rất
tức giận vì điều này. Tuy nhiên gần đây việc này hầu như không
còn xảy ra nữa, nhưng đó cũng là một trong những yếu tố có thể
làm giảm uy tín của thương hiệu. Một khi công ty vẫn còn là một
trong những công ty hàng đầu thì các vấn đề về công nghệ thông
tin hay việc ngưng hoạt động của trang web cần được làm giảm tới
mức tối thiểu có thể.
Khi Internet càng ngày càng phát triển và eBay đang chuẩn bị kỷ
niệm 10 năm thành lập (Omidyar gọi trang web này là
AuctionWeb – auction: bán đấu giá, khi bắt đầu đưa vào hoạt động
năm 1995 và đổi tên thành eBay năm 1997) thì có vẻ như cách duy
nhất làm cho thương hiệu eBay thất bại là sự quản lý sai lầm. Điều
này hoàn toàn có thể xảy ra, tuy nhiên vào lúc này thì đó là điều
không thể đối với eBay.
Và theo dự đoán thì eBay vẫn sẽ thương hiệu số một về việc bán
đấu giá trên Internet trong tương lai.
2) Tương lai và tiềm năng của thương mại điện tử B2C
Có rất nhiều phòng để bán hàng trực tuyến bán lẻ để phát triển,
xem xét rằng họ chỉ chiếm 1,6% tổng doanh số bán lẻ vào năm
2003. Bán lẻ trực tuyến đã được ổn định tăng thị phần của chiếc
bánh đi lại cho doanh thu năm 2000, khi nó đại diện 0,9% tổng
doanh số bán lẻ. Không có gì để cho biết xu hướng này sẽ không
tiếp tục.
Các chuyên gia dự đoán rằng doanh số bán lẻ trực tuyến như là
một tỷ lệ phần trăm của tổng doanh số bán lẻ sẽ tăng lên khoảng
3% vào năm 2007. Nếu tuyến du lịch giải trí bán hàng mà không
phải là một phần của doanh số bán lẻ của tổng DOC, đã được bao
gồm, sau đó điều này dự báo tỷ lệ phần trăm của tổng doanh số bán
hàng trực tuyến để bán lẻ sẽ tăng lên 4.4%
Ngày hôm nay không phải là khi là người mua sắm di chuyển
nhiều hơn và nhiều hơn nữa liền mạch từ các diễn đàn trực tuyến
để kiểm tra một sự mua hàng và thực hiện một giao dịch, chúng tôi
sẽ ngừng phân biệt giữa hai. B2C doanh nghiệp sẽ phải thực sự ở
đây khi nó được xem như là một kênh khác chỉ bán lẻ và không
phải là một môi trường duy nhất.
Có một số trang web phát triển và tích hợp giải pháp lưu trữ mà
thực sự làm cho lưu trữ đơn giản cho những người thách thức công
nghệ.
III).Tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
1) Tình hình phát triển TMĐT ở Việt Nam
Ngày 19/11/1997 là ngày đầu tiên đánh dấu sự hoạt động của
Internet tại Việt nam. Đến nay, cả nước có 4,3 triệu thuê bao
Internet quy đổi, đáp ứng nhu cầu của 15,5 triệu dân, đạt mật độ
18,64 người/100 dân, cao hơn bình quân khu vực ASEAN và thế
giới; vượt xa Thái Lan (15,65%), Trung Quốc (9,41%),
Philippinnes (9,12%),... Nguyên Bộ trưởng Bộ BCVT Đỗ Trung
Tá đã phát biểu tại Lễ kỷ niệm 10 năm Internet Việt Nam rằng
“đến năm 2020, mức độ sử dụng Internet của Việt Nam sẽ đạt trình
độ của các nước phát triển”.
Với tốc độ tăng trưởng tỷ lệ người sử dụng Internet là
123,4%/năm (cao nhất trong khu vực ASEAN), đạt 1,9 triệu thuê
bao Internet và gần 5,9 triệu người trong năm 2004, Việt Nam là
quốc gia được đánh giá là có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển
TMĐT. Theo dự báo về mức tăng trưởng thị trường CNTT Việt
Nam của IDG, trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2008, mức chi cho
CNTT của Việt Nam nằm trong tốp 10 nước đứng đầu thế giới và
sẽ vượt qua Trung Quốc với tỷ lệ tăng trưởng đạt 16%. Việt Nam
cũng được đánh giá là quốc gia rất nhanh nhạy với mô hình kinh
doanh trực tuyến.
Tuy nhiên, hoạt động TMĐT ở Việt Nam vẫn còn chưa được
như mong muốn. Hầu hết các website B2B chưa có định hướng
hoạt động rõ ràng, mà chúng ta chủ yếu mới chỉ dừng lại ở giai
đoạn thiết lập và thử nghiệm, giá trị giao dịch thực tế còn chưa
cao. Loại giao dịch B2B chưa thật sự hình thành ở Việt Nam, mới
chỉ dừng lại ở mức tìm thông tin thị trường, bán hàng qua thư điện
tử và các website TMĐT. Các hệ thống mua bán trực tuyến giữa
các doanh nghiệp lớn với nhau hầu như chưa tồn tại. Các công ty
nói chung khá nhanh nhạy trong việc áp dụng TMĐT, nhưng còn
không ít các công ty đến với hình thức này theo kiểu “phong trào”,
chưa kể số lượng các website cung cấp dịch vụ TMĐT quy mô lớn
chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Trong khi đó, việc mua bán trực
tuyến B2C và C2C tại Việt Nam chưa phổ biến và cũng chưa có
doanh nghiệp nào cung cấp hoàn chỉnh các công đoạn của một chu
trình mua bán trực tuyến
Số liệu thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam cho thấy,
hiện tại có 15 triệu người Việt Nam sử dụng Internet và trong 3
năm tới số người sử dụng Internet ở Việt Nam khoảng 30 triệu
người. Thị trường rộng lớn đó cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế
sẽ là tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT trong những
năm sắp tới. Tuy nhiên, theo điều tra của Bộ Công Thương lần gần
đây nhất với 1.000 doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp có
website chiếm 20-25%, nhưng tính năng TMĐT trong các website
này còn mờ nhạt. Chức năng website chủ yếu là giới thiệu về công
ty, chiếm 93,8%, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ chiếm 62,5%, trong
khi tính năng giao dịch TMĐT cho phép đặt hàng chỉ chiếm
27,4%, hoạt động thanh toán trực tuyến chỉ có 3,2%.
Hoạt động TMĐT mới chỉ manh nha ở các doanh nghiệp lớn,
đại đa số các doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam vẫn đang nằm ngoài
guồng quay của phương thức kinh doanh hiện đại này. Theo ông
Miguel Pardo de Zela – Tham tán thương mại, Đại sứ quán Mỹ:
“TMĐT là tạo ra, thực hiện các giao dịch buôn bán qua Internet
chứ không phải tạo ra những điều kiện để mua bán trên Internet.
Mạng Internet được sử dụng cho rất nhiều mục đích khác nhau, tạo
ra các điều kiện mua bán. Tuy nhiên ở Việt Nam điều này mới
đang ở bước khởi đầu. Có rất ít lĩnh vực mà người ta có thể thực sự
thực hiện việc mua bán trên Internet”. Một hệ thống bán hàng trực
tuyến hoàn chỉnh phải đảm bảo yêu cầu: thay vì đến cơ sở của
người bán, người mua có thể thực hiện tất cả các công đoạn của
việc mua hàng chỉ thông qua Internet. Nghĩa là người mua có thể
thực hiện việc xem hàng, đặt hàng, thanh toán, nhận hàng, thụ
hưởng các dịch vụ sau bán hàng thông qua mạng Internet. TMĐT
ở Việt Nam hiện nay thực chất chỉ gồm việc thiết lập một
“showroom trên mạng” để giới thiệu về doanh nghiệp và trưng bày
các thông tin cần thiết liên quan đến hàng hóa, dịch vụ. Một số
website thiết lập cơ chế để người tiêu dùng có thể đặt hàng thông
qua email hoặc gọi điện thoại đến nhà cung cấp. Sau đó nhà cung
cấp sẽ vận chuyển hàng hóa đến tận tay người mua hàng và sẽ tiến
hành thanh toán. Nhưng việc mua bán hiện nay chỉ thể hiện ở giai
đoạn xem hàng và đặt hàng, còn các công đoạn khác vẫn tiến hành
theo cách thức thương mại truyền thống.
Trong bối cảnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, TMĐT là
công cụ thiết yếu trong việc giảm chi phí giao dịch, tiết kiệm thời
gian, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, cũng
như đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực và tốc độ tham gia thị
trường chung. Vì vậy, việc xác định những chính sách, giải pháp,
điều kiện cần thiết cho phát triển TMĐT, tìm ra những mô hình
thích hợp cho TMĐT tại Việt Nam đang trở nên cấp thiết. Hơn
nữa, việc nâng cao nhận thức của xã hội, khuyến khích ứng dụng
và tăng cường hợp tác giữa khu vực này đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển chung. Ông Lê Xuân Vũ - Giám đốc Trung tâm
Ứng dụng & Phát triển Sản phẩm Dịch vụ - Công nghệ
Techcombank cho biết: “Các ngân hàng đã nhận thức rất rõ vai trò
và xu thế phát triển TMĐT. Ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu của
khách hàng và cộng đồng nhà cung ứng đã bắt buộc các ngân hàng
phải nhập cuộc. Phương thức kinh doanh truyền thống sẽ giảm
dần, thay vào đó là phương thức kinh doanh mới dựa trên nền tảng
công nghệ giúp chúng ta đưa ra nhiều sản phẩm đến khách hàng
hơn một cách thuận tiện hơn. Vì thế, tận dụng những thế mạnh
công nghệ để giảm chi phí hoạt động là xu thế tất yếu”.
Trước nhu cầu và sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT đòi hỏi có
một cơ quan thống nhất quản lý về hoạt động này, Vụ Thương mại
Điện tử trực thuộc Bộ Công thương đã được thành lập với chức
năng quản lý nhà nước về lĩnh vực TMĐT, tổ chức ứng dụng và
phát triển CNTT phục vụ công tác quản lý nhà nước về thương
mại. Trong thời gian qua, Bộ Công thương đã tích cực chủ trì hoặc
tham gia nghiên cứu, xây dựng các chiến lược, kế hoạch, dự án
phát triển, cơ chế, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật, tiêu
chuẩn về TMĐT. Bộ đã có nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ doanh
nghiệp đẩy mạnh ứng dụng TMĐT, trong đó có việc đưa hoạt động
Cổng Thương mại Điện tử Quốc gia www.ecvn.gov.vn. Bộ Công
thương đã phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức tuyên
truyền, phổ biến pháp luật, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn về
TMĐT. Bên cạnh đó, Bộ Công thương (Vụ Thương mại Điện tử)
cũng là cơ quan đầu mối trong các hướng dẫn hợp tác quốc tế về
TMĐT.
Nguồn: Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia
2) Tình hình phát triển thương mại điện tử B2C ở Việt Nam
Khi việc kết nối hệ thống giữa các đối tác chiến lược để tiến hành
trao đổi dữ liệu điện tử trực tiếp ở Việt Nam hiện còn chưa phát
triển, thì các website là kênh phổ biến nhất để doanh nghiệp quảng
bá sản phẩm, xúc tiến dịch vụ và tiến hành giao dịch thương mại
điện tử cả theo hình thức B2B lẫn B2C. Do vậy, nếu một doanh
nghiệp xây dựng và duy trì được một website hiệu quả để phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, điều này đã nói
lên một trình độ nhất định về triển khai ứng dụng thương mại điện
tử trong doanh nghiệp đó.
Hàng năm, Vụ Thương mại điện tử – Bộ Thương mại đều tiến
hành các hoạt động điều tra, đánh giá hiện trạng hoạt động thương
mại điện tử ở Việt Nam, đặc biệt là tình hình ứng dụng thương mại
điện tử ở của các doanh nghiệp. Theo Báo cáo thương mại điện tử
năm 2005, trong tổng số 504 doanh nghiệp được khảo
sát thì có 46,2% doanh nghiệp đã thiết lập website. Tuy nhiên hầu
hết các doanh nghiệp được khảo sát đều tập trung ở những thành
phố hoặc khu công nghiệp trọng điểm của các tỉnh, nơi hạ tầng
công nghệ thông tin và truyền thông tương đối tốt. Chiếm phần lớn
(68,7%) trong những doanh nghiệp đã thiết lập website là các
doanh nghiệp kinh doanh thương mại - dịch vụ. Số website của
doanh nghiệp sản xuất mặc dù còn chiếm một tỷ lệ khiêm tốn
nhưng cũng đã nói lên sự quan tâm nhất định của những doanh
nghiệp này đối với việc ứng dụng thương mại điện tử để tiếp thị
cho sản phẩm của mình. Tính gộp cả khối doanh nghiệp sản xuất
và doanh nghiệp thương mại - dịch vụ, số lượng sản phẩm được
giới thiệu trên các website cũng rất đa dạng.
Nhìn vào cơ cấu hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu trên các website
doanh nghiệp, có thể thấy nhóm hàng hóa phổ biến nhất hiện nay
vẫn là thiết bị điện tử - viễn thông và hàng tiêu dùng. Do đặc thù
của mặt hàng điện tử - viễn thông và đồ điện gia dụng là mức độ
tiêu chuẩn hóa cao, với những thông số kỹ thuật cho phép người
mua đánh giá và so sánh các sản phẩm mà không cần phải giám
định trực quan, nhóm hàng này sẽ tiếp tục chiếm ưu thế khi thâm
nhập các kênh tiếp thị trực tuyến trong vòng vài năm tới. Về lĩnh
vực dịch vụ, dẫn đầu về mức độ ứng dụng thương mại điện tử hiện
nay là các công ty du lịch, điều này cũng phù hợp với tính chất hội
nhập cao và phạm vi thị trường mang tính quốc tế của dịch vụ này.
So với năm 2004, năm 2005 có một loại hình dịch vụ mới nổi lên
như lĩnh vực ứng dụng mạnh thương mại điện tử là dịch vụ vận tải
giao nhận, với rất nhiều website công phu và có nhiều tính năng
tương tác với khách hàng.
Có tới 87,6% số doanh nghiệp có website cho biết đối tượng họ
hướng tới khi thiết lập website là các tổ chức và doanh nghiệp
khác, trong khi 65,7% doanh nghiệp chú trọng tới đối tượng người
tiêu dùng. Như vậy, phương thức giao dịch B2B sẽ là lựa chọn
chiếm ưu thế đối với doanh nghiệp khi triển khai ứng dụng thương
mại điện tử một cách chuyên nghiệp hơn trong tương lai.
Một trong những tiêu chí giúp đánh giá chất lượng và tính chuyên
nghiệp của một website là tần suất cập nhật thông tin trên đó, nói
cách khác là sự đầu tư công sức và thời gian của doanh nghiệp để
nuôi sống website. Hơn một nửa số doanh nghiệp được khảo sát
cho biết họ chỉ cập nhật thông tin trên website một tháng một lần
hoặc ít hơn. Chưa đến 30% doanh nghiệp coi việc rà soát website
là công việc hàng ngày. Sự bê trễ này cũng là điều dễ hiểu khi nhìn
vào thực trạng chỉ khoảng 30% số website có tính năng hỗ trợ giao
dịch thương mại điện tử. Kết hợp lại, các thống kê trên cho thấy
doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhìn nhận đúng mức về vai trò
của trang web như một kênh giao tiếp và tương tác thường xuyên
với khách hàng, do đó chưa có sự đầu tư đúng mức về nguồn lực
cũng như thời gian để xây dựng, duy trì và khai thác website một
cách thật hiệu quả.
Phân tích sâu hơn mô hình quản lý website của các doanh nghiệp
còn cho thấy 56,2% số doanh nghiệp tự quản trị website của mình
và 43,8% ký hợp đồng với một nhà cung cấp dịch vụ web để làm
việc này. Đây cũng là một trong những lý do giải thích cho việc
thông tin và tính năng giao tiếp của các trang web còn nghèo nàn.
Bởi lẽ, để có thể cập nhật thông tin và duy trì quan hệ giao tiếp với
khách hàng một cách thường xuyên, doanh nghiệp cần phải là
người chủ động nắm quyền quản trị website. Khi giao phần việc
này vào tay một công ty dịch vụ bên ngoài, doanh nghiệp đã vô
hình chung bỏ đi chức năng tương tác với khách hàng của website
và biến nó thành một công cụ quảng cáo thuần túy. Với những
doanh nghiệp tự đảm nhận công tác quản trị website thì để làm
việc này một cách thật sự chuyên nghiệp cũng là thách thức lớn
trong bối cảnh hiện vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp bố trí được
cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin.
Mặc dù tỷ lệ doanh nghiệp có website năm 2005 đã cao hơn năm
trước, nhưng tính năng thương mại điện tử của các website thì vẫn
chưa được cải thiện. Phần lớn website vẫn chỉ dừng ở mức giới
thiệu những thông tin chung nhất về công ty và sản phẩm, dịch vụ,
với giao diện đơn giản và các tính năng kỹ thuật còn rất sơ khai.
Kết quả điều tra những doanh nghiệp đã lập website cho thấy
99,6% số website có cung cấp thông tin giới thiệu doanh nghiệp,
93,1% đưa thông tin giới thiệu sản phẩm, trong khi chỉ 32,8% bước
đầu có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử như cho phép
hỏi hàng hoặc gửi yêu cầu, một số ít cho phép đặt hàng trực tuyến.
Trong số những website có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại
điện tử này, 82% thuộc về các công ty kinh doanh dịch vụ, trên các
lĩnh vực du lịch, vận tải giao nhận, quảng cáo, thương mại, v.v...
Về mức độ đầu tư, kết quả khảo sát những doanh nghiệp đã thiết
lập website cho thấy đầu tư về ứng dụng thương mại điện tử chiếm
tỷ trọng tương đối thấp trong tổng chi phí hoạt động thường niên.
Trên 80% doanh nghiệp cho biết họ dành không đến 5% chi phí
hoạt động cho việc triển khai thương mại điện tử, bao gồm cả việc
mua các phần mềm thương mại điện tử, duy trì bảo dưỡng website
và phân bổ nguồn nhân lực cho những hoạt động này. Chỉ có
khoảng 14% doanh nghiệp chọn mức đầu tư 5-15% và một tỷ lệ rất
nhỏ (3,6%) đầu tư thật sự quy mô cho thương mại điện tử, ở mức
trên 15%.
Trong tương quan với tỷ lệ đầu tư, mức đóng góp của thương mại
điện tử cho việc tạo doanh thu mặc dù chưa thực sự nổi bật nhưng
cũng rất đáng khả quan. Gần 30% doanh nghiệp được hỏi đánh giá
mức đóng góp này ở vào khoảng từ 5% - 15%, và 7,5% còn tỏ ra
lạc quan hơn nữa khi cho rằng ứng dụng thương mại điện tử đã
đem lại cho họ trên 15% nguồn doanh thu của năm. So với kết quả
điều tra năm 2004, có thể thấy năm 2005 doanh nghiệp tỏ ra thận
trọng hơn khi phân bổ vốn đầu tư cho các ứng dụng triển khai
thương mại điện tử, nhưng hiệu quả thực tế do đầu tư này mang lại
cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng và được doanh nghiệp nhìn
nhận tương đối khả quan. Một bằng chứng nữa cho nhận định này
là việc 37,2% doanh nghiệp được hỏi cho rằng doanh thu từ kênh
tiếp thị thương mại điện tử sẽ tăng trong những năm tới, 61,5% cho
rằng không thay đổi, và chỉ 1,3% nghiêng về chiều hướng giảm.
Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp cho doanh thu mới chỉ là một trong
những tác dụng mà việc triển khai thương mại điện tử có thể đem
lại. Ngoài yếu tố định lượng này, còn rất nhiều yếu tố định tính
khác để đánh giá hiệu quả của ứng dụng thương mại điện tử nói
chung và website nói riêng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp. Khi được yêu cầu cho điểm một số tác dụng
của website theo thang điểm từ 0 đến 4, trong đó 4 là mức hiệu quả
cao nhất, đa số doanh nghiệp cho điểm rất cao tác dụng "Xây dựng
hình ảnh công ty" và "Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện
có". Đánh giá này cho thấy doanh nghiệp đã nhận thức rõ vai trò
của website như một công cụ quảng bá và mở rộng thị trường.
Nhưng mặt khác, việc hai tác dụng "tăng doanh số" và "tăng lợi
nhuận và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp" được xếp cuối
bảng với điểm bình quân chưa đến 2 cũng cho thấy hiệu quả bằng
tiền mà ứng dụng thương mại điện tử đem lại cho doanh nghiệp
vẫn chưa thực sự nổi bật.
Nhìn vào một số nguyên nhân lý giải cho việc triển khai ứng dụng
thương mại điện tử chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, trở
ngại về nhận thức xã hội được các doanh nghiệp xếp lên đầu bảng
với số điểm bình quân đạt trên 3,3. Theo khá sát là các trở ngại về
hệ thống thanh toán (3,27), môi trường pháp lý và tập quán kinh
doanh (3,11). Trở ngại về hạ tầng công nghệ thông tin - viễn thông,
mặc dù vẫn có điểm số khá cao (2,8) nhưng đã tụt xuống cuối danh
sách các vấn đề đáng quan ngại đối với doanh nghiệp khi triển khai
ứng dụng thương mại điện tử.
Tóm lại, thương mại điện tử được biết đến như một phương thức
kinh doanh có hiệu quả và phát triển đặc biệt nhanh từ khi Internet
hình thành và phát triển. Thương mại điện tử tạo ra một phong
cách kinh doanh, làm việc mới phù hợp với cuộc sống công
nghiệp; là một công cụ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ khắc phục
những điểm kém lợi thế để cạnh tranh ngang bằng với các doanh
nghiệp lớn. Đồng thời, thương mại điện tử cũng tạo ra động lực cải
cách mạnh mẽ cho các cơ quan quản lý Nhà nước, đáp ứng nhu cầu
của doanh nghiệp và xã hội.
3)Thương mại điện tử ở Việt Nam
Luật giao dịch điện tử đã được Quốc hội phê duyệt ngày
29/11/2005. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định về Thương
mại điện tử (số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/6/2006). Kế hoạch tổng
thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 được
Thủ tướng chính phủ phê duyệt từ 15/9/2005 (Quyết định số
222/2005/QĐ-TTg).
Khung thể chế
Theo Luật giao dịch điện tử của Việt Nam thì
giao dịch điện tử được định nghĩa ngắn gọn là
“giao dịch được thực hiện bằng những phương
tiện điện tử” (Khoản 6, Điều 4, Chương I). Trong Luật này, lần đầu
tiên những khía cạnh chủ yếu của giao dịch thương mại điện tử đã
được công nhận tính pháp lý và có cơ chế bảo vệ: thông điệp dữ
liệu, chữ ký điện tử, dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử, hợp đồng
điện tử, v...
Theo đánh giá chung, Luật Thương mại mới nhất (2005) chưa
dành một sự quan tâm tương xứng đến TMĐT. Mới chỉ có một
khoản (Khoản 4, Điều 20 nói về “Các hình thức trưng bày, giới
thiệu hàng hóa, dịch vụ” trong đó coi “Trưng bày, giới thiệu hàng
hóa, dịch vụ trên internet” là một hình thức trưng bày, giói thiệu
hàng hóa, dịch vụ.
Bộ Luật Dân sự tại Khoản 1, Điều 124 “Hình thức giao dịch dân
sự” quy định: “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử
dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn
bản”. Như vậy, TMĐT trong Boộ Luật Dân sự cũng chưa được
phản ánh một cách rõ nét.
Nghị định về TMĐT (số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/6/2006) cụ thể
các điều, khoản của Luật giao dịch điện tử, đồng thời cũng nêu rõ
những chế tài, công cụ, tổ chức quản lý của nhà nước đối với giao
dịch TMĐT. Bộ Thương mại là cơ quan nhà nước có chức năng
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
a) Định hướng phát triển
Theo Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn
2006-2010 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt (Quyết định số
222/2005/QĐ-TTg), thì mục tiêu của Việt Nam trong việc phát
triển TMĐT đến năm 2010 như sau:
(i) Khoảng 60% doanh nghiệp có quy mô lớn tiến hành giao dịch
TMĐT loại hình B2B.
(ii) Khoảng 80% có quy mô vừa và nhỏ tiến hành giao dịch TMĐT
loại hình B2C hoặc B2B.
(iii) Khoảng 10% hộ gia đình tiến hành giao dịch TMĐT loại hình
C2B hoặc C2C.
(iv) Các chào thầu mua sắm Chính phủ được công bố trên các
trang tin của các cơ quan Chính phủ và ứng dụng giao dịch TMĐT
trong mua sắm Chính phủ.
b) Tình hình phát triển
Gần đây, Bộ Thương mại đã xuất bản lần thứ ba liên tiếp Báo cáo
về tình hình phát triển thương mại điện tử Việt Nam (2003, 2004,
2005). Theo báo cáo điều tra tại hơn 500 doanh nghiệp ở ba thành
phố lớn là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng năm 2005
thì mặc dù TMĐT mới xuất hiện tại Việt Nam song đã đạt được
những bước phát triển đáng ghi nhận, thể hiện qua một số tiêu chí
cơ bản sau:
Doanh nghiệp và TMĐT
(i) Khoảng 46,2% các doanh nghiệp được khảo sát đã có website,
trong số này phần lớn (68,7%) là các doanh nghiệp kinh doanh
thương mại-dịch vụ, phần còn lại là các doanh nghiệp sản xuất.
(ii) Khoảng 87,6% số doanh nghiệp có website cho biết đối tượng
chính mà doanh nghiệp muốn hướng tới thông qua website là các
doanh nghiệp khác, hướng tới người tiêu dùng là 65,7%. Như vậy,
có khả năng hình thức giao dịch B2B sẽ chiếm ưu thế hơn hình
thức B2C.
(iii) Khoảng 32,8% số website có các tính năng hỗ trợ giao dịch
thương mại điện tử (như cho phép khách hàng gửi yêu cầu, đặt
hàng trực tuyến, v.v..).
Các loại hình giao dịch TMĐT
Giao dịch B2C: Theo Báo cáo TMĐT Việt Nam 2004, ước tính có
khoảng 17.500 website doanh nghiệp vào thời điểm cuối tháng 122004, trong số này phần lớn là các website hoạt động theo mô hình
B2C.
Giao dịch C2C: Hiện nay chưa có thống kê đầy đủ cũng như dự
đoán về loại hình giao dịch này. Phần lớn còn mang tính sơ khai
Giao dịch B2B: Loại hình giao dịch này được thực hiện chủ yếu
thông qua các sàn thương mại điện tử B2B tổ chức theo mô hình
“cổng thông tin về cơ hội giao thương” hoặc “trung tâm thương
mại”. Số lượng ổn định trên dưới 20 sàn giao dịch.
Bên cạnh đó, Báo cáo TMĐT Việt Nam 2005 cũng đưa vào nội
dung TMĐT một số hoạt động mới: thương mại di động, giải trí
trực tuyến.
3.Sự phát triển của thương mại điện tử (TMĐT) trên thế giới đã
làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem
lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Với Việt Nam, TMĐT tuy còn
khá mới mẻ, nhưng đã hé mở nhiều triển vọng sáng sủa, đặc biệt là
sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại Thế giới cuối năm 2006.
Theo sự đánh giá của http://www.vietnamwebsite.net hiện nay thì
dưới đây la các web hàng đầu về B2C ở việt nam ta hiện nay:
1.http://www.vatgia.com
Trang web B2C lớn nhất Việt nam hiện tại với trên 200.000
lượt khách thăm 1 ngày.
- Xem thêm -