Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở việt nam hiện nay

.PDF
47
36
91

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRIỆU THỊ LINH TÌNH CẢM THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC HÀ NỘI – 2016 77 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRIỆU THỊ LINH TÌNH CẢM THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60 22 03 01 Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. Nguyễn Thu Nghĩa Chủ tịch hội đồng Giảng viên hƣớng dẫn PGS. Nguyễn Thu Nghĩa PGS. TS Nguyễn Anh Tuấn HÀ NỘI – 2016 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Triết học: “Tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Hà Nội, ngày 9 tháng 12 năm 2016 Tác giả luận văn Triệu Thị Linh 2 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thu Nghĩa - người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội những người đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp những người đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn Thạc sĩ. Hà Nội, ngày 9 tháng 12 năm 2016 Tác giả luận văn Triệu Thị Linh 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................0 CHƢƠNG 1.......................................................................................................17 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH CẢM THẨM MỸ VÀ ................17 HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC ..............................................................................17 1.1. Tình cảm thẩm mỹ ....................................................................................17 1.1.1.Quan niệm về tình cảm thẩm mỹ trong lịch sử mỹ học .............................17 1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của tình cảm thẩm mỹ .......................................20 1.2. Hoạt động âm nhạc ...................................................................................28 1.2.1 Khái niệm, đặc trưng và vai trò của âm nhạc...........................................28 1.2.2. Các hoạt động âm nhạc ...........................................................................35 1.2.2.3 Hoạt động đánh giá âm nhạc .................................................................38 1.3. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc .....................39 1.3.1. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo âm nhạc ..........40 1.3.2. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động thưởng thức âm nhạc ....41 1.3.3. Vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động đánh giá âm nhạc .........43 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1.....................................................................................46 CHƢƠNG 2 ......................................................................................................47 TÌNH CẢM THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC ..................47 Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ..................47 2.1. Một số nhân tố tác động đến tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay ...............................................................................47 2.2. Thực trạng của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay ....................................................................................................54 2.2.1. Một số biểu hiện tích cực của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó ............................................54 2.2.2. Một số biểu hiện tiêu cực của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó ............................................63 4 2.3. Một số giải pháp cơ bản bồi dƣỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay................................................................75 2.3.1. Bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc gắn với việc nâng cao nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc ..................................................................75 2.3.2. Bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc gắn với việc giáo dục thẩm mỹ âm nhạc.................................................................................77 2.3.3. Bồi dưỡng và phát triển tình cảm th ẩm mỹ ở cả ba chủ thể thẩm mỹ : chủ thể sáng tạo, chủ thể thưởng thức và chủ thể đánh giá âm nhạc ................80 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.....................................................................................83 KẾT LUẬN .......................................................................................................84 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................77 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tình cảm là trạng thái tâm lý không thể thiếu của con ngƣời và đƣợc thể hiện dƣới nhiều cấp độ khác nhau. Nếu cuộc sống thiếu tình cảm thì con ngƣời sẽ chỉ còn lại phần lí trí lạnh lùng. Bên cạnh các tình cảm nhằm đáp ứng nhu cầu sinh lý, những nhu cầu xã hội nhƣ tình cảm đạo đức, tình cảm tôn giáo... thì tình cảm nhằm đáp ứng nhu cầu về cái đẹp, cái hài, cái bi, cái cao cả, việc thƣởng thức, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật là tình cảm thẩm mỹ cũng rất đƣợc coi trọng. Tình cảm thẩm mỹ có vai trò quan trọng đối với hoạt động sáng tạo, thƣởng thức và đánh giá nghệ thuật. Ngƣời nghệ sĩ không thể nào sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật nếu chỉ có những tình cảm thông thƣờng. Sáng tạo nghệ thuật chủ yếu dựa vào tình cảm thẩm mỹ và do tình cảm thẩm mỹ chi phối. Tình cảm thẩm mỹ còn là động lực của các hoạt động thẩm mỹ khi phân biệt giữa cái đẹp và cái xấu, yêu và ghét, tán thành hay phản đối, xót xa cái bi thƣơng, khâm phục cái cao cả. Nó chi phối toàn bộ các hoạt động thƣởng thức, đánh giá sáng tạo của chủ thể thẩm mỹ. Đảng và Nhà nƣớc ta luôn nhấn mạnh và quan tâm tới việc bồi dƣỡng tình cảm thẩm mỹ cho ngƣời dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Tình cảm thẩm mỹ là sức sống, là niềm vui của con ngƣời, là hạnh phúc của gia đình và toàn xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước khẳng định cần: “Tăng cƣờng giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dƣỡng tâm hồn, tình cảm của con ngƣời. Bảo đảm quyền hƣởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi ngƣời dân và của cộng đồng” [10, tr.50]. 6 Nhu cầu vật chất của con ngƣời ngày càng đƣợc nâng cao kéo theo đó là nhu cầu tinh thần, nhu cầu về thẩm mỹ, về việc cảm thụ, thƣởng thức các giá trị nghệ thuật ngày càng tăng. Trong các loại hình nghệ thuật thì âm nhạc là loại hình nghệ thuật phổ biến, đƣợc nhiều ngƣời yêu thích. Ở Việt Nam, âm nhạc hiện diện suốt cả một vòng sinh tử, từ tiếng mẹ ru thuở lọt lòng và những bài hát đồng dao khắc vào tâm can bài học đầu đời về kỹ năng sống, từ tiếng hát giao duyên tuổi yêu đƣơng và những bài ca hòa nhịp điệu lao động, cho đến những khúc hát, bản đàn gắn với sinh hoạt tập thể, tế lễ, thờ cúng, ma chay... Tình cảm nảy sinh khi tiếp xúc với âm nhạc không chỉ có ý nghĩa giải trí, thỏa mãn những nhu cầu giải trí của cá nhân mà nó còn có ý nghĩa tới việc giáo dục nhân cách con ngƣời. Những tác phẩm âm nhạc chân chính, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc sẽ có tác động tới cá nhân hình thành nên suy nghĩ, lối sống cho cá nhân đó. Ngƣợc lại, những tác phẩm âm nhạc có tƣ tƣởng, ca từ sáo rỗng, không hợp với thuần phong mỹ tục.... có thể ảnh hƣởng xấu tới suy nghĩ, lối sống và hành động của cá nhân. Có một thực trạng hiện nay đang diễn ra đó là giới trẻ dƣờng nhƣ xa lánh và không có sự am hiểu về nghệ thuật truyền thống, các chƣơng trình âm nhạc truyền thống không đƣợc giới trẻ yêu thích. Đặc biệt là xu hƣớng sính ngoại, yêu thích âm nhạc nƣớc ngoài đã làm ảnh hƣởng không nhỏ tới lối sống, suy nghĩ và tình cảm của một bộ phận các bạn trẻ. Phải chăng đó là do giới trẻ chƣa có định hƣớng đúng đắn về việc cảm thụ, thƣởng thức nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng, chƣa có tình yêu đối cái đẹp với nghệ thuật một cách đúng đắn? Bên cạnh đó, hoạt động sáng tác âm nhạc hay phê bình âm nhạc cũng còn rất nhiều bất cập và hạn chế. Thực tế các hoạt động đánh giá, phê bình âm nhạc đều xuất phát từ ý kiến chủ quan, cá nhân chƣa dựa trên những tiêu chuẩn cụ thể nào. Các nhà đánh giá, phê bình âm nhạc chủ yếu là những nhà báo nên không đƣa ra những định hƣớng cho công chúng nghe nhạc. Việc đánh giá, phê bình dựa trên ý kiến chủ quan cũng ảnh hƣởng không nhỏ tới giá trị của tác phẩm. 7 Chính từ những lý do trên mà tác giả chọn “Tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tình cảm thẩm mỹ và vai trò của tình cảm thẩm mỹ đã đƣợc rất nhiều tác giả trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu. Trong cuốn Mỹ học cơ bản và nâng cao do M.F.Ốpxiannhicốp chủ biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001 có nghiên cứu về tình cảm thẩm mỹ và chỉ ra các đặc trƣng của tình cảm thẩm mỹ. Theo ông, “tình cảm thẩm mỹ là một hiện tƣợng tâm lý phức tạp. Nó chỉ có ở con ngƣời với tƣ cách là thực thể xã hội” [63, tr.130]. Đồng thời ông chỉ ra vai trò của tình cảm thẩm mỹ đối với con ngƣời, nó giúp con ngƣời khám phá ra vẻ đẹp của thế giới và của chính mình. Nhân cách của con ngƣời cũng có những biến đổi lớn lao do ảnh hƣởng của tình cảm thẩm mỹ. “chúng để lại dấu ấn không phai nhòa, thƣờng là suốt đời, trong ký ức ta” [63, tr.131]. Bên cạnh những nghiên cứu về tình cảm thẩm mỹ Ốpxiannhicốp cũng có những nghiên cứu về hoạt động âm nhạc. Ông cho rằng “nền tảng nội dung của các hình tƣợng âm nhạc trƣớc hết là những tình cảm, cảm xúc của con ngƣời” [63, tr.131]. Nhƣ vậy, tình cảm của con ngƣời tác động tới việc sáng tạo âm nhạc và âm nhạc chính là sự biểu hiện những trạng thái thuộc thế giới nội tâm của con ngƣời. Trong cuốn Nguyên lý mỹ học Mác - Lênin của tác giả Iu.A.Lukin do Hoài Lam dịch cũng có đề cập tới tình cảm thẩm mỹ và mối quan hệ giữa tình cảm thẩm mỹ với nhu cầu thẩm mỹ. Ông cho rằng “Cảm xúc thẩm mỹ là khả năng rung cảm của con ngƣời trƣớc ấn tƣợng thẩm mỹ nhận đƣợc. Bản thân những rung cảm này là sự xáo động của con ngƣời trải qua quá trình cảm thu cái cao cả, là niềm vui lúc hƣởng thụ cái đẹp, là những xúc động đƣợc khơi gợi lên bởi cái bi và cái hài trong cuộc sống và trong nghệ thuật” [59, tr.33]. Đồng thời tác giả cũng khẳng định “thiếu cảm xúc thẩm mỹ thì không có nhu cầu thẩm mỹ” [59, tr.36]. Nhƣ vậy, đối với Iu.A.Lu-kin thì trong các yếu tố của ý thức thẩm mỹ thì tình cảm thẩm mỹ và nhu cầu thẩm mỹ tác động qua 8 lại với nhau. Trong tác phẩm này Iu.A.Lukin cũng chỉ ra vai trò của tình cảm đối với hoạt động âm nhạc: “Chính những biến động trong trạng thái tâm lý tình cảm con ngƣời đã giúp cho việc biểu đạt đƣợc mục tiêu của mỹ học sản xuất... Chẳng hạn việc nghe nhạc cũng có ảnh hƣởng tốt đến hệ tim mạch và hô hấp. Giai điệu nhạc khiến quá trình lao động trở nên nhịp nhàng và hạ thấp đáng kể độ mệt mỏi. Do gây nên những cảm xúc tích cực, âm nhạc trong sản xuất cải thiện hoạt động đó đạt mức tối ƣu và tiết kiệm năng lƣợng nhiều nhất” [59, tr.137]. Trong cuốn Đại cương lịch sử mỹ học Trung Quốc của tác giả Diệp Lang, Nxb Thế giới, xuất bản năm 2014, tác giả có chỉ ra quan điểm của Khổng Tử về tình cảm thẩm mỹ “Nghệ thuật bao hàm tình cảm ắt phải có sự tiết chế, tình cảm có tính hữu hạn.Tình cảm nhƣ vậy phải phù hợp với quy phạm của “lễ”, là tình cảm thẩm mỹ. Tình cảm của âm thanh bài ca nƣớc Trịnh quá mạnh, vƣợt quá hạn độ nhất định (dâm) không phù hợp với quy phạm của “lễ”, cho nên không phải là tình cảm thẩm mỹ. Tiêu chuẩn thẩm mỹ này của Khổng Tử, dùng một chữ để khái quát là chữ “hòa”. [57, tr.100]. Diệp Lang cũng có chỉ ra quan điểm của Tuân Tử về âm nhạc: Tuân Tử cho rằng nhạc là một thứ khơi dậy tình cảm của con ngƣời. Tuân Tử cho rằng, tính tình của con ngƣời ta, “tính” là tình, là thứ sinh ra sự ghét, vui, buồn, giận dữ, đây là thiên tính của con ngƣời, là tự nhiên (vô đãi nhi thiên - không phải đợi chờ mà tự nhiên nó thế) cho nên gọi là “thiên tính”. Tình cảm là thứ sinh ra tự nhiên nhƣ là thứ nhận nhiệm vụ để phát triển”[57, tr.258]. Ở Việt Nam, tác giả Đỗ Huy là ngƣời có rất nhiều các công trình viết về mỹ học. Có thể kể đến rất nhiều cuốn sách mà tác giả Đỗ Huy là chủ biên và đồng chủ biên một số công trình viết về mỹ học nhƣ: Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Đạo đức học, mỹ học và đời sống văn học nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, v.v.. 9 Trong cuốn Mỹ học - khoa học về các quan hệ thẩm mỹ của tác giả Đỗ Huy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản năm 2001 khi nghiên cứu về tình cảm thẩm mỹ tác giả đã chỉ ra yếu tố cơ bản của tình cảm thẩm mỹ là yếu tố khoái cảm, là trạng thái thức tỉnh tình cảm trƣớc sự hƣởng thụ nghệ thuật. Tình cảm thẩm mỹ đã trở thành động lực để sáng tạo nghệ thuật. Trong cuốn Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội xuất bản năm 1987, tác giả Đỗ Huy cũng chỉ ra rằng, tình cảm chi phối mỗi ngƣời trong thƣởng thức, đánh giá, biểu diễn, sáng tạo là tình cảm thẩm mỹ. Đối tƣợng của tình cảm thẩm mỹ là cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả và cái anh hùng trong cuộc sống và nghệ thuật. Để hình thành một chủ thể thẩm mỹ có khả năng sáng tạo đúng đắn, mỹ học Mác - Lênin luôn luôn đòi hỏi mọi hoạt động của con ngƣời phải thống nhất giữa tình cảm đạo đức với tình cảm thẩm mỹ. Tác giả Đỗ Huy và Đỗ Văn Khang trong cuốn Mỹ học Mác - Lênin đã có phân tích đầy đủ về tình cảm thẩm mỹ và các đặc trƣng của tình cảm thẩm mỹ. Các ông có chỉ ra rằng “Tình cảm thẩm mỹ là lĩnh vực tinh tế của tâm hồn, thế giới nhuần nhụy của xúc cảm, nhờ nó con ngƣời tiến sâu vào đối tƣợng thẩm mỹ cuối cùng của cải tạo đối tƣợng”[38, tr.168]. Đồng thời các ông cũng chỉ ra vai trò của tình cảm thẩm mỹ đối với hoạt động sáng tạo, đánh giá nghệ thuật và khẳng định, xây dựng tình cảm mới trong đó có tình cảm thẩm mỹ là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp xây dựng con ngƣời phát triển hài hòa và phong phú. Hai tác giả cũng đã chỉ ra và phân tích các đặc trƣng của tình cảm thẩm mỹ đó là tình cảm thẩm mỹ trƣớc hết phải là tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ không thể thiếu yếu tố khoái cảm. Trong cuốn Mỹ học đại cương của tác giả Đỗ Văn Khang, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2002, tác giả cũng có nghiên cứu về tình cảm thẩm mỹ và chỉ ra những đặc trƣng của tình cảm thẩm mỹ. Tác giả cho rằng: “tình cảm thẩm mỹ là năng lực mang tính bản chất ngƣời về tình yêu đối với cái đẹp và sự căm ghét cái xấu”[40, tr.143]. Đồng thời tác giả cũng khẳng định tình cảm 10 thẩm mỹ chi phối toàn bộ quá trình định hƣớng, sáng tạo và thƣởng thức của chủ thể thẩm mỹ. Trong cuốn Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2004, tác giả Nguyễn Chƣơng Nhiếp ngoài việc nhấn mạnh tới vai trò của thị hiếu thẩm mỹ trong hoạt động thƣởng thức, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật thì tác giả cũng nói tới vai trò của tình cảm thẩm mỹ với hoạt động thƣởng thức, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật. Theo tác giả, nhu cầu thƣởng thức thẩm mỹ hay nghệ thuật là nhu cầu tình cảm, do thế giới tình cảm của con ngƣời chi phối, nếu không có tình cảm thẩm mỹ của con ngƣời về một khách thể nào đó thì cũng không có nhu cầu thƣởng thức nó. Trong cuốn Thụ cảm thẩm mỹ và người Hà Nội (2007), Nxb Chính trị quốc gia, tác giả Hồ Sĩ Vịnh nghiên cứu tình cảm thẩm mỹ dƣới góc độ khác đó là thụ cảm thẩm mỹ. Tác giả có chỉ ra rằng: hoạt động thẩm mỹ là phản ứng tình cảm của con ngƣời trƣớc cái đẹp, cái bi, cái hài, cái duyên dáng, cái xinh xắn, cái hài hòa, cái hoàn thiện và tất cả các dạng thẩm mỹ khác của cuộc sống. Hoạt động cảm thụ thẩm mỹ là năng lực tinh thần của con ngƣời khi thƣởng thức, bày tỏ tình yêu, liên tƣởng, đánh giá, sáng tạo những hiện tƣợng thẩm mỹ trong cuộc sống cũng nhƣ nghệ thuật. Tác giả Đào Duy Thanh là ngƣời có nhiều năm nghiên cứu về mỹ học, trên blog của mình, ông cũng có bài viết về tình cảm thẩm mỹ và những đặc trƣng của tình cảm thẩm mỹ. Theo ông tình cảm thẩm mỹ cũng là một hình thái tình cảm xã hội của con ngƣời nhƣng nó khác với tình cảm đạo đức, trí tuệ, tôn giáo... đó là sự rung động - cảm xúc bởi cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Trong bài viết ông cũng chỉ ra các đặc trƣng của tình cảm thẩm mỹ đó là: tình cảm thẩm mỹ là cảm nghĩ - cảm xúc và tình cảm thẩm mỹ là cơ chế tổng hợp cảm xúc. Tác giả Nguyễn Thanh Tú trong bài viết Giáo dục, bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ cho thanh thiếu niên đăng 2 kỳ trên website báo Quân đội nhân dân ngày 25 và 26 tháng 3 năm 2015 phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự sa 11 sút, phai nhạt về tình cảm thẩm mỹ hiện nay. Tác giả đã chỉ ra năm nguyên nhân làm giảm sút, phai nhạt tình cảm thẩm mỹ của một bộ phận thanh niên ở nƣớc ta hiện nay. Đó là: 1. Mặt trái của cơ chế thị trƣờng, 2. Chủ nghĩa vị kỉ lên ngôi, 3. Tình trạng “xâm lăng văn hóa” bằng nhiều con đƣờng, 4. Xu hƣớng đô thị hóa quá nhanh gây mất cân đối giữa nông thôn và thành thị, 5. Sự thoái hóa biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên. Chính những nhân cách tồi lại ở vị trí lãnh đạo sẽ làm xói mòn niềm tin, tình cảm của ngƣời dân với lý tƣởng tốt đẹp, trong sáng mà Đảng ta đã đề ra. Từ đó, tác giả nêu ra một vài kiến nghị, giải pháp nhằm xây dựng tình cảm thẩm mỹ tốt đẹp cho thanh thiếu niên. Giải pháp chung mang tính chiến lƣợc là xây dựng một xã hội “sống để yêu thƣơng” và một xã hội học tập. Xây dựng xã hội học tập vừa phát huy truyền thống hiếu học, văn hóa “trọng chữ”, vừa khuyến khích mọi ngƣời tích cực thu nhận kiến thức mới, học mọi nơi, mọi lúc, không kể. Nghiên cứu về hoạt động âm nh ạc, nhạc sĩ Thế Bảo có cuốn “Cảm nhận mỹ học âm nhạc”, Nxb Thanh niên, 2013. Cuốn sách gồm 5 phần. Phần I, nguyên lý mỹ học âm nh ạc đƣợc tác giả vi ết trong 6 chƣơng với 36 đề mục giới thiệu nhƣ̃ng đ ặc điểm của âm nhạc, lịch sử và những vấn đề mỹ học âm nhạc quan tâm; mối quan hê ̣ giữa các thành tố âm nhạc cũng nhƣ quan hê ̣ âm nhạc, triế t ho ̣c, văn học, hội họa, múa, điện ảnh, sân khấu và các loại trình diễn khác. Trong phần này, tác giả cũng đ ề cập đến việc giáo dục mỹ học âm nhạc cho ngƣời sáng tác, biểu diễn và nhất là cho ngƣời thƣởng thức. Phần II, Câu chuyện, giai thoại âm nhạc của các nhạc sĩ và các danh nhân. Phần III, Hƣơng sắc âm nhạc phƣơng Tây qua các thời đại. Phần IV, Thƣởng thức nhạc giải trí. Phần V là nét đẹp nhạc Việt. Trên website của Hội Nhạc sĩ Việt Nam (http://vnmusic.com.vn) có rất nhiều bài viết tâm huyết bàn về âm nhạc.Nhiều suy tƣ trăn trở của các nhạc sĩ, nghệ sĩ về tình hình âm nhạc nƣớc nhà liên tục đƣợc đăng tải. Tác giả Nguyễn Văn Việt trong bài “Thực trạng nhạc trẻ ở Việt Nam” trên ngày 12/12/2012 12 đã chỉ ra những tồn tại hiện nay trong nhạc trẻ và chỉ ra nguyên nhân của nó. Theo tác giả, vẫn có nhiề u nha ̣c si ̃ , ca si ̃ trẻ hiê ̣n nay đam mê dòng nha ̣c quê hƣơng. Nhiề u bài hát đƣơ ̣c viế t với ca tƣ̀ giản di ̣ , mô ̣c ma ̣c nhƣng rấ t đe ̣p , mang hình ảnh quê hƣơng , cánh cò ,… tƣ̀ ca khúc đó , nhạc si ̃ vẫn có thể vẽ nên mô ̣t bƣ́c tranh thủy ma ̣c số ng đô ̣ng nhƣ bài hát “Giấ c mơ trưa” của nhạc sĩ Giáng Son và Nguyễn Vĩnh Tiến , “Phố Cổ ” - Nguyễn Duy Hùng… Tuy nhiên, có nhiều các nha ̣c si ̃ , ca si ̃ trẻ it́ đƣơ ̣c đào ta ̣o qua trƣờng lớp , các ca khúc đƣợc sáng tác dƣờng nhƣ không có tình cảm . Ngƣời viế t la ̣i thiế u kinh nghiê ̣m cả về tiế t tấ u lẫn ca tƣ̀ là lý do xuất hiện nhiề u ca khúc có ca tƣ̀ quá nhố nhăng, lố bich. ̣ Để hạn chế điều này, tác giả cho rằng, các ban quản lý văn hóa cầ n phải giám sát , đánh giá các ca khúc mới trƣớc khi cho biể u diễn . Hơn nƣ̃a, chố ng đa ̣o nha ̣c nƣớc ngoài , đă ̣t ca tƣ̀ bƣ̀a baĩ , gieo rắ c đô ̣c ha ̣i về tƣ tƣởng và thẩm mỹ ; đồ ng thời cũng cầ n phổ câ ̣p âm nha ̣c bác ho ̣c đế n các trƣờng phổ thông, đă ̣c biê ̣t là các trƣờng chuyên về âm nha ̣c ; các hội âm nhạc, hô ̣i nha ̣c si ̃ thƣờng xuyên tổ chƣ́c các lớp bồ i dƣỡng sáng tác ca khúc cho các nhạc sĩ trẻ… Ngoài ra, có thể kể đến các bài “Bàn về công tác phê bình âm nhạc” của tác giả Tố Mai ngày 11/10/2011; “Âm nhạc trong đời sống xã hội hiện nay” của tác giả Trần Lệ Chiến ngày 25/12/2012; “Quản lý nghệ thuật từ góc nhìn âm nhạc” của tác giả Nguyễn Thị Minh Châu, ngày 18/12/2012; “Thực trạng ca khúc dành cho thiếu nhi “nói” hay “làm”? của tác giả Nguyễn Tiến Mạnh ngày 11/10/2012; “Âm nhạc với tuổi trẻ hiện nay, đôi điều suy ngẫm” của Nhạc sĩ Doãn Nho ngày 5/2/2013;.. Nhƣ vậy, có thể thấy có rất các công trình nghiên cứu tiếp cận tình cảm thẩm mỹ ở những góc độ khác nhau cũng nhƣ các bài viết nghiên cứu về hoạt động âm nhạc. Tuy nhiên vấn đề “Tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay”còn đang đƣợc để ngỏ. Vì thế, tác giả mong muốn có sự đóng góp nhất định vào việc chỉ ra vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc, cũng nhƣ phân tích thực trạng, chỉ ra các nhân tố tác động 13 và đề xuất giải pháp để bồi dƣỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Làm rõ vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc. Từ thực trạng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần bồi dƣỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích này luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau: + Trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về tình cảm thẩm mỹ và các hoạt động sáng tạo, thƣởng thức và đánh giá âm nhạc: quan điểm của một số nhà mỹ học tiêu biểu trong lịch sử mỹ học, khái niệm, đặc trƣng và vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo, thƣởng thức, đánh giá âm nhạc. + Phân tích thực trạng và chỉ ra một số nhân tố tác động đến tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay. + Đề xuất một số giải pháp góp phần bồi dƣỡng tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình cảm thẩm mỹ trong hoa ̣t đô ̣ng âm nhạc ở Viê ̣t Nam hiện nay. Phạm vi luận văn nghiên cứu vấn đề tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa nghệ thuật, đồng thời tham khảo một số bài viết, công trình nghiên cứu đã công bố trong và ngoài nƣớc có liên quan trực tiếp đến đề tài. 14 Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên phƣơng pháp luận biện chứng duy vật, luận văn sử dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, logic - lịch sử, khái quát, đối chiếu, so sánh… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu nội dung, vai trò của tình cảm thẩm mỹ trong hoạt động âm nhạc ở Việt Nam hiện nay. - Vận dụng tình cảm thẩm mỹ trong hoa ̣t đô ̣ng âm nhạc vào giáo dục con ngƣời, đặc biệt là thế hệ trẻ. - Luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy mỹ học, nghệ thuật học tại các trƣờng Đại học, các trƣờng chuyên nghiệp. 15 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 2 chƣơng và 6 tiết. 16 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH CẢM THẨM MỸ VÀ HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC 1.1. Tình cảm thẩm mỹ 1.1.1.Quan niệm về tình cảm thẩm mỹ trong lịch sử mỹ học Mỹ học là khoa học về bản chất của ý thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ của con ngƣời, nhằm khám phá, phát minh ra những giá trị trên cơ sở quy luật của cái đẹp, trong đó nghệ thuật là giá trị cao nhất. Chủ nghĩa Mác - Lênin chia đời sống ra thành hai bộ phận đó là tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Ý thức xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của tồn tại xã hội. Ý thức xã hội xuất hiện dƣới dạng ý thức thông thƣờng và ý thức lý luận (gồm một hệ thống các hình thái ý thức nhất định). Ý thức lý luận gồm: quan điểm lý luận chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, khoa học, triết học... và ý thức thẩm mỹ. Ý thức thẩm mỹ là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh thực tại một cách toàn vẹn, sinh động, đầy sắc thái tình cảm, nhằm đáp ứng nhu cầu thƣởng thức, đánh giá và sáng tạo hiện thực “theo quy luật của cái đẹp”. Tình cảm thẩm mỹ là một trong những thành tố cơ bản của ý thức thẩm mỹ. Tình cảm thẩm mỹ là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp vì nó liên quan tới tâm lý, tâm trạng của con ngƣời và nó liên quan tới xã hội. Đã có rất nhiều những quan niệm khác nhau về tình cảm thẩm mỹ, mỗi thời đại lại có những quan điểm khác nhau. Từ xa xƣa, các nhà mỹ học Trung Quốc đã có những nghiên cứu và đƣa ra những quan niệm khác nhau về tình cảm thẩm mỹ. Khổng Tử (551 - 479 TCN) là nhà tƣ tƣởng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc coi trọng và đề xƣớng giáo dục thẩm mỹ. Ông cũng đƣa ra nhiều tƣ tƣởng về tác dụng của nghệ thuật trong đời sống xã hội. Khổng Tử cho rằng, nghệ thuật có thể có tác dụng làm cho ngƣời ta tu dƣỡng ý thức nhƣng 17 không phải loại nghệ thuật nào cũng đều có thể dẫn đến tác dụng này mà chỉ có nghệ thuật phù hợp với yêu cầu của “nhân” mới có thể đem đến tác dụng này. Ông khẳng định, nghệ thuật bao hàm tình cảm ắt phải là một thứ có sự tiết chế, tình cảm có tính hữu hạn. Tình cảm nhƣ vậy phù hợp với quy phạm của “lễ”, là tình cảm thẩm mỹ. Lƣơng Khải Siêu (1873 - 1929), ngƣời nổi tiếng trong lịch sử mỹ học cận đại Trung Quốc là ngƣời tích cực đề xƣớng về giáo dục thẩm mỹ. Lƣơng Khải Siêu coi giáo dục thẩm mỹ thành giáo dục hứng thú hoặc giáo dục tình cảm. Công cụ của giáo dục tình cảm chính là nghệ thuật. Âm nhạc, mỹ thuật, văn học là ba món bảo bối, giúp nắm chắc “bí mật tình cảm” trong tay. Một trong những quan điểm tiến bộ của ông là ông đã chỉ ra trách nhiệm xã hội của nhà nghệ thuật, yêu cầu nhà nghệ thuật phải từ phƣơng diện ƣu việt, đẹp đẽ để bồi dƣỡng tình cảm của bản thân. Chu Quang Tiềm (1897-1986), nhà mỹ học nổi tiếng của Trung Quốc thì cho rằng, nghệ thuật và tình cảm có mối quan hệ với nhau. Nghệ thuật mang đầy cá tính phải biểu hiện tình cảm và khích động tình cảm. Trong lịch sử mỹ học phƣơng Tây đã có những quan điểm khác nhau về tình cảm thẩm mỹ nhƣ: Immanuel Kant (1724 - 1804) là nhà triết học duy tâm chủ quan Đức với những nghiên cứu công phu của mình, ông là ngƣời có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của mỹ học. Theo Kant, nhận thức của con ngƣời đƣợc chia làm ba bộ phận: bộ phận hiểu biết, bộ phận ham muốn và bộ phận thích thú. Tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy của ông nghiên cứu bộ phận thứ nhất: hiểu biết. Tác phẩm Phê phán lý tính thực tiễn của ông nghiên cứu bộ phận thứ hai: ham muốn. Tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán của ông nghiên cứu sự thích thú, sự thỏa mãn. Theo ông, tình cảm thẩm mỹ là năng lực thích thú, là sự thỏa mãn về tinh thần chứ không phải là năng lực nhận biết. Năng lực này chủ yếu dựa vào thị hiếu và năng khiếu. 18 Cùng với việc gắn cảm xúc thẩm mỹ với cái đẹp, Kant đã coi cảm xúc thẩm mỹ cũng gắn với cái cao cả. Đối với Kant, cảm xúc về cái đẹp mang tính khoan khoái vô tƣ, còn cảm xúc về cái cao cả mang tính tôn kính; khoái cảm đẹp gắn với hình thức, khoái cảm cao cả gắn với tâm linh. Theo Kant, tình cảm thẩm mỹ chỉ là một sự thích thú “vô tƣ”. Kant thừa nhận yếu tố thích thú, yếu tố khoái cảm trong tình cảm thẩm mỹ nhƣng không phân biệt thích thú ấy, khoái cảm ấy với các thích thú, các khoái cảm do lợi ích vật chất đƣa lại trực tiếp cho chủ thể nên Kant đã dẫn tình cảm thẩm mỹ đến “vô tƣ”. Hegel (1770 - 1831) là nhà triết học và mỹ học cổ điển Đức, cũng rất quan tâm tới các hoạt động thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ. Trong tác phẩm Hiện tượng học tinh thần năm 1807, Hegel đã nghiên cứu các vấn đề pháp quyền, tâm lý, tôn giáo, triết học tinh thần, tâm lý học, mỹ học. Theo ông, tinh thần tuyệt đối là những ý niệm chung gắn với các hình thức tôn giáo. Ý niệm tuyệt đối đƣợc thể hiện bằng hình ảnh đó là hình thức thẩm mỹ hay là hình thức nghệ thuật. Nhƣ vậy, theo Hegel cảm xúc thẩm mỹ có nguồn gốc từ ý niệm tuyệt đối đƣợc thể hiện bằng hình ảnh. Hegel cũng đƣa ra quan niệm về tình cảm thẩm mỹ. Ông cho rằ ng, hành vi cao nhất của lý tính bao quát tất cả mọi ý niệm là hành vi thẩm mỹ , rằ ng chỉ có trong vẻ đe ̣p thì chân lý và điề u tố t mới hơ ̣p nhấ t với nhau bằ ng nhƣ̃ng mố i liên hê ̣ thân thuô ̣c…không thể coi là đƣợc phát triển về mặt tinh thần trong bất kỳ lĩnh vực nào nếu không có tình cảm thẩm mỹ. C.Mác (1818 - 1883), nhà triết học ngƣời Đức đã chỉ ra rằng, lao động chính là nguồn gốc hình thành nên con ngƣời, là hoạt động tạo ra của cải vật chất duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội loài ngƣời và còn là dấu hiệu để phân biệt con ngƣời với con vật. Theo Mác, loài vật chỉ lao động theo bản năng nhằm phục vụ những nhu cầu thể xác trực tiếp còn con ngƣời thì lao động sản xuất ngay cả khi không còn bị chi phối bởi nhu cầu vật chất. Loài vật lao động một cách máy móc còn con ngƣời lao động một cách tự do. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan