Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tình hình mắc bệnh ngoài da ở trẻ dưới 6 tuổi và nhận thức, thái độ, thực hành c...

Tài liệu Tình hình mắc bệnh ngoài da ở trẻ dưới 6 tuổi và nhận thức, thái độ, thực hành của bà mẹ tại 6 xã

.PDF
101
691
70

Mô tả:

Tình hình mắc bệnh ngoài da ở trẻ dưới 6 tuổi và nhận thức, thái độ, thực hành của bà mẹ tại 6 xã
-1- ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh ngoài da phổ biến là một vấn đề y tế cộng đồng nghiêm trọng ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển [13]. Tại Việt Nam, năm 1960 Bộ Y tế đã tiến hành nghiên cứu mô hình bệnh tật ở lứa tuổi thanh niên tại 16 tỉnh vùng đồng bằng và trung du miến Bắc, kết quả cho thấy bệnh ngoài da đứng hàng thứ 2 và chiếm tỷ lệ 5,68% trong số các bệnh chuyên khoa. Nếu lấy tỷ lệ này ước tính cho tất cả các lứa tuổi thì vào thời điểm đó khoảng 12% dân số Việt Nam mắc bệnh da liễu. Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu kinh tế từ thành thị đến nông thôn. Hàng hoá, sản phẩm, nông sản làm ra từ nông nghiệp ngày càng nhiều và đa dạng. Cuộc sống của người lao động từng bước được thay đổi, kinh tế nông thôn không còn độc canh như trước, người dân tăng cường đầu tư máy móc, phân bún hoá học, trang thiết bị... Để giảm bớt cường độ lao động và tăng năng suất. Phát triển nhiều làng nghề, làm thêm nhiều nghề phụ để giải quyết số lao động dư thừa trong những ngày nông nhàn. Những thay đổi đó làm cho cuộc sống của người dân tốt hơn nhưng cùng với nó là sự ô nhiễm môi trường, sự thay đổi khí hậu làm cho mô hình bệnh tật nói chung, trong đó bệnh ngoài da cũng có nhiều biến đổi. Huyện Điện Biên là một trong 9 huyện, thành phố của tỉnh Điện Biên, một huyện nông nghiệp thuần tuý. Đời sống kinh tế, văn hoá của người dân ở trong huyện còn thấp, trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế. Trong nhân dân còn tồn tại một số tập quán lạc hậu, đặc biệt là tập quán dùng phân tươi để bón ruộng, chăn nuôi gia súc thả rông tùy tiện, sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật, rác thải nông nghiệp, rác thải sinh hoạt chưa để tập trung đúng -2- nơi quy định. Vì thế môi trường sống ở nông thôn ngày càng bị ô nhiễm, kết hợp với thời tiết, khí hậu nóng ẩm cùng với yếu tố cơ địa của người bệnh là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bệnh ngoài da. Trẻ em dưới 6 tuổi tuy chưa phải là lực lượng lao động nhưng cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ môi trường. Bệnh da liễu ở trẻ ngoài bệnh lý tại chỗ còn liên quan đến các bệnh của hệ thống miễn dịch nguy hiểm như bệnh thấp tim, bệnh viêm cầu thận cấp... vì vậy phát hiện bệnh để điều trị kịp thời và giảm nguy cơ mắc bệnh cho trẻ là việc làm cần thiết của cán bộ y tế, của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Nhiều công trình nghiên cứu đã công bố cho thấy tỷ lệ bệnh ngoài da chiếm khoảng 16,5% dân số. Nhiều nghiên cứu về mô hình bệnh trẻ em đã cho thấy tỷ lệ mắc bệnh da liễu ở trẻ dưới 6 tuổi khoảng 18,75% [23]. Tại Điện Biên chưa có nghiên cứu nào về bệnh da liễu ở trẻ em được tiến hành, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Tình hình mắc bệnh ngoài da ở trẻ dưới 6 tuổi và nhận thức, thái độ, thực hành của bà mẹ tại 6 xã huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên năm 2009". Mục tiêu nghiên cứu 1. Mô tả thực trạng bệnh ngoài da ở trẻ em dưới 6 tuổi tại 6 xã của huyện Điện Biên năm 2009. 2. Xác định nhận thức, thái độ, thực hành của bà mẹ có con dưới 6 tuổi trong địa bàn nghiên cứu về phòng chống bệnh ngoài da. -3- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. CẤU TẠO GIẢI PHẪU, SINH LÝ CỦA DA [18], [61] Da được cấu tạo gồm 3 lớp: Thượng bì, trung bì, hạ bì. Thượng bì có 5 lớp kể từ dưới lên trên. Lớp cơ bản, lớp gai, lớp hạt, lớp sáng, lớp sừng. Thượng bì và trung bì được ngăn cách với nhau bởi màng đáy. Trung bỡ cú cấu trúc gồm 3 phần, những sợi chống đỡ chất cơ bản, tế bào. Phần hạ bì nằm giữa trung bì và cân hoặc màng xương. Hạ bì là tổ chức đệm biệt hóa thành tổ chức mỡ có nhiều ụ ngăn cách bởi những vách nối liền với trung bì, trong đó có mạch máu, thần kinh. Cấu tạo của da rất tinh vi, liên kết chặt chẽ, biến hóa không ngừng của các lớp tế bào thượng bì, trung bì, hạ bì làm cho da vững chắc bao bọc cơ thể, chống lại các tác nhân có hại cho cơ thể. Da luôn luôn trải qua quá trình biến hóa các chất thu nhận những chất dinh dưỡng tổng hợp thành các chất của nó. Đồng thời phân hủy các chất để giải phóng ra năng lượng cho các hoạt động sinh lý của da. Các tế bào da sống được là nhờ những phản ứng sinh hóa. Những phản ứng này được tiến hành một cách tuần tự ổn định là nhờ các men như: Men sinh năng lượng, men chuyển hóa Hydratcacbon, mem chuyển hóa hợp chất Nitơ, men chuyển hóa axit béo. - Những chất tích điện ở da gồm những ion Cl-, Na+, K+, Ca++, Mg++. - Chất lưu huỳnh ở da: Cơ thể không tổng hợp được hỗn hợp axit lưu huỳnh mà phải lấy từ thức ăn. Lưu huỳnh có ở thượng bì, tổ chức đệm, mồ -4- hôi. Vai trò của lưu huỳnh rất quan trọng trong các chất Coenzym có lưu huỳnh, phần đạm các men hoặc sắc tố. Vì thế muốn bảo vệ da tốt, có nước da đẹp để chống lại các tác nhân gây bệnh thì chế độ ăn uống của người dân trong cộng đồng cũng là điều rất cần thiết. - Chất sừng: Là một chất đạm trong đó có axit amin kết hợp với lưu huỳnh. Sừng là một chất kém bền vững, có phần nào dễ co dãn, dựa vào tính chất này người ta có thể dựng cỏc chất hóa học làm thay đổi cấu trúc của nó. Vì thế trong môi trường sống hiện nay đang bị ô nhiễm, các làng nghề, chất hóa học trong công nghiệp chưa xử lý thải ra môi trường ngày càng nhiều. Cường độ lao động của người dân càng cao, làm cho lớp sừng trên da bị thay đổi, kém bền vững, chân tay sõy xỏt là điều kiện thuận lợi cho vi trùng, ký sinh trùng, các bệnh dị ứng phát triển mạnh. - Da có nhiệm vụ che chở cho cơ thể, bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi trùng, ký sinh trùng, các tác nhân cơ giới, lý, hóa học có hại cho da. Do cấu trúc và sự biến hóa không ngừng của các lớp tế bào thượng bì, những vi khuẩn ký sinh trên da luôn luôn bị đẩy lùi, đào thải cùng tế bào sừng. - Một số men tổng hợp ở da cũng có tác dụng ngăn cản vi khuẩn phát triển như: men diệt khuẩn, men kích thích thực bào thay đổi pH da, men tổng hợp, huy động không thể tham gia phản ứng miễn dịch. - Da điều hòa thân nhiệt, để thích nghi với thời tiết bên ngoài, da không ngừng bài tiết mồ hôi làm giảm thân nhiệt. Hiện nay Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế thị trường ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu kinh tế từ thành thị đến nông thôn. Người dân tăng cường đầu tư máy móc, phát triển nhiều làng nghề, làm thêm nhiều nghề phụ. Rác thải công nghiệp, thủ công nghiệp và rác thải trong sinh hoạt chưa được tập trung kết hợp với thời tiết khí hậu nóng ẩm ở nước ta đã làm cho môi trường sống ở nông thôn ngày càng bị -5- ô nhiễm. Tuy vậy đời sống kinh tế, văn hóa nhìn chung cũng thấp, trình độ nhận thức của người dân cũng hạn chế. Cỏc tỏc nhõn trờn đó phá vỡ các cấu trúc da, thay đổi pH da, làm da điều hòa thân nhiệt kém, dẫn tới các bệnh ngoài da trong cộng đồng ngày một tăng cao. - Lớp ngoài cùng của da có màng sáp gồm: Ion, Cl -, Na+, axit amin, đường, Ure, Cholin, mỡ, ngăn nước và các chất hóa học thấm qua da, mùa hè mồ hôi tiết nhiều, để lâu biến thành Amoniac, da trở nên kiềm pH, 6,5 - 7 vi khuẩn, nấm có điều kiện phát triển. Vì thế mà bệnh ngoài da hay xuất hiện vào mùa hè, ở nông thôn, công nhân lao động trong hoàn cảnh nóng, ẩm, thường xuyên dầm nước. - Da có màng sáp bảo vệ những thuốc tan trong nước, không bốc hơi sẽ không thấm được qua da. Những kim loại nặng như chì, Asen có thể phá vỡ màng sỏp gõy nhiễm độc da. Ngoài ra da cũng có chức năng bài tiết chất bã chống thấm nước làm da mềm mại, kháng vi khuẩn và nấm. Qua cấu tạo, đặc điểm sinh hóa, sinh lý da ta thấy tầm quan trọng của da trong việc bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi trùng, ký sinh trùng, hóa chất độc hại đối với cơ thể. Da cũng tham gia phản ứng miễn dịch, điều hoà thân nhiệt giúp cho cơ thể hoạt động tốt. Trong cuộc sống hội nhập hiện nay sự hiểu biết để bảo vệ môi trường sống, không bị ô nhiễm trỏnh cỏc sang chấn cho da khỏi bị tổn thương, tránh sự xâm nhập của vi trùng, ký sinh trùng và các phản ứng đối với cơ thể, thì sự thông tin tuyên truyền cho người dân hiểu biết được các tác nhân gây bệnh ngoài da trong cộng đồng, cách phòng chống và bảo vệ da trong ăn uống, trong sinh hoạt và khám, điều trị kịp thời là điều rất cần thiết. -6- 1.2. ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ BỆNH NGOÀI DA PHỔ BIẾN 1.2.1. Bệnh chàm (Eczema) [54] Bệnh chàm là một bệnh thông thường, chiếm 25% tổng số các bệnh ngoài da, biểu hiện lâm sàng đa dạng, nhưng nói chung có những đặc điểm như sau: Biểu hiện lâm sàng: có ngứa, có mụn nước sắp xếp thành mảng giới hạn thất thường, tiến triển theo từng đợt, hay biến thành bệnh mạn tính để thỉnh thoảng lại vượng lên. Về giải phẫu bệnh lý có thương tổn thuộc loại xốp bào. Tổn thương sinh bệnh học, là một phản ứng viêm đối với những tác nhân hoặc ở trong cơ thể, hoặc ở ngoài cơ thể, thuộc loại cơ giới, vật lý, hoá học, ký sinh trùng hoặc vi khuẩn, trong điều kiện có một địa tạng đặc biệt là cơ địa dị ứng. Hai yếu tố cơ bản phát sinh ra chàm là cơ địa dị ứng và tác nhân kích thích ở trong hay ngoài vào cơ địa ấy. Cả hai yếu tố đều thay đổi ít nhiều theo từng trường hợp eczema. Giai đoạn điển hình nhất là mụn nước. Mụn nước chính là một thương tổn căn bản của bệnh chàm; nhưng trước khi có mụn nước thỡ đó cú hiện tượng xung huyết và khi đó cú mụn nước rồi thì mụn nước chảy nước vàng, nước vàng đọng lại thành vảy tiết; vảy tiết rụng để lại vảy khô, rồi da mới lành, có khi lại còn biến chứng thành bội nhiễm hay lichen hoá. Tiến triển thành từng đợt không đều nhau trên một bệnh nhân, mỗi đợt đều qua giai đoạn đỏ, mụn nước, vảy... Nhưng vỡ cỏc đợt khác nhau, tuỳ từng chỗ giai đoạn tiến triển cũng khác nhau cho nên cùng một mảng chàm có những giai đoạn khác nhau, cũng vì vậy mà các thương tổn trên một mảng -7- chàm rất đa dạng, nhưng qua hình thức thay đổi phải nắm vững là có mụn nước điển hình và những giai đoạn khác nhau của nó. Ngứa nhiều hay ít cũng tuỳ từng giai đoạn cấp tính hay mạn tính. Phân tích căn nguyên đi kèm với việc phát sinh ra bệnh chàm thì thấy ngoài các yếu tố ngoại lai ra, nhiều bệnh nhân có một tình trạng cấp hay mạn tính, xúc cảm mạnh, chấn thương thần kinh, mâu thuẫn trong gia đình hay trong xã hội, gây ra những điều kiện thuận tiện dễ sinh ra bệnh chàm. 1.2.2. Bệnh sẩn ngứa (Prurigo Hebra) Bệnh sẩn ngứa có thương tổn căn bản là những sẩn nhỏ, chắc, màu hồng nhạt, rất ngứa. thỉnh thoảng có trường hợp trước khi phát ra những sẩn chắc thấy xuất hiện những sẩn phù như sẩn mề đay. Vị trí khu trú đầu tiên ở mặt dưới các chi rồi sau mới phát ra các phần khác, thân mình, mông, nhưng hầu như mặt gấp các chi và mặt không bao giờ bị thương tổn. Vì ngứa gói nờn đa số các sẩn đều bị sướt ra, đóng vảy máu.Da dày, lichen hoỏ, thâm. Thỉnh thoảng có biến chứng nhiễm trùng thứ phát. Thường các hạch bạch huyết sưng to, nhất là hạch bẹn, nách và khuỷu tay. Hạch không đau và không có khuynh hướng hoá mủ. Vì tính chất đặc biệt của hạch nên gọi là hột xoài trong bệnh sẩn ngứa. Về hình thể lâm sàng, có thể nhẹ (prurigo mitis) và thể nặng (pruriferox), tuỳ theo thương tổn và tính chất ngứa nhiều hoặc ít. Trong trường hợp nặng, bệnh nhân rất ngứa, đứng ngồi không yên, ảnh hưởng đến toàn trạng, ăn không ngon, mất ngủ, suy nhược. Bệnh kéo dài hàng chục năm, nhất là đối với đàn ông. Tuổi càng lớn, bệnh có phần giảm bớt. Bệnh thường bắt đầu ở trẻ nhỏ, tỷ lệ nhỏ bệnh xuất hiện muộn hơn ở tuổi trưởng thành. Có 2 giả thuyết về cơ chế bệnh sinh. -8- Thuyết thần kinh dinh dưỡng, do các tác giả Pletinop, Nikolsky, Paplop... chủ trương. Trên bệnh nhân thấy xuất hiện dấu hiệu vạch da nổi (dermographisme) trắng, bền vững (xuất hiện lâu mới mất). Rối loạn phản xạ ở da, bài tiết mồ hôi ít, thường về tinh thần không phát triển đầy đủ. Theo Paplốp phản xạ lòng bàn chân và phản xạ thành bụng mất. Thuyết nhiễm độc do các tác giả Jadasson, Tommasoli... chủ trương dựa vào đợt phát bệnh đầu tiên, thường xảy ra ở những trẻ có rối loạn về tiờu hoỏ. Nghiên cứu chuyển hoỏ cỏc chất thấy có rối loạn về clo, phốt phát và axit lactic. Một số tác giả khác cho rằng có sự phối hợp cả hai yếu tố thần kinh và nhiễm độc trong cơ chế bệnh sinh của bệnh. Ngoài ra, bệnh còn bị ảnh hưởng của điều kiện sinh hoạt. Trong một số trường hợp thay đổi môi trường làm việc, sinh sống, bệnh thay đổi một cách rõ rệt. Bệnh tương đối ít gặp ở trẻ em, thường xuất hiện ở người lớn, nhất là phụ nữ trẻ. Bệnh có liên quan đến thay đổi trạng thái thần kinh, tinh thần và rối loạn về tiờu hoỏ. Tuy nhiên, trẻ em cũng có thể mắc bệnh và ở trẻ em dưới sáu tuổi, bệnh sẩn ngứa cấp tính người lớn (Prurigo simplex aigude l'adulte) có một số đặc điểm sau đây: Thương tổn trên da căn bản là những sẩn nhỏ, màu sắc giống màu da bình thường hoặc hồng nhạt. Trờn chúp cỏc sẩn có một mụn nước rất bộ. Vỡ ngứa nhiều phải gói nờn phần lớn các sẩn đều có vảy máu. Vị trí khu trú ở mặt dưới các chi. Hình ảnh lâm sàng rất giống bệnh sẩn ngứa trẻ con (strophulus). Lúc đầu toàn trạng có thể ít nhiều bị ảnh hưởng: sốt, mệt mỏi, nhức đầu. Bệnh kéo dài khoảng hai tuần đến 4 tháng, thỉnh thoảng có thể lâu hơn. Nói chung, thời gian tiến triển ngắn so với các loại sẩn ngứa khỏc nờn cũn gọi là sẩn ngứa tạm thời. Khi bệnh tiến triển quá 4 thỏng đó gọi là bệnh sẩn ngứa kinh diễn. -9- Bệnh sẩn ngứa tạm thời có thể tái phát. Phân biệt các hình thể lâm sàng như: sẩn ngứa có bọng nước, có xuất huyết hoặc có hoại tử. Có trường hợp có cơn vượng bệnh phát theo mùa nên gọi là sẩn ngứa mùa đông và sẩn ngứa mùa hạ. Thể mùa hạ là một trong những hình thể lâm sàng của bệnh da do cảm ứng ánh nắng. Có thể lâm sàng xuất hiện ở người có mang. Về tiên lượng: bệnh có tiên lượng tốt. Về điều trị: Cần chú ý đến chế độ ăn, dựng khỏng histamin tổng hợp, các loại sát trùng đường ruột (salol, benzo - naptol). 1.2.3. Bệnh mề đay (Urticaire) [47], [49] Ban mề đay là một phản ứng mạch máu của da, đặc điểm là có ngứa, trên mặt da nổi lên những sẩn phù. Biểu hiện lâm sàng: Thường có ngứa dữ dội rồi ban xuất hiện ở bất kỳ chỗ nào trong người. Thương tổn căn bản là một sẩn màu hồng nhợt hay trắng rồi trở nên xám ở giữa, màu hồng ở xung quanh, to bằng hạt đậu hay bằng đồng xu. Hình tròn hoặc bờ không đều, nham nhở. Giới hạn rõ rệt. Cách sắp xếp giữa sẩn phù, ban mề đay có những hình thể rất thay đổi, mỗi sẩn phù tiến triển nhanh chóng độ một vài giờ, cho đến một vài ngày, rồi lặn đi trong khi những sẩn mới lại xuất hiện, càng gãi nhiều lại càng ngứa và càng xuất hiện sẩn mới. Có một đặc điểm là mỗi khi sẩn phù ăn vào các chỗ da lỏng lẻo, mí mắt, âm hộ, bao quy đầu hay các niêm mạc thì lan ra nhanh chóng, ngứa, và rất nguy hiểm. Có những thể rất thay đổi khi thì nhỏ, khi thì to, khi thì khu trú, khi thì toàn thể. Có khi có cả bọng nước, hoặc phối hợp với phù Quincke. -10- Bệnh tiến triển thành từng đợt liên tiếp mỗi đợt độ vài ngày, cũng có khi có thể tái phát dai dẳng hàng năm, do nhiều đợt liên tiếp, lắm khi theo mùa, theo thay đổi với bệnh hen xuyễn và bệnh đau nửa đầu. Về cơ chế bệnh sinh: có nhiều yếu tố liên quan đến bệnh. Yờỳ tố nhiệt độ như lạnh, nóng: Căn nguyên rất phức tạp, nhiều khi không rõ, thông thường nhất là lạnh. Sau khi ra lạnh, rửa mặt bằng nước lạnh, hay là uống nước lạnh, độ năm mười phỳt thỡ bắt đầu ngứa. Duke đã chứng minh vai trò của lạnh, phun tia clorua ethyl vào da, gây ra ban mề đay, dúng tay vào nước lạnh cũng vậy, nhưng có một điều nên chú ý là nếu buộc garo ở cánh tay thì ban mề đay không lan ra toàn thân. Khi nhiệt độ tăng lên hoặc các tia tử ngoại tác động vào, X quang cũng có thể gây ra mề đay. Côn trùng đốt hoặc tiếp xúc với hoá chất: muỗi, rệp, một cây han (rhodendron), một vài thứ quần áo, nước hoa có khi cả đến nước rửa, cũng có thể gây ra mề đay. Thức ăn: như thịt trâu, cá biển, nhộng tằm... cũng có thể gây mề đay. Một số loại thuốc: sunfamit, aspirin, antipyrin, huyết thanh, penixilin. Nhiễm liên cầu, nhiễm ký sinh trùng đường ruột cũng có thể gây ra ban mề đay và kèm theo triệu chứng sốt. Ngoài ra một số nguời mắc ban mề đay tái phát không rõ căn nguyên. Cần phải theo dõi loại trừ dần những dị ứng tôm và tìm những triệu trứng thiểu năng gan. 1.2.4. Bệnh tổ đỉa (Dysidrose) Bệnh tổ đỉa đã được Tilburyfox mô tả từ 1873, coi như một bệnh ứ đọng mồ hôi. Về sau, bằng những nhận xét về tế bào học, A.Rpobison đã phủ nhận -11- thuyết đú. Cú tác giả nhiều lần tìm thấy da và nấm mốc ở các thương tổn tổ đỉa bàn chân và nêu lên vai trò gây bệnh hoặc thứ phát của các loại nấm đó. Thibierge, gougerot đề xuất vai trò của ánh sáng mặt trời, khi thấy bệnh xuất hiện về mùa xuân và mùa hạ. Nhiều tác giả khác lại phân biệt bệnh tổ đỉa thực sự với các biểu hiện dạng tổ đỉa mà căn nguyên có thể do nấm, vi khuẩn, hoá chất... Ngày nay đại đa số các chuyên gia da liễu quan niệm bệnh tổ đỉa là một thể lâm sàng của bệnh eczema, có khu trú đặc biệt chỉ ở bàn tay, bàn chân, có bệnh cảnh lâm sàng riêng và có một số căn nguyên nổi bật. Biểu hiện lâm sàng cơ bản là mụn nước với những tính chất đặc biệt như: Khu trú ở bàn tay, bàn chân, đặc biệt ở mộ bờn cỏc ngón tay, mặt sau đốt cuối, lòng bàn tay; mặt bên, mặt trên và mặt dưới các ngón chân, lòng bàn chân; có khi lần lượt, có khi các vị trớ trờn đồng thời bị một lúc; Bệnh không bao giờ vượt lờn mộ trờn cổ tay, cổ chân; có thể có những thương tổn thứ phát ở cỏc vựng khỏc của cơ thể, song lại là những mụn nước của eczema thông thường. Mụn nước ăn sâu trong thượng bì, làm cho da ở trên nổi sần lên, hình tròn, rải rác hoặc sắp xếp thành chùm. Sờ vào mụn nước thấy chắc, như có một hạt xơ nằm xen vào trong thượng bì. Các mụn nước thông thường có kích thước từ 1 - 2mm, đôi khi tổn thương có thể trở thành những bọng nước khá to, nhất là ở lòng bàn tay, bàn chân. Các mụn nước phát triển thành từng đợt về mùa xuân và mùa hạ, làm cho tiến triển của bệnh có tính chất chu kỳ. Thường đến cuối mùa hạ bệnh sẽ lui dần và sẽ không xuất hiện trong suốt mùa đông, để lại tái phát trong mùa xuân, sắp tới. Hiện tượng nhiễm khuẩn thường hay gặp, hoặc tiờn phỏt hoặc thứ phát. Trong các thể điển hình, nhất là trong thể bọng nước, dịch tiết trong sẽ đục -12- dần và thành mủ quầng đỏ xung quanh bọng nước xuất hiện, kèm theo có thể viêm mạch bạch huyết và hạch viêm đau. Cơ chế bệnh sinh: bệnh thường gặp ở thanh niên hoặc người đứng tuổi, thường ở nam giới. Căn nguyên sinh bệnh cũng tương tự và phức tạp như đối với eczema. Tuy nhiên cần nêu lên một số yếu tố đã tham gia vào căn nguyên sinh bệnh của tổ đỉa như ánh sáng và sức nóng, các nhiễm khuẩn và nhiễm nấm. Trong thực tế, dựa vào tiến triển ta có thể phân làm 3 loại, tương ứng với những căn nguyên khác nhau. Loại cấp tính: Tiến triển nhất thời, có tính chất viêm, thực chất là một viêm nhân tạo, do cỏc hoỏ chất hoặc các thảo mộc tác động lên da. Loại bán cấp hoặc kinh diễn: Thỉnh thoảng có thể xuất hiện một đợt cấp diễn. Loại này có thể do 2 căn nguyên. - Do vi khuẩn: Liên cầu khuẩn đã được phát hiện; thể tổ đỉa nung mủ cũng hay gặp, kèm theo viêm bạch huyết và hạch; điều trị bằng dung dịch sát khuẩn (ngâm thuốc tớm, bụi dung dịch Milian) thường đưa lại kết quả. - Do nấm: thường bệnh nhân có tiền sử nấm, hoặc đồng thời có nấm kẽ chân; ở một số khá nhiều trường hợp, có thể tìm thấy nấm (soi tươi và cấy) ở các thương tổn tổ đỉa, nhất là ở các ngón chân: trichophyton, nấm mốc (ở tay ít kết quả dương tính hơn); điều trị bằng thuốc chống nấm (cồn iot) đôi khi có kết quả. Loại hay tái phát theo mùa: ảnh hưởng của ánh sáng và sức nóng; song không thể loại bỏ hoàn toàn các tác nhân vi khuẩn và nấm, hoặc mồ hôi - điều kiện thuận lợi cho nấm phát triển. 1.2.5. Bệnh ghẻ (Sarcoptes) Bệnh ghẻ là bệnh hay gặp, dễ lây. Bệnh dễ lây lan ở nơi tập trung đông người và điều kiện vệ sinh kém. -13- Đặc điểm sinh học của bệnh ghẻ: Tên khoa học của con ghẻ là sarcoptes. Con đực thường nhỏ hơn con cái và chết ngay sau khi di giống. Con cái ghẻ hình bầu dục, bụng có 8 chân, lưng có gai hướng về phía sau, vòi hút về phía trước, dùng để hút thức ăn và đào hầm. Chúng đào hầm ở lớp thương bì của da, mỗi ngày đẻ vào da 1 - 5 trứng. Sau 3 - 7 ngày nở thành ấu trùng, lột xác nhiều lần để trở thành ghẻ trưởng thành. Bình thường chu kỳ sinh sản kéo dài 2 - 7 tuần. Bệnh lây từ người này qua người khác thường về đêm do cái ghẻ mang trứng hoặc do ấu trùng bũ lờn da. Cái ghẻ không sống quá 4 ngày khi ra khỏi cơ thể, sang quần áo, chăn màn và dính trứng ghẻ có thể là nguồn gây bệnh. Bệnh gặp ở vùng dân cư đông, chật hẹp, thiếu vệ sinh và có thể biến thành dịch khi có chiến tranh, đợt di cư, hội hè. Ngoài ra còn gặp nhiều ở gái điếm, trại giam. Bệnh ghẻ lưu hành thường xuyên và được coi là một trong 23 loại bệnh lây truyền qua đường tình dục. Triệu chứng của bệnh: Thời gian ủ bệnh từ 2 ngày tới vài tuần sau đó xuất hiện triệu chứng đầu tiên là ngứa. Ngứa nhiều về đêm gây mất ngủ, ngứa khắp người trừ mắt, da đầu, lưng. Tại nơi gãi xuất hiện vết sước, vảy máu, vảy mủ, dát đỏ, sẩn mày đay, mụn nước, mụn mủ, dỏt thõm. Tóm lại ghẻ có tổn thương đa dạng, thứ phát do gãi bội nhiễm, chàm hoá. Kèm theo ngứa là mụn nước mọc rải rác hoặc khu trú đặc hiệu ở khe kẽ ngón tay, mặt trước cổ, khuỷu tay, phía trước nách, núm vú, quanh thắt lưng, rốn, khe mông, lòng bàn chân hài nhi, đàn ông ở quy đầu xuất hiện vết trợt tròn giống săng giang mai. Bệnh có yếu tố dịch tễ rõ rệt. Trong gia đình, nơi ở cũng có người ngứa và tổn thương tương tự như bệnh nhân. -14- Hai dấu hiệu đặc hiệu của ghẻ không phải lúc nào cũng thấy là luống ghẻ và khêu được cái ghẻ. Luống ghẻ là những đường hầm do cái ghẻ đục để đẻ trứng, cuối đường hầm là nơi cái ghẻ ở chỗ phình to hơn. Tiến triển và biến chứng: Nếu không được điều trị kịp thời bệnh nhân thấy nhiễm trùng mưng mủ. Có trường hợp giảm ngứa tổn thương giới hạn nhưng vẫn là nguồn lây bệnh sang người khác. Điều trị kịp thời nhưng không triệt để, cựng lỳc với người trong gia đình, người xung quanh thì bệnh sẽ tái phát. Các biến chứng hay gặp trong bệnh ghẻ là chàm hoá, viêm da mủ. Hiếm gặp bệnh nhân viờm thận nặng do nhiễm độc bởi độc tố ghẻ hoặc liên cầu khuẩn. 1.2.6. Một số bệnh nấm da thường gặp 1.2.6.1. Nấm da Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi và cả hai giới. Nguyên nhân gây bệnh là Trichophyton, Microsporum. Biểu hiện lâm sàng với tổn thương cơ bản là dát đỏ, hình tròn hình bầu dục, hoặc hình vòng cung. Kích thước từ 2 - 10cm hoặc lớn hơn. Tổn thương có xu hướng lành giữa lan rộng ra xung quanh, có viền bờ mụn nước, trên bề mặt cú chỳt vảy da. Nếu cấp tính không điều trị sẽ thành mạn tính, mùa đông thâm lại, mùa hè lại phát cấp. Vị trí tổn thương trên thân mình là vùng da không có lông dài, không ở vùng kẽ. Ở trẻ em thường gặp ở gò má, quanh miệng, vành tai, cổ. Bàn tay biểu hiện da khô lan toả, tăng sừng lòng bàn tay, ít triệu chứng và bàn chân là tổn thương vảy dày, tăng sừng lòng bàn chân gót và rìa bàn chân. Không điều trị triệt để bệnh gây biến chứng là chàm hoá hoặc bội nhiễm. -15- Cận lâm sàng: Soi tươi có sợi nấm phân nhánh có vách ngăn Chẩn đoán bệnh: bệnh chẩn đoán khụng khú, tuy nhiên tùy theo điều kiện và tuyến điều trị mà có những yêu cầu cụ thể. Tại tuyến cơ sở: Dựa vào tổn thương cơ bản là dát đỏ lành giữa có bờ viền mụn nước có xu hướng ly tâm, vị trí ở thân mình, bàn tay bàn chân kèm theo cú ngứa.Cú thể làm xét nghiệm soi tươi tìm sợi nấm. Chẩn đoán ở tuyến chuyên khoa dựa vào lâm sàng và xét nghiệm soi tươi, nuôi cấy tìm nấm. Chẩn đoán phân biệt: Bệnh cần được phân biệt với một số bệnh như: Với bệnh phong củ: bệnh khụng gõy ngứa, tổn thương vựng rỡa là viền củ, xét nghiệm nấm âm tính. Với bệnh vảy phấn hồng GiBert: tổn thương nhiều, cấp tính, không có bờ mụn nước, xét nghiệm nấm âm tính. Với bệnh chàm tiếp xúc: Tổn thương rỉ dịch, chảy nước, xét nghiệm nấm âm tính. 1.2.6.2. Nấm bẹn (Tinea cruris) Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ. Nguyên nhân do trichophyton, Epidermophyton. Tổn thương cơ bản là đám, mảng, dát có hình trũn, hỡnh nhiều cung, kích thước thay đổi từ 1 - 10mm hoặc to hơn, giữa lành lan rộng ra xung quanh, có màu đỏ hồng có bờ viền mụn nước. Người bệnh ngứa nhiều đặc biệt khi ra mồ hôi. Vị trí tổn thương từ một bên bẹn, lan rộng ra vùng mu, xuống đùi, sang bên đối diện, lan ra kẽ mụng, vựng quanh thắt lưng, gầm vú, hố nách, khoeo chân. Chàm hoá và bội nhiễm là biến chứng thường gặp của bệnh. -16- Chẩn đoán dựa vào tổn thương cơ bản: dát đỏ lành giữa có bờ viền mụn nước, có xu hướng ly tâm, vị trí ở vùng bẹn, vòng quanh thắt lưng, hố nách gầm vú và tìm nấm bằng soi tươi hoặc nuôi cấy. Bệnh cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh như: Bệnh Erythrasma là bệnh do vi trùng Corynebacterium gõy nên, tổn thương thâm, không có bờ mụn nước và không ngứa. Vị trí vùng bẹn, cổ. Bệnh vảy nến thể đảo ngược: Tổn thương vùng ở nếp gấp tổn thương đỏ, rỉ dịch (có vảy vụn). Xét nghiệm nấm âm tính. Bệnh nấm kẽ do candida: Tổn thương đỏ bóng có thể có bựa trắng, không có mụn nước ở viền bờ. 1.2.6.3. Nấm tóc (Tinea capitis) Đây là bệnh gây nên do Trichophyton, Microsporum. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi nhưng nhiều hơn ở trẻ em. Bệnh lây lan rất nhanh và có thể thành đại dịch. Biểu hiện lâm sàng theo từng thể tổn thương: Dạng có vảy (dạng tiết bã): Thường do Microsporum. Da dầu có từ 4 6 mảng rụng tóc, tròn, bầu dục, đường kính 2 - 6 cm, giới hạn không rõ, có phủ vảy trắng, xám, mịn, tóc bị xén đều còn 5mm, dễ nhổ, hay gặp ở trẻ em mẫu giáo và học sinh. Phát huỳnh quang xanh lá cây dưới ánh đèn Wood. Dạng nấm đen: Thương tổn là mảng rụng tóc tròn nhỏ ranh giới không rõ, số lượng nhiều, trong đó có sợi còn nguyên, có sợi bị xén ngắn còn 1 2mm, có sợi bị xén đến tận gốc. Nếu mãn tính thì chỉ là đám sẹo to. Thường do Trychophyton và Microsporum gây bệnh. -17- Dạng Kerion: do Trychophyton và Microsporum lây từ súc vật sang người. Nấm gõy viờm, da đầu sưng tấy đỏ, đóng vảy tiết. Cậy vảy ở mỗi lỗ chân lông mủ trào ra, lỗ chỗ như tổ ong, gọi là Kerion. Thể này gọi là Kerion de Celse. Dạng Favus: đây là dạng hiếm gặp, tổn thương là những chấm bé màu vàng đỏ, phát triển thành những vảy màu vàng lưu huỳnh, hình đĩa lõm, có mùi hôi như chuột chết. Có thể lan khắp đầu gõy húi vĩnh viễn. Chẩn đoán xác định dựa vào lâm sàng và cận lâm sàng. Cần chẩn đoán phân biệt với rụng tóc Pelade; Rụng tóc giang mai; Rụng tóc da dầu. 1.2.7. Bệnh viêm da cơ địa Tổn thương cơ bản của viêm da cơ địa ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ là mụn nước, ở trẻ lớn và người trưởng thành tổn thương là sẩn lichen hoá, dày da, chỉ khi phát cấp thì tổn thương mới có mụn nước. Mụn nước tiến triển qua các giai đoạn: Đỏ da: da vùng tổn thương đỏ, phù nề ranh giới không rõ, rất ngứa; Mụn nước và chảy nước: mụn nước đóng thành đám dày đặc; Đóng vảy tiết và cuối cùng là bong vảy da và da trở về bình thường không để lại sẹo. Khi tổn thương tiến triển lâu ngày, ngày càng sẫm màu tăng nhiễm cộm, bề mặt sự xỡ thô ráp, nền cứng cộm có hằn da nổi rõ gọi là lichen hoá. Ngoài ra, viêm da cơ địa còn một số đặc điểm khác như: Da khô tăng lên theo mùa đông, da dễ bị nhiễm trùng, viêm da bàn tay không đặc hiệu, nứt kẽ tai, viờm mụi, đục thuỷ tinh thể, dày sừng nang lông, đỏ mặt, vảy cá thông thường và dị ứng với len dạ và một số thức ăn. Biểu hiện lâm sàng của bệnh là ngứa rất dữ dội, ngứa thành từng cơn. Mất ngủ thường là hậu quả của ngứa khi tổn thương lan rộng. Tổn thương ở bất kỳ vùng da nào, tuy nhiên tuỳ theo từng thể lâm sàng mà đám tổn thương hay ở vị trí nào và thường là đối xứng hai bên. -18- Bệnh có thể hết ở lứa tuổi trẻ em hoặc có thể tái phát, kéo dài sang giai đoạn người lớn với nhiều hình thái lâm sàng. Biến chứng: Lichen hoá do gãi, cạo, chà xát, nhiễm trùng, chậm phát triển thể lực. Các thể lâm sàng: thể lâm sàng theo tuổi, theo tiến triển của bệnh. Viêm da cơ địa ở tuổi sơ sinh (Infant tile atopic dermatitis) gặp ở trẻ 2 tuần đến 2 tuổi. Thường gặp ở trẻ em bụ bẫm. Mới đầu ở mỏ, trỏn tạo thành hình móng ngựa, quanh miệng sau đó mới lan lên đầu, xuống cổ, lan ra toàn thân. Tổn thương là dát đỏ, có nhiều mụn nước, trợt, chảy dịch mạnh, nhiễm khuẩn thứ phát có mủ, vảy tiết, có thể kèm ỉa lỏng, viêm tai giữa thường gặp ở trẻ có tiền sử bố mẹ, anh chị em mắc bệnh dị ứng. Viêm da cơ địa ở tuổi trưởng thành có đặc điểm: Bị từ nhỏ, có tiền sử quá mẫn trong gia đình hoặc bản thân. Tổn thương là các sẩn, mảng lichen hoá đối xứng ở các nếp gấp, khoeo chân, khuỷu tay. Tiến triển từng đợt, theo mùa, dai dẳng, tái phát. Thỉnh thoảng có đợt cấp vượng lên. Mụn nước mọc thành đỏm trờn nền da đỏ, dỉ dịch. Phân theo tiến triển: thể cấp tính: Da đỏ, phù nề nhiều, chảy nhiều nước; thể bán cấp: Da còn đỏ, đỡ phù nề, đỡ chảy nước; thể mạn tính: Da dày, thâm da nhiễm cộm bong vảy và thể nhiễm khuẩn: Bên cạnh những tổn thương mảng da đỏ, mụn nước thành đỏm cũn cú những tổn thương là mụn mủ, vảy tiết do nhiễm khuẩn. 1.2.8. Bệnh da trong ngành nông, lâm nghiệp và chăn nuôi [57] 1.2.8.1. Bệnh da do ký sinh vật Loại ký sinh vật Pyemotes ventrico sống trên thân cây ngũ cốc, tự nuôi sống bằng những ấu trùng sống ký sinh trên các hạt ngũ cốc. Các loại ký sinh -19- này có thể tấn công vào người và súc vật để gây bệnh. Đối với người, đặc biệt lâm sàng khi bị bệnh là ngứa rất nhiều, tăng lên khi ra mồ hôi và đặc biệt là khi đắp chăn ấm trên giường. Triệu chứng cơ năng đó giống với bệnh ghẻ nên gọi là bệnh ghẻ ngũ cốc. Thương tổn cơ bản xuất hiện vài giờ sau khi bị đốt, biểu hiện bằng các sẩn phù giống như sẩn mày đay, kích thước khoảng 5mm đường kính, thường có mụn nước ở giữa. Một số trường hợp trước khi xuất hiện mụn nước, tại chỗ có một chấm xung huyết. Mụn nước lúc đầu trong sau trở nên đục. Do gói nờn xuất hiện các vết sước và các vết vẩy tiết nhỏ. Các thương tổn khu trú chủ yếu là ở phần hở. Có thể kèm theo một số các triệu chứng toàn thân như: cảm giác ớn lạnh, buồn nôn, sốt... Các loại ve (tiques) kí sinh trên súc vật và cả trên người trong các hoàn cảnh khác nhau: dạo chơi, săn bắn trong rừng, đào các đường hầm, chăn nuôi súc vật.v.v... Kích thước của các loại ve này chỉ to bằng hạt gạo, màu sắc giống như mầu kem trắng hoặc nâu. Khi bỏm lờn da người, chúng hút máu và khi no máu, kích thước căng phình gấp nhiều lần, sẽ rơi xuống đất. Tại vùng da bị đốt, có thể khắp cơ thể nhưng thường gặp nhất là ở thân mình và chân, xuất hiện những sẩn phù. Đau nhiều hoặc ít phụ thuộc vào loại ve, thường kèm theo ngứa, có thể xuất hiện chấm nhưng tồn tại lâu có khi đến hàng tháng. Viêm da do vĩ ấu trùng sán vịt. Bệnh xuất hiện ở nông dân làm việc trong các ruộng nước có thả vịt. Bệnh do loại ấu trùng có đuôi richobilarzia Evae sống trong cơ thể ốc. Vịt ăn ốc, có một thời gian loại ấu trùng này sống trong ruột vịt rồi theo phân vịt ra ngoài sống trong ruộng nước. Khi người làm việc ở ruộng sẽ bỏm lờn da người để gây bệnh. Bệnh phát triển nhiều nhất vào các mùa gặt, mùa cấy lúa hoặc mùa cắt cỏ. Đa số người xuống làm việc ở ruộng nước đều bị. Nếu nghỉ việc từ 5 - 7 ngày thì bệnh sẽ khỏi. Ngứa là triệu chứng sớm và bao giờ cũng có. Ngứa bắt đầu từ vài giờ cho đến nửa ngày sau khi xuống ruộng làm việc. Đến lúc mặt trời lên cao, -20- nước ruộng núng thỡ ngứa càng tăng lên dữ dội. Nếu nghỉ việc ngứa vẫn kéo dài đến 2 - 3 ngày hoặc 1 tuần sau. 1.2.8.2. Bệnh da do nhiễm khuẩn Bệnh thường gặp bao gồm các bệnh viêm da mủ như: viên nang lông, chốc nhọt, viêm quầng... Điều kiện thuận lợi để bệnh phát triển là vào vụ mùa, nông dân tập thể làm việc dưới trời nắng, ra mồ hôi nhiều kết hợp với bụi, da bị sây sước trong lao động nên vi khuẩn dễ xâm nhập vào da để gây bệnh. Biểu hiện lâm sàng là những mụn mủ trên da thường hoặc khu trú ở nang lông. 1.2.8.3. Bệnh da do tiếp xúc với thực vật Tiếp xúc với cây lúa và cây ngô: Về mùa thu hoạch lúa và ngô có thể gặp những trường hợp viêm da. Thường xuất hiện ngứa và nóng ran ở vùng da bị tổn thương. Vị trí khu trú thường thấy ở vùng da hở. Tuỳ theo mức độ, có thể xuất hiện những dát đỏ, những ban mày đay, các thương tổn không có khuynh hướng liên kết với nhau và có tính đa dạng: ban mày đay, mụn nước và bọng nước. Ngứa là triệu chứng chủ quan thường gặp, có khi ngứa dữ dội. Do ngứa gói cỏc mụn nước và bọng nước vỡ ra, tạo thành các vết trợt về sau khô và đóng vảy tiết. Ngoài ra cũn cú cỏc vết sước da dài do gãi. Tiếp xúc với cây hoa, cây cỏ, cây cảnh: các loại như hoa cúc, hoa tulip, cây artiso, cây cỏ hạc... có thể gây cho người làm vườn các loại viêm da khác nhau như bệnh chàm, bệnh da có bọng nước, có mụn mủ, bệnh mày đay. 1.2.8.4. Bệnh do hoá chất trong nông nghiệp [53] [55] Các chất hoá học dùng trong nông nghiệp ngày càng nhiều như phân hoá học, thuốc trừ sâu. Vì vậy khi tiếp xúc với các chất trên có thể bị viêm da, nhiễm độc dị ứng, đỏ da toàn thân.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan