LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát từ khi xuất hiện đến nay luôn là một trong những vấn
đề được đề cập đến rất nhiều trong mỗi nền kinh tế cũng như trong
nền kinh tế toàn cầu. Là một trong bốn đỉnh của “tứ giác mục tiêu”,
việc kiềm chế lạm phát đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia bởi nó tác động trực tiếp đến lợi ích của các cá
nhâ, tổ chức cũng như chính phủ.
Việt Nam sau khi thống nhất đất nước đã trải qua những thời kỳ
“thăng trầm” của lạm phát. Từ chỗ chưa được chính thức thừa nhận
trong nền kinh tế những năm đầu giải phóng đến cơn bão siêu lạm
phát những năm 1986-1988 sau đó “im lặng” trong một giai đoạn
giảm phát, lạm phát lại bùng trở lại ở nước ta sau khi mở cửa nền kinh
tế, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Năm 2007, một năm sau khi trở thành thành viên chính thức của
WTO, lạm phát phi mã đánh dẫu sự trở lại bằng việc đưa chỉ số giá
tiêu dùng lên 12,6%. Năm tháng đầu năm 2008, chỉ số lạm phát đã
vượt qua cả mục tiêu lạm phát cả năm do Quốc hội đề ra và tỷ lệ lạm
phát của cả năm ngoái. Dường như nền kinh tế đang tăng trưởng quá
nóng và không hấp thu được hết những cơ hội của nó. Bên cạnh đó là
những bất cập trong hệ thống tài chính tiền tệ cũng như sự thiếu đồng
bộ trong các chính sách của Chính phủ đã dẫn tới tình trạng lạm phát
như hiện nay. Yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu xác định được đúng
nguyên nhân lạm phát ở nước ta để có thể “kê đơn đúng bệnh” và đưa
ra những dự đoán trong thời gian tới nhằm chuẩn bị một cách tốt nhất
cho nền kinh tế trong giai đoạn mở cửa hơn nữa.
1
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó và qua nghiên cứu tìm hiểu về
vấn đề này trong quá trình học tập cũng như trong thực tế, em đã
quyết định chọn đề tài: “Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời
gian qua – Dự báo trong thời gian tới và đề xuất một số giải pháp” cho
khóa luận tốt nghiệp của mình.
Khóa luận được hình thành trên cơ sở xác định:
♦ Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát
- Nghiên cứu thực trạng và những nguyên nhân dẫn đến lạm phát
ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Nhìn nhận các giải pháp
của chính phủ và rút ra những thành công cũng như hạn chế của
các giải pháp đó. Cuối cùng đưa ra những dự đoán về xu thế của
lạm phát trong thời gian tới.
- Đễ xuất một số giải pháp
♦ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài vấn đề lạm phát trong nền kinh
tế
- Phạm vi nghiên cứu: tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời
gian gần đây (từ sau giải phóng đến nay)
♦ Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp sử dụng trong khóa luận này
là phương pháp tiếp cận hệ thống duy vật biện chứng, logic và lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phương pháp
tiếp cận thực tế các vấn đề lý luận, phân tích, tổng hợp, so sánh, mô
hình hóa và sơ đồ hóa dựa trên cơ sở các số liệu thực tế.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được trình bày theo 3
chương:
2
Chương I: Tổng quan về lạm phát
Chương II: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam và các chính sách của
Chính phủ
Chương III: Xu hướng lạm phát của Việt Nam và các giải pháp kiềm
chế lạm phát trong thời gian tới
Trong quá trình thực hiện khoá luận này tác giả đã nhận được sự
giúp đỡ nhiệt tình của:
- Thư viện Quốc gia Hà Nội
- Thư viên trường Đại học Ngoại Thương
Và đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo cùng những chỉ
bảo cặn kẽ của Tiến sỹ Tăng Văn Nghĩa, Khoa Quản trị kinh doanh,
trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn những giúp đỡ quý báu đó.
Ngày 3 tháng 6 năm 2008
Sinh viên
thực hiện
Nguyễn Hương Trà
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
I. Khái niệm
3
1. Định nghĩa lạm phát
Lạm phát là một khái niệm kinh tế đã xuất hiện từ lâu, gắn liền
với sự ra đời và phát triển của tiền tệ. Quá trình phát triển tiền tệ ghi
nhận nhiều sự thay đổi trong cách định nghĩa lạm phát, từ việc giảm
hàm lượng kim loại so với giá trị danh nghĩa của tiền khi mà tiền tệ
còn tồn tại chế độ bản vị kim loại, cho đến khi xuất hiện các lý thuyết
về lạm phát và mỗi lý thuyết có một cách nhìn nhận và đánh giá riêng
về hiện tương kinh tế này.
Các nhà kinh tế học theo trường phái “lạm phát tiền tệ”, đại biểu
tiêu biểu là Keynes và Friedman cho rằng “lạm phát là hiện tượng tiền
giấy thừa so với nhu cầu lưu thông hàng hoá và dịch vụ”. Tiền giấy
mất giá nên giá cả tăng lên, và “lạm phát ở bất kỳ nơi nào luôn là một
hiện tượng tiền tệ với nghĩa là, nó được và có thể được tạo ra chỉ bằng
cách tăng lượng tiền nhanh hơn so với tăng sản lượng”
Trường phái “lạm phát giá cả” hay quan điểm lạm phát của nhà
kinh tế học nổi tiếng Paul A. Samuelson và William D. Nordhaus cho
rằng lạm phát là việc giá cả hàng hoá tăng lên, không kể trong dài hạn
hay ngắn hạn, mang tính đột xuất hay theo chu kì [21].
Vậy lạm phát là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau nhưng hầu
hết các nhà kinh tế học đều đưa ra một đặc điểm chung về lạm phát đó
là “hiện tượng giá cả tăng nhanh, liên tục và kéo dài làm cho tiền tệ
mất giá so với hàng hóa và dịch vụ”
Lạm phát là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng
hóa tiền tệ, còn sản xuất hàng hóa và lưu thông tiền tệ thì còn lạm
phát. Vấn đề chỉ là kiềm chế lạm phát ở mức độ nào là hợp lý, bởi lạm
phát ở mức hợp lý còn có tác dụng kích thích sản xuất và tiêu dùng.
4
Bên cạnh khái niệm lạm phát, ta còn thường gặp khái niệm giảm
phát và thiểu phát, vậy đâu là sự khác nhau giữa hai hiện tượng này?
Giáo sư David N. Hyman cho rằng giảm phát là sự suy giảm mức
giá chung của tổng thể các hàng hoá và dịch vụ [18]. Còn hai nhà kinh
tế học nổi tiếng P.A Samuelson và W.D. Nordhaus cũng có quan điểm
tương tự: giảm phát là hiện tượng trái ngược với lạm phát, giảm phát
xảy ra khi mức giá chung của các hàng hoá, dịch vụ giảm.
Vậy bản chất của giảm phát là sự suy giảm liên tục của mức
giá chung của các hàng hoá, dịch vụ. Khi giảm phát xảy ra, sức
mua của tiền tệ tăng.
Giảm phát là hiện tượng ít gặp đối với các nền kinh tế nên người
ta dễ nhầm lẫn khái niệm này với thiểu phát. Để phân biệt, chúng ta sẽ
xem xét khái niệm thiểu phát. Theo thuyết "lạm phát giá cả", lạm phát
là sự tăng lên của giá cả nói chung còn giảm phát là sự giảm của giá
cả nói chung, như vậy khái niệm thiểu phát không tồn tại. Thuyết "lưu
thông tiền tệ" mà những đại diện tiêu biểu là Milton Friedman, J.
Bodin lại cho rằng việc đưa quá nhiều tiền vào lưu thông làm giá cả
tăng gây ra lạm phát. Còn nếu lượng tiền trong lưu thông quá ít khiến
giá cả giảm gọi là thiểu phát. Khi xảy ra thiểu phát, chỉ số giá cả giảm
tức là tốc độ tăng của chỉ số giá là âm. Giảm phát là trường hợp xảy ra
ngược lại đối với lạm phát. Khi chỉ số giá các năm sau càng cao hơn
năm trước thì lạm phát xuất hiện; nếu chỉ số giá ở các thời điểm
nghiên cứu đều cao hơn thời điểm được chọn làm mốc, nhưng càng về
sau chỉ số giá càng thấp hơn thời điểm trước đó và đây là biểu hiện
của giảm phát. Trongthời kì thiểu phát, chỉ số giá không những càng
5
về sau càng giảm mà còn thường xuyên ở mức thấp hơn so với mức
giá năm gốc.
2. Quy mô lạm phát
Người ta thường chia lạm phát thành 3 loại tùy theo mức độ của
tỷ lệ lạm phát:
Lạm phát vừa phải (Moderate inflation) là loại lạm phát mà
tốc độ tăng giá cả chậm, ở mức dưới một con số (dưới 10%) mỗi năm.
Khi đó, tiền tệ mất giá không nhiều và người ta tin tưởng vào giá trị
của đồng tiền. ở hầu hết các nền kinh tế thị trường, lạm phát vừa phải
luôn tồn tại. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động
đáng kể đối với nền kinh tế.
Lạm phát phi mã (Galloping inflation) là lạm phát xảy ra khi
giá cả tăng với tốc độ 2 hoặc 3 con số (30%, 50%, 100%, 500% . . .).
Khi đó, tiền mất giá trị một cách nhanh chóng và người ta chỉ nắm giữ
một lượng tiền tối thiểu để đảm bảo cho các giao dịch hàng ngày. Loại
lạm phát này khi ở đỉnh cao sẽ gây ra những hiệu quả kinh tế nghiêm
trọng.
Siêu lạm phát (Hyper inflation) là hiện tượng tốc độ tăng mức
giá hết sức nhanh chóng, có khi tới vài trăm phần trăm một tháng hay
vài nghìn phần trăm mỗi năm. Siêu lạm phát không thể kéo dài trong
quá nhiều năm do tiền gần như mất hết giá trị, các doanh nghiệp
không thể hoạt động được và phá sản, người dân không dùng tiền
trong các giao dịch nữa và quốc gia gặp phải tình trạng này buộc phải
cải tổ chính sách kinh tế nước mình và tìm cách chấm dứt lạm phát.
3. Đo lường lạm phát
6
Để đánh giá được tác động của lạm phát đến nền kinh tế, từ đó
đưa ra các chính sách phù hợp trong từng giai đoạn lạm phát, ta cần
phải đưa ra được công thức đo lường chỉ số lạm phát. Tỷ lệ lạm phát
là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự
biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng của lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát được tính như sau:
gp =
In
1 100%
I p
Trong đó: gp là tỷ lệ lạm phát (%)
In là chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu
Ip là chỉ số giá cả của thời kỳ gốc
Trong thực tế, tỷ lệ lạm phát thường được biểu hiện qua các chỉ số giá
cả:
▪ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI- Consumer Price Index) được sử dụng
rộng rãi nhất để tính tỷ lệ lạm phát. CPI đo lường mức giá bình quân
gia quyền của một nhóm hàng hoá, dịch vụ trong một khoảng thời
gian. Số lượng, chủng loại hàng hoá nào được lựa chọn lại tuỳ theo
quy định của từng nước. Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng, người ta
phải thực hiện các bước sau:
1. Cố định giỏ hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định
lượng hàng hóa, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển
hình mua.
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ
hàng hóa tại mỗi thời điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hóa bằng cách dùng số
lượng nhân với giá cả của từng loại hàng hóa rồi cộng lại.
7
4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá
tiêu dùng bằng công thức sau:
Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ
CPIt = 100 x t
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở
Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán
chỉ số giá tiêu dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu
của từng nhóm hàng hoá, dịch vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó
quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ
sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI còn được
tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy
theo mục đích sử dụng.
Tuy nhiên, khi sử dụng chỉ số giá tiêu dùng, ta cũng gặp phải
một số vấn đề. Do sử dụng giỏ hàng hoá cố định nên khi tính toán CPI
có ba vấn đề chính dẫn đến hạn chế của CPI sau đây:
Thứ nhất, CPI không phản ánh được độ lệch thay thế vì nó sử
dụng giỏ hàng hoá cố định. Khi giá cả một mặt hàng này tăng nhanh
hơn so với các mặt hàng khác thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng ít
tiêu dùng những mặt hàng đã trở nên quá đắt đỏ mà tiêu dùng nhiều
những hàng hoá đỡ đắt đỏ hơn. Yếu tố này làm CPI đã đánh giá cao
hơn thực tế mức giá. Ví dụ khi thịt gà trở nên mắc hơn do dịch cúm thì
người tiêu dung sẽ chuyển sang ăn cá biển với mục đích là cung cấp
chất đạm cho cơ thể.
Thứ hai, CPI không phản ánh được sự xuất hiện của những hàng
hoá mới vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong khi nếu có hàng hoá
mới xuất hiện thì một đơn vị tiền tệ có thể mua được các sản phẩm đa
dạng hơn. Ví dụ ở TP.HCM khi mọi người đều có điện thoại di động,
8
giá của mặt hàng này đang giảm theo thời gian nhưng nó lại không
nằm trong rổ hàng hóa. CPI không phản ánh được sự gia tăng sức
mua này của đồng tiền nên vì thế lại đánh giá mức giá cao hơn thực tế.
Thứ ba, CPI không phản ánh được sự thay đổi của chất lượng
hàng hoá vì nếu mức giá của một hàng hoá cụ thể nào đó tăng nhưng
chất lượng cũng tăng tương ứng thậm chí tăng hơn thì trên thực tế
mức giá không tăng. Chất lượng hàng hoá dịch vụ nhìn chung đều có
xu hướng được nâng cao nên CPI cũng đã phóng đại mức giá.
Ở nước ta hiện nay, việc tính toán CPI do TCTK đảm nhiệm.
Quyền số để tính CPI được xác định năm 2000 và bắt đầu áp dụng từ
tháng 7 năm 2001. Quyền số này dựa trên kết quả của hai cuộc điều
tra là Điều tra mức sống dân cư Việt nam 1997-1998 và Điều tra kinh
tế hộ gia đình năm 1999. Điều đáng chú ý là quyền số của nhóm hàng
LTTP chiếm tới 47,9% trong khi Văn hoá - Thể thao - Giải trí chỉ
chiếm 3,8%.
Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng được TCTK rà soát 5 năm
một lần để cập nhật theo phương pháp luận quốc tế và thực tế của
nước ta. Từ 1/05/2006, TCTK đã quyết định cập nhật phương pháp
tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cho giai đoạn 2006-2010 tập trung vào
2 nội dung chính, bổ sung danh mục mặt hàng, dịch vụ tiêu dùng sử
dụng để điều tra giá cho phù hợp với thị trường tiêu dùng của người
dân trong giai đoạn hiện nay.
Theo đó, danh mục điều tra giá tiêu dùng đã nâng từ 396 mặt
hàng (giai đoạn 2000-2005) lên 496 mặt hàng. Cùng với việc bổ sung
danh mục, TCTK cũng tiến hành cập nhật quyền số tính CPI. Quyền
số được sử dụng để tính CPI là số liệu về cơ cấu tiêu dùng các nhóm
9
mặt hàng, dịch vụ tiêu dùng cho đời sống hàng ngày của người dân
(sử dụng kết quả điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình của TCTK).
Với quyền số mới, tỷ trọng tiêu dùng lương thực thực phẩm của người
dân bình quân cả nước giảm từ 47,9 % trong tổng chi tiêu cho đời
sống hàng ngày của người dân (giai đoạn 2000-2005) xuống còn
42,8% giai đoạn 2006-2010.
Ở Việt Nam, chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng được tính theo 3
gốc so sánh: tháng trước, tháng 12 năm trước và cùng tháng năm
trước. TCTK đã tổ chức điều tra, tính chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng
theo 3 gốc so sánh nói trên. Bên cạnh đó, TCTK cũng đồng thời tính
chỉ số giá tiêu dùng hàng quý và cả năm với gốc so sánh là cùng kỳ
năm trước để cung cấp theo yêu cầu của một số đối tượng sử dụng.
Việc tính chỉ số giá tiêu dùng theo các gốc so sánh nói trên đã đáp ứng
được yêu cầu điều hành và quản lý của các ngành, các cấp và của
nhiều đối tượng sử dụng.
Tuy nhiên, việc xác định chỉ tiêu kế hoạch lạm phát hàng năm
theo chỉ số giá tiêu dùng của tháng 12 năm báo cáo so với tháng 12
năm trước và trên cơ sở đó công bố số liệu thực hiện cả năm theo nội
dung này là chưa phù hợp với thông lệ quốc tế (các nước đều công bố
số liệu cả năm là chỉ số giá tiêu dùng cả năm so với năm trước). Với
phương pháp tính này, chỉ số CPI bị tác động rất lớn bởi giá cả của
tháng 12. Đặc biệt, với đặc thù của Việt Nam có dịp Tết Nguyên đán,
tháng 12 là tháng áp Tết, nên giá cả luôn có xu hướng tăng cao. Do
vậy, nếu so với tháng 12 hàng năm, thì tốc độ tăng của các tháng sau
đó thường là thấp, nhưng khi giá cả các tháng sau Tết hạ xuống, thì
tốc độ tăng giá của các tháng sau đó lại cao. Các nước đã không dùng
10
phương pháp tính so với tháng 12 hàng năm, bởi độ chính xác không
cao.
▪ Chỉ số giá sản xuất hay chỉ số giá bán của người sản xuất (PPIProducer Price Index) phản ánh sự biến động của mức giá bán buôn
hay giá cả của đầu vào (chi phí sản xuất). Chi phí đầu vào biến đổi sẽ
dẫn tới những thay đổi về xu thế giá cả trên thị trường.
▪ Chỉ số giảm phát GDP, còn gọi là Chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP
-GDP deflator) là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung
của tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều
chỉnh GDP cho biết một đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có
mức giá bằng bao nhiêu phần trăm so với mức giá của năm cơ sở. (Số
liệu thống kê của Việt nam công bố đang tính GDP theo giá của năm
1994). Người ta tính chỉ số giảm phát GDP theo công thức sau:
Chỉ số giảm phát GDP = 100 x
GDP danh nghĩa
GDP thực tế
Khác với CPI, DGDP được tính trên giỏ hàng hoá thay đổi do vậy
nó phản ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau.
Mặc dù vậy nó lại không phản ánh được sự giảm sút phúc lợi của
người tiêu dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít hơn một loại hàng
nào đó. Ví dụ: do sau dịch cúm gà, giá gà trở nên quá đắt so với giá
thịt lợn nên người tiêu dùng sẽ mua ít thịt gà hơn và mua nhiều thịt
lợn hơn. Phúc lợi của người tiêu dùng đã giảm xuống do họ phải tiêu
dùng thịt gà ít hơn nhưng DGDP không phản ánh được điều này cho dù
nó phản ánh được sự thay thế giữa thịt gà và thịt lợn.CPI chỉ phản ánh
mức giá của hàng tiêu dùng còn DGDP phản ánh giá của cả hàng hoá do
doanh nghiệp, chính phủ mua. Vì thế DGDP được coi là phản ánh đúng
11
hơn mức giá chung.DGDP chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá
sản xuất trong nước (vì GDP chỉ tính sản phẩm trong nước) còn CPI
phản ánh mức giá của cả hàng hoá nhập khẩu. Ví dụ: khi giá một
chiếc xe ô tô Toyota nhập khẩu tăng thì nó được phản ánh ở CPI
nhưng không được phản ánh ở DGDP.Tuy nhiên, trên thực tế, số liệu
thống kê cho thấy sự khác biệt giữa CPI và DGDP không lớn.
II Nguyên nhân của lạm phát
1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cầu kéo (Demand - pull inflation) xảy ra khi tổng cầu
tăng nhanh hơn so với sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, kéo theo
sự tăng lên của mức giá ở điểm cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu.
Có 3 nguyên nhân làm cho tổng cầu tăng là: sự gia tăng cung tiền,
tăng chi tiêu chính phủ và xuất khẩu tăng. Bản chất của lạm phát cầu
kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hàng hóa hạn
chế trong điều kiện nền kinh tế đã đạt cân bằng trên thị trường lao
động. Có thể thấy rõ hơn cơ chế lạm phát cầu kéo qua mô hình dưới
đây.
Hình 1: Lạm phát cầu kéo
P
(Mức giá)
AS 2
AS 1
AS 0
P3
P2
AD2
P1
P0
12
Q*
AD1
AD0
,
Q
Q
(Sản lượng)
Trong ngắn hạn, đường tổng cung AS (Aggregate supply) mới
đầu nằm ngang và sẽ dốc ngược lên khi vượt quá mức sản lượng tiềm
năng Q*. Điều này là do khi chưa đạt mức sản lượng tiềm năng, một
sự thay đổi nhỏ về giá cả của đầu ra (hàng hoá, dịch vụ) cũng khuyến
khích được các hãng tăng nhanh sản lượng sản xuất ra để đáp ứng sự
tăng lên của nhu cầu, thu nhiều lợi nhuận hơn. Khi sản lượng của nền
kinh tế là Q’ > Q*, chi phí đầu vào đã kịp thời điều chỉnh tăng lên, các
hãng không còn động lực để tăng cao sản lượng nữa, do đó dù giá có
tăng nhiều nhưng sản lượng vẫn không tăng đáng kể hay đường AS có
độ dốc lớn. Lúc đó, cầu tăng mạnh, đường AD0 dịch chuyển lên trên
đến vị trí mới là AD1 và mức giá tăng nhanh từ P0 đến P1. Tổng cầu
tăng liên tục làm cho đường tổng cầu liên tiếp dịch chuyển về phía bên
phải và mức giá không ngừng tăng lên, tức là xảy ra lạm phát cầu kéo.
Khi đường cầu dịch chuyển đến AD1, nền kinh tế ở trạng thái
vượt quá trạng sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công, người
lao động gây áp lực tăng lương làm cho tổng cung giảm, đường tổng
cung AS0 dịch chuyển về bên trái tới vị trí AS 1. Mức giá tăng tiếp từ
P1 đến P2, nền kinh tế lại chuyển về trạng thái đạt mức sản lượng tiềm
năng và toàn dụng nhân công. Cứ như thế, sau khi đường tổng cầu
dịch chuyển về bên phải thì đường tổng cung lại dịch chuyển về bên
trái kéo theo mức giá tăng liên tục.
13
2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy (Cost-push inflation) bắt nguồn từ sự gia
tăng chi phí do các nguyên nhân chủ yếu như chi phí tiền lương tăng,
giá nguyên vật liệu tăng, chính sách thuế và các khoản phải nộp khác
tăng; công nghệ sản xuất lạc hậu, cơ chế quản lý kém hiệu quả đẩy chi
phí sản xuất tăng lên. Mô hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn ra
lạm phát chi phí đẩy.
Hình 2: Lạm phát chi phí đẩy
AS 2
P
(Mức giá)
AS 1
AS 0
P2
P1
P0
AD1
AD0
,
*
Q Q
Q
(Sản lượng)
Ban đầu đường tổng cầu là AD 0, đường tổng cung là AS0. Khi
chi phí đầu vào tăng (ví dụ giá dầu lửa tăng), các hãng giảm mức cung
hàng hoá, dịch vụ và đường tổng cung dịch chuyển sang tới vị trí AS 1,
sản lượng giảm xuống còn Q’, đẩy mức giá tăng từ P0 lên P1. Hiện
tượng mức giá tăng liên tục, đồng thời sản lượng (hay GDP thực tế)
suy giảm được gọi tình trạng lạm phát đình trệ hay đình lạm
(stagflation); kèm theo đó là thất nghiệp gia tăng.
3. Lạm phát dự kiến (Anticipated inflation)
14
Trong nền kinh tế tiền tệ, trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã,
lạm phát vừa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả
trong trường hợp này tăng đều đều với một tỷ lệ tương đối ổn định. Tỷ
lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ (inertial inflation) và vì
mọi người đã có thế dự tính trước mức độ của nó nên gọi là lạm phát
dự kiến.
Mọi hoạt động kinh tế sẽ trông đợi và ngắm vào nó để tính toán
điều chỉnh (ví dụ điều chỉnh lãi suất danh nghĩa, tiền lương danh
nghĩa, giá cả trong các hợp đồng kinh tế, các khoản chi, tiêu ngân
sách…)
Mô hình dưới đây cho ta thấy lạm phát dự kiến xảy ra như thế
nào. Đó là đường AD và AS dịch chuyển lên trên cùng một tốc độ. Vì
lạm phát đã được dự kiến nên chi phí sản xuất (kể cả tiền lương) và cả
nhu cầu chi tiêu cũng được điều chỉnh cho phù hợp với tốc độ lạm
phát. Như vậy sản lượng vẫn giữ nguyên nhưng giá cả đã tăng lên theo
dự kiến.
Hình 3: Lạm phát dự kiến
P
P2
AS2
E2
AS1
P1
P0
E1
AD2
AD1
AD0
E0 Y
15
*
AS0
Y
Tỷ lệ lạm phát dự kiến một khi đã hình thành thì trở nên ổn định
và tự duy trì trong một thời gian. Những cú sốc mới trong nền kinh tế
(có thể từ trong nước hoặc từ nước ngoài) sẽ đẩy lạm phát khỏi trạng
thái ỳ.
4. Lạm phát do xuất nhập khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc
sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm
cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu.
Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập
khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá
như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền
trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng.
Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
Bên cạnh đó còn có một số loại lạm phát như:
- Lạm phát do cơ cấu: ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền
công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không
hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao
động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận,
ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm.
Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
-
Lạm phát tiền tệ: Loại lạm phát này xảy ra khi tốc độ tăng
trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền
kinh tế. Đơn giản hơn là tiền trong lưu thông tăng nhanh hơn số
lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Ví
dụ như tốc độ tăng trưởng cung tiền là 10% nhưng tốc độ tăng
16
trưởng thực của nền kinh tế 7% thì lạm phát tiền tệ là 3%. Loại
lạm phát này thường xảy ra tại các nước đang phát triển khi các
nước này theo đuổi cơ chế áp chế tài chính (Financial
repression) hoặc trong trường hợp quốc gia đang theo đuổi chính
sách tiền tệ mở rộng. Áp chế tài chính là tình trạng ngân hàng
trung ương tài trợ cho thâm hụt ngân sách chính phủ bằng cách
in tiền, quá nhiều tiền trong lưu thông vượt quá tốc độ tăng
trưởng thực sẽ dẫn đến lạm phát. Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ
kích thích tổng cầu hang hóa dịch vụ trong nền kinh tế, khi tốc
độ tăng trưởng tổng cầu cao hơn tốc độ tăng trưởng tổng cung,
thì cũng dẫn đến lạm phát.
- Lạm phát đẻ ra lạm phát: khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với
dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng,
nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng
cung, gây ra lạm phát.
III. Mối quan hệ giữa lạm phát với tiền tệ, lãi suất và thất nghiệp
1. Mối quan hệ giữa lạm phát và tiền tệ
Khi nghiên cứu về lý thuyết tiền tệ, ta đã biết dạng thức MS =
Md (i, Y) khi thị trường tiền tệ cân bằng. Xét trong dài hạn, lãi suất
thực tế (i) sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng nghĩa là ổn định (Y
đạt tiềm năng), cầu tiền thực tế là không đổi và do vậy MS cũng sẽ
không thay đổi. Điều đó có nghĩa là nếu lượng cung tiền danh nghĩa
(M) tăng lên thì giá cả (P) cũng tăng với tỷ lệ tương ứng, nói cách
khác tỷ lệ lạm phát sẽ bằng tỷ lệ tăng tiền. Như vậy, lạm phát là một
hiện tượng tiền tệ. Điều này xảy ra trong thực tế khi nền kinh tế gặp
phải cơn sốc (ví dụ giá đầu vào tăng lên) làm cho lượng tiền thực tế
17
nhất thời giảm xuống. Chính phủ cần phải tăng mức cung tiền danh
nghĩa để đảm bảo nhu cầu thực tế. Nhưng vì sản lượng và việc làm
không đổi, lãi suất thực tế cũng không đổi, chỉ có mức cung tiền danh
nghĩa, giá cả cũng như tiền lương danh nghĩa tăng lên. Lý thuyết này
dựa trên giả định mức cầu tiền thực tế không đổi, một giả định chưa
có cơ sở chắc chắn và chưa phù hợp với thực tế. Kết quả nghiên cứu
trong thời kỳ dài hạn (30 năm) ở các nước phát triển đã chỉ ra rằng sự
thay đổi của lãi suất và thu nhập đã dẫn đến cầu tiền thực tế thay đổi.
Vì vậy tốc độ tăng tiền danh nghĩa và tốc độ lạm phát rất khác nhau
giữa các nước. Tốc độ tăng tiền ở Mỹ là thấp nhất trong các nước phát
triển nhưng tốc độ lạm phát còn cao hơn một số nước. Tốc độ tăng
tiền của Nhật Bản gấp đôi của Pháp nhưng tốc độ lạm phát lại thấp
hơn của Pháp.
Tuy nhiên lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng không có cuộc lạm
phát cao nào mà không có sự tăng trưởng mạnh mẽ về tiền tệ. Lượng
tiền tăng càng nhanh thì lạm phát càng cao và bất kỳ một chính sách
vĩ mô nào giảm được tốc độ tăng tiền cũng dẫn đến giảm tỷ lệ lạm
phát và điều này đặc biệt phù hợp với thời kỳ ngắn hạn.
Khi ngân sách thâm hụt lớn hơn các chính phủ có thể in thêm
tiền để trang trải , lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân
gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới lại
nảy sinh đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục
tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu
lạm phát. Tuy nhiên các chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách
vay dân qua bán tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm
nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài,
18
số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in
thêm tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc
chắn.
2. Mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
Lãi suất thực tế thường ít thay đổi và ở mức mà cả người cho
vay và người đi vay đều có thể chấp nhận được. Nếu khác đi sẽ tạo ra
mức dư cầu hoặc mức dư cung và sẽ đẩy lãi suất này về mức ổn định.
Nhưng lãi suất danh nghĩa lại biến đổi theo lạm phát. Khi lạm phát
thay đổi, lãi suất danh nghĩa sẽ thay đổi để duy trì lãi suất thực tế ở
mức ổn định. Vậy lã suất thực tế = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát.
Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên, lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí
cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc
biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng
mức độ gửi tiền vào ngân hàng, gửi quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị
trường để mua về mọi hàng hóa có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng
cung cầu trên thị trường hàng hóa và tiếp tục đẩy giá lên cao.
3. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Ngày nay, khi đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất
nghiệp, người ta thường sử dụng đường cong Phillip, tên nhà kinh tế
học người New Zealand, người đặt nền móng cho việc nghiên cứu mối
quan hệ này từ năm 1958. Tuy nhiên, đường cong Phillip hiện đại
khác với đường Phillip ban đầu ở chỗ: đường Phillip hiện đại phản
ánh quan hệ giữa lạm phát giá cả và thất nghiệp chứ không phải giữa
lạm phát tiền lương và thất nghiệp; đường Phillip hiện đại có tính đến
tỷ lệ lạm phát dự kiến cũng như cú sốc cung. Trong phân tích sau đây,
19
chúng ta sẽ sử dụng đường cong Phillip hiện đại cho phù hợp với thực
tiễn kinh tế các nước.
3.1. Trong ngắn hạn
Đường cong Phillip trong ngắn hạn cho thấy mối quan hệ giữa
lạm phát và thất nghiệp khi tỷ lệ lạm phát dự kiến của nền kinh tế ở
một mức nhất định. Đến đây, cần nói qua về khái niệm tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên. Đó là tỷ lệ thất nghiệp khi thị trường lao động ở trạng
thái cân bằng. Số người thất nghiệp lúc đó bằng tổng số người thất
nghiệp tự nguyện. Trong ngắn hạn, quan hệ giữa lạm phát và thất
nghiệp là tỷ lệ nghịch, tức là có thể đánh đổi lạm phát cao để lấy thất
nghiệp thấp. Nếu lạm phát tăng cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (ei) thì
thất nghiệp sẽ giảm xuống thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (U N) và
ngược lại. Đường Phillip ngắn hạn sẽ dịch chuyển khi một trong hai
yếu tố tỷ lệ lạm phát dự kiến hoặc tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thay đổi.
Khi tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng từ UN đến UN1 thì đường Phillip mới
là là đường (P1). Trong trường hợp tỷ lệ lạm phát dự kiến giảm xuống
ei’, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên không đổi thì đường Phillip dịch chuyển
sang (P') (xem hình 4).
Hình
4: Đường
dài đánh
hạn
Đường Phillip
ngắn
hạnPhillip
chỉ ngắn
thể hạn
hiệnvà sự
đổi giữa thất
nghiệp
các cơn sốt cầu (cầu tăng dẫn đến giá tăng
Tỷ lệ và
lạm lạm
phát phát khi(Pcó
)
(P)
1
cao, sản xuất tăng và thất nghiệp giảm); còn khi xuất hiện các cơn sốt
cung, chi phí sản xuất tăng, sản xuất
Đường
bị Phillip
thu hẹp
dài hạn
làm cho giá cả tăng và
thất nghiệp cũng tăng.
ei
Đường Phillip ngắn hạn
ei'
(P')
20
UN
UN1
Tỷ lệ thất nghiệp
- Xem thêm -