Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tính biểu trưng của các khuôn vần trong chinh phụ ngâm (bản dịch hiện hành)...

Tài liệu Tính biểu trưng của các khuôn vần trong chinh phụ ngâm (bản dịch hiện hành)

.PDF
99
214
51

Mô tả:

Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BỘ MÔN NGỮ VĂN TRẦN THỊ CHINH MSSV: 6062168 TÍNH BIỂU TRƯNG CỦA CÁC KHUÔN VẦN TRONG CHINH PHỤ NGÂM (BẢN DỊCH HIỆN HÀNH) Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngành Ngữ văn – Khóa 2006-2010 Cán Bộ Hướng Dẫn: GVC BÙI THỊ TÂM Cần Thơ, 05-2010 -1- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT PHẦN MỞ ĐẦU 1. 2. 3. 4. 5. Lí do chọn đề tài Lịch sử vấn đề Phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÂM TIẾT VÀ VẦN TIẾNG VIỆT 1.1. Khái niệm âm tiết 1.2. Cấu tạo âm tiết tiếng Việt 1.3. Vần của âm tiết tiếng Việt 1.4. Tính biểu trưng của vần trong âm tiết tiếng Việt CHƯƠNG 2 BIỂU TRƯNG CỦA KHUÔN VẦN TRONG CHINH PHỤ NGÂM 2.1. Biểu trưng của những khuôn vần cùng nhóm. 2.2. Biểu trưng của khuôn vần trong các lớp từ 2.2.1. Biểu trưng trong từ láy 2.2.2. Biểu trưng trong từ đơn 2.2.3. Biểu trưng trong từ ghép CHƯƠNG 3 HIỆU QUẢ SỬ DỤNG BIỂU TRƯNG CỦA KHUÔN VẦN TRONG CHINH PHỤ NGÂM 3.1. Giá trị biểu trưng của khuôn vần được dùng để thể hiện tâm trạng của người chinh phụ 3.2. Giá trị biểu trưng của khuôn vần được dùng để chống lễ giáo phong kiến và chiến tranh phi nghĩa PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN PHỤ LỤC NHẬN XÉT CỦA CBHD NHẬN XÉT CỦA CBPB -2- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Biểu trưng của khuôn vần chính là ý nghĩa của những sự vật, sự việc mang tính hình tượng rất gần gũi với đời sống con người, đã được con người quan sát và nhận thức sâu sắc. Những đặc điểm cơ bản về tính chất, trạng thái… được sử dụng để làm nổi bật lên những nét nghĩa cơ bản, nghĩa được tạo từ các từ cùng khuôn vần. Trên cơ sở của sự sáng tạo từ đặc biệt là trong từ đơn, từ láy và từ ghép có sự hòa phối ý nghĩa giữa từ các từ cùng khuôn, tạo nên các sắc thái ý nghĩa cơ bản giàu hình ảnh, hình tượng ấy. Các nhà thơ, nhà văn đã có sự sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ cho các tác phẩm của mình. Sự vận dụng khuôn vần từ những đặc điểm cơ bản của hình tượng đơn vị gốc, là những trạng thái, tính chất đã được các nhà ngôn ngữ công nhận, khẳng định giá trị biểu đạt của nó trong thực tiễn. Chúng đã đem lại những ý nghĩa chung cho nội dung mà người viết muốn biểu đạt. Một vấn đề đặt ra là những khuôn vần đó sử dụng nhằm mục đích gì, đóng góp gì cho tiếng Việt nói chung và cho ngôn ngữ thơ nói riêng. Khi đi khảo sát các khuôn vần trong thơ ta thấy có một số lượng không ít các khuôn vần được sử dụng nhiều lần nhưng vai trò của chúng trong mỗi trường hợp không phải lúc nào cũng giống nhau. Có những khuôn vần mang nghĩa nhưng cũng có những khuôn vần không mang nghĩa. Khuôn vần có thể tồn tại ở hình thức là từ đơn, từ ghép và từ láy… Đặc biệt là những giá trị biểu đạt trong từ láy thường được các nhà ngôn ngữ nghiên cứu và cho thấy tương ứng với những khuôn giống nhau hoặc gần giống nhau giữa chúng có một mối liên hệ ngữ nghĩa nhất định. Đó là ngữ nghĩa gì ? tác dụng như thế nào đến nội dung tác phẩm ? Chính từ những vấn đề nghi vấn như vậy mà thôi thúc người viết muốn đi tìm những nét nghĩa cơ bản của các khuôn vần đó trong thơ ca, cụ thể là tác phẩm Chinh phụ ngâm - là tác phẩm người viết chọn làm để khảo sát. Chinh phụ ngâm là một trong những tác phẩm của văn học trung đại, có khá nhiều từ láy được sử dụng rất thành công đã được nhiều nhà nghiên cứu rất sâu sắc. Nhưng cũng không thể phủ nhận được vai trò quan trọng của các khuôn vần trong từ đơn, từ ghép và các loại từ khác trong việc thể hiện nội dung và tạo giá trị đặc sắc -3- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm cho tác phẩm. Với những từ có cùng khuôn vần mang ý nghĩa biểu trưng trong tác phẩm Chinh phụ ngâm thì còn chưa được khai thác và phân tích sâu. Thiết nghĩ việc đi tìm giá trị của những khuôn vần này là việc làm rất có ý nghĩa cho việc hiểu sâu hơn về tác phẩm. Với những lí do trên người viết đã chọn “Tính biểu trưng của các khuôn vần trong Chinh phụ ngâm” làm đề tài nghiên cứu và hi vọng sẽ góp một phần nhỏ cho việc tìm hiểu biểu trưng của khuôn vần trong tác phẩm nói riêng và trong thơ ca nói chung. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ngôn ngữ học là một ngành ra đời sau muộn, nhưng những đóng góp của nó cho ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ của từng dân tộc nói riêng là không nhỏ. Những năm gần đây, nhiều nhà ngôn ngữ đã dành nhiều thời gian vào việc khai thác và tìm hiểu về vấn đề ngôn ngữ trong đó có vấn đề về tính biểu trưng của khuôn vần. Từ các từ cùng khuôn, người ta xem xét chúng có những nghĩa chung nào, hay biểu trưng cho nội gì. Dưới đây là một số những công trình nghiên cứu về khuôn vần nói chung và các nghiên cứu về tác phẩm Chinh phụ ngâm (có liên quan tới ý nghĩa của từ hay vần) mà người viết chọn lựa và trên cơ sở đó để đi sâu hơn khi nghiên cứu biểu trưng của các khuôn vần trong tác phẩm Chinh phụ ngâm. Hoàng Văn Hành trong cuốn Từ láy trong tiếng Việt, khi đi khảo sát ngôn từ ở phương diện từ láy, ông nhận thấy rằng từ láy cũng có giá trị biểu trưng và ông phân chúng thành các loại từ mang tính biểu trưng như sau: Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm giản đơn. Đó là những từ có nét chung là mô phỏng âm thanh trong tự nhiên theo cơ chế láy. Ví dụ: lộc cốc, thùng thùng, oai oái, í ới, nheo nhéo… Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm cách điệu: Biểu thị thuộc tính (tính chất, trạng thái, quá trình…); biểu thị sự vật, ví dụ: đăm đăm, chồm chồm, lổm ngổm, bâng khuâng… Từ láy vừa biểu trưng hóa ngữ âm vừa chuyên biệt hóa về nghĩa. Ở dạng từ láy biểu trưng hóa ngữ âm vừa chuyên biệt nghĩa ông định nghĩa chúng như sau: “Từ láy biểu trưng hóa ngữ âm vừa chuyên biệt hóa về nghĩa là từ mà nghĩa của nó có thể giải thích được không chỉ nhờ nghĩa của từ gốc mà còn nhờ ở giá trị tạp nghĩa (tức là giá trị biểu trưng hóa) của sự hòa phối ngữ âm trong cấu -4- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm tạo của nó. Hình thái biểu hiện của sự hòa phối ngữ âm này là điệp và đối. Trong đó, điệp và đối khuôn vần vẫn là quan trọng”[14; tr.86]. Điều đó cho thấy ông đã có những tìm hiểu và nhìn nhận sâu sắc về các dạng từ láy. Đặc biệt những từ láy có chung một khuôn vần thường mang những sắc thái ý nghĩa cho một dạng thức nào đó, chúng có thể là biểu thị âm thanh, hay biểu thị tính chất, trạng thái sự vật sự việc. Nhất là, các từ láy chuyên biệt nghĩa ở chúng có những “giá trị biểu trưng hóa” nhờ vào sự phối âm và cấu tạo từ chúng làm nên ý nghĩa cho từ ngữ đó. Chứng tỏ sự tồn tại của những khuôn vần có nghĩa trong từ láy là vấn đề cần quan tâm và cần làm rõ cụ thể trong những trường hợp tồn tại của nó. Hoàng Văn Hành tuy nhìn vấn đề quan trọng của khuôn vần nhưng chỉ từ góc độ biểu trưng hóa ngữ âm - ngữ nghĩa của từ láy. Ông chưa phân tích tới những giá trị của những từ láy có gần ngữ nghĩa, và những ý nghĩa biểu trưng tồn tại ở các dạng từ khác như đơn, ghép. Song ông đã phần nào cho thấy vai trò của việc nghiên cứu nghĩa biểu trưng của các khuôn vần trong âm tiết tiếng Việt. Dựa trên cơ sở này, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã tiếp tục đi sâu và nghiên cứu các khuôn vần để vận dụng tìm hiểu nghĩa của các khuôn vần trong thơ nói chung. Hồ Lê trong cuốn Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại có bàn tới phần vần của âm tiết tiếng Việt như sau: “…để tượng thanh và để tượng hình, khuôn vần tiếng Việt, bộ phận quan trọng nhất trong sự cấu tạo ý nghĩa, được chủ yếu sử dụng. Khuôn vần có khả năng biểu thị nét cơ bản hay là bộ phận chủ yếu của sự vật mà từ biểu thị. Cùng một khuôn tiếng, có thể có một nhóm từ nhất định cùng mang một nét nghĩa chung nào đó”[20; tr.62]. Nhận định trên của ông chứng tỏ một vấn đề quan trọng, đó là các từ có cùng một khuôn vần, khuôn tiếng vẫn tồn tại trong nó những nét nghĩa chung. Chính nét nghĩa chung này làm cho tác phẩm tránh được sự trùng lặp nhưng mặt khác lại tạo âm hưởng và sắc thái ý nghĩa cho ngôn từ khi dùng đúng chổ, đúng cách. Mặt khác ông cũng nhận thấy một điều là: “Ý kiến một số tác giả trước đây cho rằng giữa một dãy từ như: chặt, vặt, gặt, cắt… hay tụt, rụt, thụt, chụt, hụt…tất có cái chung nào đó, không phải là không có lí. Vấn đề là cần phải chỉ rõ đó là cái chung như thế nào, trên cơ sở nào, và nó được hình thành trong điều kiện nào? trên cơ sở nào ?”[20; tr.62]. Qua ý kiến trên của ông, chúng ta thấy ông cũng đã tìm hiểu về những nhà nghiên cứu trước đây, họ từng đưa ra những ý nghĩa chung cho các từ cùng khuôn, -5- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm ông thừa nhận điều đó là có lí nhưng ông đã đặt ra một vấn đề quan trọng hơn cho các nhà ngôn ngữ nói chung là “phải chỉ rõ cái chung như thế nào, trên cơ sở nào, và được hình thành trong điều kiện nào ? trên cơ sở nào ?” của những từ có một nghĩa chung ấy. Đó chính là việc đi tìm các từ có cùng một khuôn tiếng. Ông cũng nhận định rằng “các khuôn vần này có một giá trị rất quan trọng cho việc cấu tạo nghĩa”. Vì vậy ông cố gắng đi tìm hiểu các khuôn vần ở dạng chung khái quát trên cơ sở thực tế và một số câu thơ. Tuy nhiên, ông chưa đi tìm giá trị biểu trưng biểu trưng trên một tác phẩm cụ thể để chứng minh cho điều này mà ông chỉ thống kê chúng dưới dạng những từ có cấu tạo cùng khuôn mang những ý nghĩa biểu trưng chung. Phi Tuyết Hinh trong cuốn Từ láy những vấn đề bỏ ngỏ, ông đã đi tìm hiểu ý nghĩa của một số từ láy có cấu tạo như: nhỏ nhắn, nhỏ nhặt, nhỏ nhen, nhỏ nhoi, quanh co, loanh quanh,… và những từ láy có cấu tạo từ những từ không rõ nghĩa như: thờ ơ, ỡm ờ, chới với, lâng lâng, bảng lãng, bùi ngùi,… để tìm thấy những nét nghĩa biểu trưng chung của các từ có cùng khuôn. Ông cho rằng : “… khuôn vần có giá trị biểu trưng ngữ âm, và giá trị biểu trưng ngữ âm ấy có vai trò quan trọng góp phần tạo nên ý nghĩa của những từ láy thuộc loại này” [41; tr.39]. Phát biểu của ông một lần nữa đã khẳng định được vai trò thiết yếu của khuôn vần có vai trò quan trọng tạo nên ý nghĩa của các từ. Nhưng ông cũng chỉ dừng lại ở những khuôn vần trong từ láy mà chưa mở rộng khuôn vần ở các từ đơn hay ghép. Và ông nói thêm rằng: “giá trị biểu trưng của mỗi khuôn vần được xem xét theo nhiều góc độ khác nhau. Trước hết nó là bộ phận của từ láy không rõ thành tố gốc, rồi tiếp theo nó được xét với tư cách là bộ phận của thành tố láy trong những từ láy có thành tố gốc; và cuối cùng, nó là bộ phận của từ đơn”[41; tr.39]. Nên những khuôn vần ở dạng từ láy được ông đi tìm hiểu và nghiên cứu khá sâu, từ những cách cấu tạo từ cho đến nghĩa của từ. Điều đó càng làm rõ một vấn đề là khuôn vần tồn tại những giá trị ngữ nghĩa nhất định. Do đó ông khẳng định “không dễ gì có thể nghi ngờ hay bác bỏ tính hệ thống, tính quy tắc ở giá trị biểu trưng của khuôn vần”. Phi Tuyết Hinh đã phần nào khẳng định và chứng minh được sự tồn tại của những giá trị biểu trưng mà các khuôn vần, góp phần tạo nên nội dung ý nghĩa của thơ ca nói chung. Đặc biệt là ông đã thử đi tìm hiểu nghĩa biểu trưng của các khuôn -6- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm vần trong các từ láy không rõ thành tố gốc, hay các khuôn vần từ láy trong các trường hợp khác. Nghiên cứu của ông có vai trò hết sức quan trọng cho việc tìm hiểu nghĩa biểu trưng của các khuôn vần trong tác phẩm mà người viết khảo sát. Nguyễn Đại Bàng trong cuốn Khuôn vần Tiếng Việt và sự sáng tạo của từ đã đi nghiên cứu khuôn vần và sáng tạo của các từ ở từ láy. Ông nhận thấy sự sáng tạo từ theo quy tắc “đối ứng khuôn hay ý nghĩa cơ bản” và sự chuyển đổi khuôn đã tạo nên một lớp từ mới mang những nghĩa chung cùng với các khuôn vần này: “Chẳng hạn khuôn –ANG, hình tượng tương ứng mà chúng tôi tìm thấy là NGANG, một trong những ý nghĩa của nó là “rộng – mở rộng, lan rộng, rộng khắp, rộng lớn” ứng với nhóm từ: thênh thang, mở mang, mênh mang, lênh láng, nở nang, hở hang… Như vậy sự kết hợp của các khuôn khác nhau –ÊNH – ANG và –Ơ –ANG ở nhóm từ kể trên là sự kết hợp cặp khuôn đối ứng với nhau về cùng một trạng thái biểu thị độ rộng mà khuôn đối ứng mang nghĩa cơ bản “rộng” đã tăng thêm cường độ cơ bản của từ gốc” [3; tr.114]. Ông đã tìm thấy và chứng minh được rằng chính nhờ những nghĩa chung cơ bản của những nhóm từ cùng khuôn vần có thể tìm thấy được những nghĩa cơ bản đối xứng với nhau của những cặp khuôn vần từ thành tố gốc là từ láy. Khi đi sâu vào những cấu tạo từ như vậy, ông đã giúp chúng ta có cơ sở hơn khi phân tích nghĩa biểu trưng của từ trong các nhóm khuôn vần mà nó đảm nhiệm. Đinh Trọng Lạc trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt cũng đề cập tới vấn đề ý nghĩa biểu trưng của các khuôn vần trong phong cách học ngữ âm như sau:“nhiệm vụ của phong cách học ngữ âm là phải nghiên cứu những giá trị biểu trưng của các khuôn vần trong từ láy (cùng với các yếu tố ngữ âm khác) để nêu lên những cách sử dụng chúng trong hoạt động lời nói, nhất là trong lời nói nghệ thuật, bởi vì chính những giá trị biểu trưng này cùng với các yếu tố khác nữa đã tạo nên cái luồng ý nghĩa ngầm của khổ thơ, đoạn văn, giúp người đọc cảm nhận được cái hồn của văn bản nghệ thuật”[18; tr.98]. Nói về vai trò, nhiệm vụ của ngữ âm tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc đã cho thấy nghĩa biểu trưng của vần trong từ láy chính là từ những cấu tạo âm tiết của vần trong thơ. Chúng có ý nghĩa rất quan trong cho sự cảm nhận của người đọc đối với thơ ca và góp phần cho tác giả gửi gắm những tâm tư suy nghĩ của mình trong tác phẩm, điều mà ông gọi là “cái hồn” vậy. -7- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm Cù Đình Tú trong cuốn Phong cách học tiếng Việt, khi đi khảo sát cách cấu tạo từ của tiếng Việt về mặt mối quan hệ giữa cơ cấu ngữ âm và nội dung ngữ nghĩa có nói rằng: “có một hiện tượng rất lí thú là nhiều đơn vị từ ngữ của tiếng Việt dường như được cấu tạo theo những khuôn ngữ âm – ngữ nghĩa nhất định. Mỗi khuôn ngữ âm – ngữ nghĩa gồm có một hoặc hai thành tố này mang tính gợi hình, biểu cảm được rút ra từ hàng loạt đơn vị từ ngữ cùng cấu tạo theo khuôn này” [31; tr.236]. Và ông đã thống kê được khá nhiều nhóm khuôn vần gợi hình ảnh như: khuôn vần “op” mang một nghĩa chung là “giảm thể tích” hoặc “thu lại” : óp lại, móp, hóp, tọp, tóp… Nhiều khuôn vần “ê – a” biểu thị “quá trình kéo dài từ chổ này qua chổ khác, từ lúc này qua lúc khác”. Cù Đình Tú đã đi sâu vào và phân tích được những nhóm khuôn vần có chung những giá trị biểu trưng. Thông qua những đặc điểm chung đó giúp chúng ta có thêm cơ sơ để đi tìm hiểu thêm những biểu trưng của khuôn vần ở trong thơ. Đặc biệt là những khuôn vần mà ông đã tập hợp chúng trong những nhóm từ cùng khuôn biểu thị một nét nghĩa tương đương mà ông đã tìm thấy. Theo Nguyễn Thái Hòa cho rằng“Cù Đình Tú đã thống kê được nhiều khuôn, vần nhưng chưa đủ”. Theo ông, “ngay sự đối lập âm vực cao, thấp cũng tạo ra những từ có nét nghĩa khác nhau về mức độ: - Sát/sạt, phát/ phạt, dát/dạt, bát/bạt, ngát/ngạt … - Bấp/bập, tấp/tập, vấp/vập, gấp/gập, rấp/rập … - Óp/ọp, móp/mọp, tóp/tọp, sóp/sop, bóp/bọp … Chúng ta có thể cảm nhận dễ dàng những nét nghĩa ấy mà không cần giải thích. Ví dụ: “hương thơm ngào ngạt” với “hương thơm ngát” với “hương thơm ngan ngát” có liên quan chặt chẽ với nhau chứ không phải là những từ biệt lập” [9; tr.267]. Và theo ông “tính biểu trưng của các phương tiện ngữ âm là có thực và cần được nghiên cứu. Nhưng tính biểu trưng không phải là quy tắc khái quát cho tất cả các từ mà có tính chất võ đoán của tín hiệu vẫn là chủ yếu” [9; tr.267] Ở đây Nguyễn Thái Hòa mới chỉ có nhận xét rằng giữa các khuôn vần có chung một nét ngữ nghĩa chung, trong cơ chế đối ứng của nó, ông đã dẫn chứng được những nét nghĩa khác nhau đó. Và ông cũng khẳng định đây là vấn đề cần nghiên cứu tuy nghiên ông chưa đi tập hợp chúng lại và chưa đi sâu phân tích với -8- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm một nhóm khuôn vần như vậy mang giá trị biểu trưng gì cho tác phẩm. Theo người viết thì đó là một phương diện rộng, cần đưa chúng vào phạm vi cụ thể. Trong quá trình phân tích tìm hiểu tác phẩm Chinh phụ ngâm chúng tôi nhận thấy có không ít nhà nghiên cứu tìm thấy ở Chinh phụ ngâm có những giá trị nghệ thuật trong cách sử dụng từ ngữ, mà đặc biệt là những từ liên quan đến âm tiết và khuôn vần trong cấu tạo từ góp phần làm nên cái hay nét độc đáo trong nghệ thuật và nội dung. Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX, khi đề cập tới thành công của bản dịch Chinh phụ ngâm đã khẳng định: “…Có trường hợp không phải là từ lấp láy, hoặc một bên là từ lấp láy nhà thơ sử dụng những từ đi liền với nó có những yếu tố láy lại (hoặc láy lại phụ âm đầu, hoặc láy lại bộ phận vần) để cho câu thơ giàu âm hưởng…”[21; tr.244]. Và ông còn nói thêm về phương diện ngữ âm học của tác phẩm Chinh phụ ngâm : “Tu từ học ngữ âm tiếng Việt xác nhận rằng, chẳng hạn những từ phụ âm đầu là đ, một phụ âm tắc, hữu thanh, cách đọc của nó gây ấn tượng nặng nề, còn những từ kết thúc bằng phụ âm ng (-ng hay –nh) gây ấn tượng kéo dài, cũng như những từ không dấu bằng thì gây ấn tượng nhẹ nhàng, còn trái lại những thanh trắc thì gây ấn tượng khúc mắc, ngang trái”[21; tr.244 – tr.245]. Nguyễn Lộc đã phát hiện một điều rất quan trọng trong bản dịch hiện hành của Chinh phụ ngâm là người dịch đã sử dụng được những đặc trưng của tu từ học ngữ âm trong sáng tác làm cho tác phẩm mang giá trị nghệ thuật độc đáo hơn. Và ông lấy ví dụ: “Chẳng hạn trường hợp muốn diễn tả một tâm trạng đau buồn nặng nề và kéo dài, người dịch đã dùng những từ kết hợp được phụ âm đầu “đ”, “d” với âm cuối “ng” như những câu: Khắc giờ đằng đẵng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. Hay: “Non Yên dù chẳng tới miền. Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.” [21; tr.245]. Điều đó cho thấy tiếng Việt thật phong phú và đa dạng về ngôn từ. Việc sử dụng ngôn ngữ đạt hiệu quả cao như vậy làm cho sự thành công của tác phẩm có giá trị rất lớn. Mà sự đóng góp trong việc phối hợp các vần điệu cũng như tiết tấu câu thơ có vai trò hết sức quan trọng. Với các khuôn vần trong từ láy khi kết hợp cùng -9- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm nhau đã tạo cho câu thơ giàu âm hưởng, nên Nguyễn Lộc nhận xét : “Trong bản dich Chinh phụ ngâm hiện hành từ lấp láy khá nhiều và có nhiều kiểu kết hợp, khi thì láy lại toàn bộ phận như: ù ù, ào ào, dõi dõi, dần dần,… Khi thì láy lại phụ âm đầu như: ngập ngừng, quạnh quẽ, thoi thóp,…Có trường hợp không phải là lấp láy, hoặc bên một từ láy nhà thơ sử dụng những từ đi liền với nó những yếu tố láy lại (hoặc láy lại phụ âm đầu hoặc láy lại bộ phận vần) để cho câu thơ giàu âm hưởng”[21; tr.244]. Từ nhận định trên của ông ta có thể thấy được sự thành công của bản dịch Chinh phụ ngâm không thể thiếu được sự kết hợp tài tình của khuôn vần cũng như âm tiết đặc biệt là các khuôn vần trong các từ láy. Trong từ láy ta có thể thấy được vai trò quan trọng của phần vần trong việc cấu tạo nên nó. Chúng là yếu tố đã góp phần tạo nên những giá trị về ngữ âm, ngữ nghĩa của tác phẩm. Lê Trí Viễn trong cuốn Một đời dạy văn, viết văn, nhận thấy bản dịch Chinh phụ ngâm là bản dịch có nhiều đặc sắc: “Dịch giả đã dùng thể song thất lục bát thay vào thể trường đoản cú của nguyên tác. Âm điệu song thất đều đều, trầm lắng, có biểu hiện những tâm trạng ít thay đổi đọt ngột, những tình cảm triền miên. Người dịch đã có công khai thác sử dụng được âm điệu ấy vào một thể loại rất thích hợp là ngâm” [36; tr.319]. Ở đây dịch giả Chinh phụ ngâm khai thác thành công thể song thấy lục bát cho bản dịch của mình. Thể hiện được những tình cảm, tâm trạng của người chinh phụ. Qua đó ta cũng thấy được giá trị nghệ thuật của việc khai thác vần trong thể thơ song thất lục bát của tác phẩm. Một thành công nữa của bản dịch, theo Lê Trí Viễn là việc sử dụng lớp từ láy. Theo ông: “Với nghệ thuật sử dụng từ láy, ngôn ngữ đã tiến thêm một trình độ phong phú, sinh động và sâu sắc trong lĩnh vực tả tình”[36; tr.342] .Và ông còn nhận nhấn mạnh ở phương diện ngữ nghĩa: “Về phương diện ngữ nghĩa, các từ láy rất có tác dụng làm tăng sức biểu cảm. Nó phong phú, dồi dào về hình ảnh, âm thanh, nó sâu sắc trong tình cảm, dịu dàng, êm ái trong âm điệu”.[36; tr.342] Có thể nói trong Chinh phụ ngâm, từ láy được sử dụng với số lượng không những nhiều mà còn đa dạng, rất có hiệu quả cho việc khai thác tâm tư tình cảm. Chính việc sử dụng thành công những yếu tố từ láy này cần phải khai thác chúng từ phương diện ngữ âm đặc biệt là giá trị biểu trưng khuôn vần của chúng trong từng trường hợp để thấy cái hay độc đáo của từ ngữ cũng như vần điệu. -10- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm Vũ Tiến Quỳnh trong quyển Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, viết : “Nhà thơ đặc biệt hiểu rõ khả năng tu từ phong phú của loại từ rất dân tộc trong tiếng Việt. Trong bản dịch Chinh phụ ngâm hiện hành từ lấp láy khá nhiều và có nhiều kiểu kết hợp khi thì láy lại hoàn toàn như: ù ù, ào ào, dõi dõi, dần dần,… khi thì láy lại phụ âm đầu như: ngập ngừng, quạng quẻ, thoi thóp, chông chênh”[27; tr.67]. Xét tác phẩm Chinh phụ ngâm từ phương diện từ láy Vũ Tến Quỳnh nhìn nhận là tác phẩm có nhiều từ láy được sử dụng, và từ láy cũng có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo âm thanh và tượng hình. Đồng thời ông cũng phát hiện thêm được rằng với số lượng không nhỏ từ láy điệp phụ âm đầu sử dụng với vai trò là một bộ phận của ngữ âm đóng góp cho thơ ca nói chung. “Sự trùng điệp này có khi là sự láy lại một số khổ thơ, câu thơ, một số từ, một âm, một vần… đặc biệt hơn là kết cấu trùng điệp có lúc tưởng chừng như chỉ lặp lại hoàn toàn, chỉ đứng yên nhưng chú ý thấy kỹ thấy nó lại thay đổi có biến động”[27; tr.60]. Đánh giá trên của Vũ Tiến Quỳnh cho thấy bản dịch Chinh phụ ngâm không chỉ có sử dụng nhiều từ láy mà còn cho thấy tác dụng của những từ láy này trong tác phẩm có một vị trí không nhỏ. Do đó việc nghiên cứu từ láy nói chung và nghĩa biểu trưng của từ thì phương diện biểu trưng của từ láy có ý nghĩa quan trọng cho việc hiểu thêm vai trò của chúng cũng như ý nghĩa của chúng từ dạng khuôn vần là rất có nghĩa. Đặng Thai Mai có viết trong cuốn Bài giảng “Chinh phụ ngâm khúc” như sau: “Ai cũng có thể nói rằng: dịch giả Chinh phụ ngâm đã vận dụng và lạm dụng lối “láy” để xây dựng một bản nhạc sầu. Có khi lặp đi lặp lại một tiếng – một “từ tố” – để gây nên cảm giác đình trệ và dài dòng, thích hợp với một tâm trạng dường như đang bị đọng lại trên khối sầu và không phát triển được” [22; tr.68]. Đặng Thai Mai lại một lần nữa cũng nhìn thấy được giá trị của từ láy trong việc thể hiện tâm trạng nhân vật. Và theo ông, từ láy đã: “ phu diễn một mối tâm tư triền miên, vấn vít như tơ vò, và vô hạn như những “khối sầu vạn cổ” của người yêu” [22; tr.68]. Đặc biệt ông chú ý tới mặt ngôn ngữ cuả tác phẩm. “Đoàn Thị Điểm chỉ vận dụng một khả năng của lối song thất lục bát: ấy là những vần trắc, những tiếng đục ở cuối câu thất, để gây cái cảm giác nặng nề, thích nghi với đề tài” [22; tr.70]. Đóng vai trò không nhỏ trong phân tích và giảng giải tác phẩm Chinh phụ ngâm, ông đã cố gắng tìm hiểu nhiều vấn đề quan trọng trong nội dung tư tưởng tác -11- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm phẩm cũng như nghệ thuật. Và ông cũng thấy được việc thể hiện tâm trạng nhân vật qua các từ láy đó là thành công của nhà thơ. Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, Đặng Thai Mai khi nghiên cứu về phương diện từ láy đã nhận thấy được sự thành công, đóng góp quan trọng của từ láy, nhưng một phần không kém quan trọng của những từ ngữ khác như từ đơn, từ láy cùng khuôn khi dùng để diễn tả tâm trạng nhân vật trữ tình rất tinh tế mà chưa được khai thác. Chinh phụ ngâm là một tác phẩm hay được nhiều người yêu thích và quan tâm có không ít đề tài trong Chinh phụ ngâm được đưa ra nghiên cứu, như luận văn, tiểu luận, phê bình…. Nhưng về vấn đề tìm hiểu tính biểu trưng của các khuôn vần trong Chinh phụ ngâm thì chưa được nghiên cứu. Nếu có nói tới thì chỉ mới chạm tới các vấn đề còn khái quát ở dạng như từ láy, hoặc các phương diện của các từ ngữ tiêu biểu cho một số biểu tượng… Vì vậy, đây là một đề tài rất thú vị để người viết khai thác, với mong muốn là tìm hiểu “tính biểu trưng cuả khuôn vần trong Chinh phụ ngâm”. 3. Phạm vi nghiên cứu Do đặc điểm của tính biểu trưng của các khuôn vần trong thực tế là rất nhiều, nhưng không phải nó luôn được khai thác và vận dụng hết trong thơ. Vì vậy ở đây người viết xác định là tập trung khảo sát tính biểu trưng của các khuôn vần trong tác phẩm Chinh phụ ngâm (bản dịch hiện hành). Khuôn vần được người viết tìm hiểu là ở các dạng từ đơn, từ ghép và từ láy. Đặc biệt là những biểu trưng khuôn vần trong từ láy. Văn bản mà người viết chọn làm tư liệu khảo sát cho tác phẩm Chinh phụ ngâm là quyển Đến với Chinh phụ ngâm do Ngô Viết Dinh chọn và biên soạn, NXB Thanh niên, năm 2001. 4. Mục đích nghiên cứu Việc đi nghiên cứu và tìm hiểu Tính biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm nhằm hướng tới việc tìm hiểu rõ hơn về ý nghĩa cũng như giá trị của các khuôn vần trong tiếng Việt cụ thể là sự đóng góp của các khuôn vần có giá trị biểu trưng trong thơ nói chung và trong Chinh phụ ngâm nói riêng. Chinh phụ ngâm là một tác phẩm có giá trị thời đại, tác phẩm đã được Đoàn Thị Điểm diễn nôm thành công nhưng cho tới hôm nay vẫn còn nhiều ý kiến băn khoăn chưa rõ. Vì vậy việc tìm hiểu tác phẩm từ nhiều cấp độ, trong đó có cấp độ -12- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm tìm hiểu giá trị biểu trưng của các khuôn vần trong thơ góp phần không nhỏ cho việc hiểu rõ nội dung, giá trị tác phẩm. 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành tốt mục đích và yêu cầu đặt ra ở trên, người viết tiến hành thu thập thông tin, tư liệu, những công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài. Trên cơ sở thu thập tài liệu, người viết sẽ tiến hành thống kê, phân loại các khuôn vần có giá trị biểu trưng. Từ đó, chúng ta có một số liệu cụ thể để có thể đánh giá được nội dung và giá trị của tác phẩm một cách có khoa học hơn. Đặc biệt là bài luận văn này sẽ sử dụng phương pháp đối chiếu và so sánh các khuôn vần được sử dụng trong các trường hợp khác để làm nổi bật nét riêng và sáng tạo của bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm. Bên cạnh đó, người viết cũng cố gắng phân tích và khái quát các khuôn vần có giá trị biểu trưng nhằm làm nổi bật ý nghĩa biểu trưng của nó trong tác phẩm. Dựa trên cơ sở phân tích ngữ nghĩa ngữ âm học của cách cấu tạo các âm tiết trong khuôn vần mà nó mang giá trị biểu trưng. -13- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÂM TIẾT VÀ VẦN TIẾNG VIỆT Có thể nói một ngôn ngữ nào phát ra cũng đều dựa trên những cơ sở ngữ âm nhất định và việc kết hợp âm vị, âm tiết để tạo nên một ngôn ngữ hoàn chỉnh, điều đó hoàn toàn không đơn giản chút nào. Bên cạnh đó, không ngẫu nhiên mà các nhà văn, nhà thơ phối hợp các vần, thanh điệu trong các vần ở một câu thơ nào đó. Ngoài các yếu tố như thanh, vần, nhịp điệu, sự phối hợp giữa các âm tiết cũng là những dụng ý khác nhau của nhà thơ khi thể hiện nội dung tác phẩm thêm hình tượng, thêm sinh động và giàu sức gợi tả. Trước khi đi vào tìm hiểu những giá trị của các vần trong thơ, chúng ta nên khảo sát một số vấn đề chung về âm tiết và vần trong tiếng Việt. Bởi vì trên cơ sở đó chúng ta sẽ thấy được giá trị sử dụng của chúng. 1.1. Khái niệm âm tiết Có nhiều ý kiến khác nhau về cách định nghĩa âm tiết. 1.1.1. Theo Cù Đình Tú “Âm tiết là đơn vị ngữ âm tự nhiên mà bất cứ người nào cũng có thể nhận ra. Ví dụ: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” có 8 âm tiết”. Ông giải thích: Âm tiết là một đoạn của lời nói (chuổi âm thanh) mà khi phát âm mỗi bộ máy phát âm căng thẳng rồi chùng xuống. Như vậy mỗi khi phát âm, mỗi âm tiết gồm có ba giai đoạn: giai đoạn tăng độ căng, giai đoạn đỉnh của độ căng, giai đoạn giảm độ căng và kết thúc [32; tr18]. 1.1.2. Theo Nguyễn Thiện Giáp “Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất. Âm tiết là đơn vị mang những sự kiện ngôn điệu như thanh âm, trọng âm và do đó con người đã gọi là điệu vị (prosodeme). Mỗi âm tiết phát ra tương ứng với sự luân phiên tăng lên rồi trùng xuống của cơ thịt trong bộ máy phát âm. Mỗi âm tiết gồn có ba phần: khởi đầu, đỉnh và kết thúc”[13; tr.125]. -14- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm 1.1.3. Theo Mai Ngọc Chừ “Chuỗi lời nói mà con người phát ra gồm nhiều khúc đoạn dài ngắn khác nhau. Đơn vị phát âm ngắn nhất là âm tiết. Tiếng tức âm tiết”. Ví dụ: “Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào” có cả thảy 8 âm tiết [8; tr.76]. Và ông dựa vào cách kết thúc các âm tiết để chia âm tiết thành bốn loại sau: Những âm tiết kết thúc bằng một phụ âm vang được gọi là âm tiết nửa khép. Những âm tiết kết thúc bằng bán âm nguyên được gọi là những âm tiết nửa mở. Những âm tiết kết thúc bằng một phụ âm không vang được gọi là những âm tiết khép. Những âm tiết kết thúc bằng cách giữ nguyên âm sắc của nguyên âm ở đỉnh âm tiết được gọi là các âm tiết mở. 1.1.4. Theo Bùi Thị Tâm “Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất, đơn vị tự nhiên nhất trong lời nói của con người. Mỗi âm tiết là một tiếng”. Ví dụ: “Tiến lên chiến thắng nhất định về ta”. Có 8 âm tiết [28; tr.17]. 1.1.5. Theo Nguyễn Hữu Quỳnh “Âm tiết là một đơn vị phát âm tối thiểu của lời nói”. Ông cho rằng: “một đặc điểm cơ bản nhất của âm tiết là ranh giới của âm tiết tiếng Việt trùng với ranh giới của hình vị, tức là mỗi âm tiết đều đóng vai trò là dấu hiệu của một hình vị”. Do đó: “Trong âm tiết tiếng Việt, mỗi âm tiết đồng thời là một hình vị”[26; tr.52]. 1.1.6. Theo Nguyễn Thị Kiều Phượng “Âm tiêt là đơn vị phát âm nhỏ nhất của lời nói mà bất cứ người bản ngữ nào cũng có thể nhận ra”. Ví dụ: tôi / là/ sinh/ viên. Có 4 âm tiết [25; tr.126] 1.1.7. Theo Trần Trí Giỏi “Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất”. Và ông giải thích: Chẳng hạn, khi muốn phát âm ra một âm tiết [b], nhất thiết chúng ta phải tạo ra một âm tiết [bơ]. Điều này có nghĩa là, trong thực tế không ai có thể phát âm ra một âm tố mà phải tối thiểu là một âm tiết. Chuổi lời nói, thực chất chỉ được tách ra ở ranh giới âm tiết. Vì thế với người nói tiếng Việt, người ta nhận ra câu: “Năm qua thắng lợi vẻ vang” sẽ là một chuổi phát âm có 6 âm tiết [12; tr.56]. -15- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm Nhận xét Mặc dù cách dùng từ để định nghĩa về âm tiết có khác nhau nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đều thống nhất với nhau ở : âm tiết chính là đơn vị phát âm nhỏ nhất trong lời nói, trong tiếng Việt âm tiết phát ra gồm ba bộ phận: phụ âm đầu, vần và thanh. Và chúng tôi đồng tình với cách hiểu này khi đi phân tích âm tiết tiếng Việt. 1.2. Cấu tạo âm tiết tiếng Việt Khi mô tả âm tiết tiếng Việt các nhà ngôn ngữ thừa nhận những đặc điểm sau: Trong tiếng Việt, âm tết có tính độc lập rất cao. Đặc điểm này được thể hiện trong các lời nói. Thể hiện rõ ở trong lời nói, âm tiết bao giờ cũng được thể hiện rõ ràng tách ra từng khúc đoạn riêng biệt. Đồng thời âm tiết tiếng Việt cũng có khả năng biểu hiện ý nghĩa. Đây là điều mà các ngôn ngữ khác không có được. Chính vì vậy mà ta thấy có những âm tiết tự thân nó đã có nghĩa mà ta gọi là từ đơn. Bên cạnh đó ta thấy một đặc điểm rất quan trong của tiếng Việt nữa là cấu trúc chặt chẽ, riêng biệt của mình. Hiện nay các nhà nghiên cứu về tiếng Việt xem mô hình cấu trúc của tiếng Việt như sau: Mô hình 1: Thanh điệu (5) Vần Âm đầu Âm đệm Âm chính Âm cuối (1) (2) (4) (3) Mô hình 2: Thanh điệu (5) Âm đầu (1) Vần Âm đệm (2) Âm chính Chung âm (3) (4) Mô hình 1 cho thấy các nhà ngôn ngữ cho rằng phần thanh điệu bao trùm lên cả các yếu tố âm đầu và phần vần. Mô hình 2 cho rằng thanh điệu tách rời phụ âm -16- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm đầu và chỉ bao trùm lên bộ phận phần vần. Đa số nhà ngôn ngữ hiện nay thiên về mô hình 1. Từ hai mô hình trên cho thấy trong tiếng Việt, mỗi âm tiết ở dạng đầy đủ nhất sẽ gồm có 3 phần, ở 5 vị trí. Cụ thể như sau: 1.2.1. Âm đầu (số 1) Âm đầu hay còn gọi là thủy âm. Âm đầu có chức năng mở đầu âm tiết trong tiếng Việt, bao giờ cũng do phụ âm đảm nhiệm. Âm đầu có thể vắng mặt như: ăn, uống… thực chất với những âm tiết này, âm đầu do âm tắc thanh hầu đảm nhiệm, âm này không biểu hiện lên chính tả của chữ viết. 1.2.2. Phần vần Phần vần gồm có 3 yếu tố: âm đệm, âm chính, và âm cuối. 1.2.2.1. Âm đệm (số 2) Âm đệm có chức năng làm thay đổi âm sắc, âm tiết sau lúc mở đầu. Thành phần này do bán nguyên âm /w/ đảm nhiệm. Chính nhờ nó mà ta phân biệt được các các âm tiết như: tán với toán, tấn với tuấn. Âm tiết tán và tấn không có âm đệm, người ta còn gọi là âm đệm zêrô. 1.2.2.2. Âm chính (số 3) Âm chính hay còn gọi là hạt nhân của âm tiết. Thành phần này quy định âm sắc chủ yếu của âm tiết và nó bao giờ cũng do một nguyên âm đảm nhiệm, khác với các thành phần khác của âm tiết tiếng Việt. Âm chính luôn luôn có mặt trong mọi trường hợp của âm tiết tiếng Việt. 1.2.2.3. Âm cuối ( số 4) Âm cuối có chức năng kết thúc âm tiết, nó do các phụ âm và các bán nguyên âm đảm nhiệm. Ví dụ: tán, cao, tay… Thành phần này có thể vắng mặt trong âm tiết tiếng Việt ở một số trường hợp như: ta, to, thể… Trong những trường hợp này ta gọi là âm cuối zero. 1.2.3. Thanh điệu (số 5) Mỗi một âm tiết tiếng Việt đều có một thanh điệu, thanh điệu có chức năng phân biệt các âm tiết. Trong tiếng Việt hiện nay có 6 thanh là: thanh ngang (thanh không dấu), thanh huyền, thanh hỏi, thanh sắc, thanh nặng, thanh ngã. -17- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm * Đặc điểm của các yếu tố cấu tạo nên âm tiết tiếng Việt Theo các nhà nghiên cứu thì năm thành phần trên của âm tiết tiếng Việt không phải bình đẳng như nhau về mức độ độc lập và khả năng kết hợp. Năm thành phần cấu tạo nên âm tiết tiếng Việt ở dạng đầy đủ luôn có tính chất cố định không thể thay thế, đổi chỗ cho nhau được. Kết quả nghiên cứu cho thấy phụ âm đầu và thanh điệu kết hợp lõng lẽo với phần vần hơn so với bản thân sự kết hợp các thành phần của phần vần. Chính vì vậy nên người ta nói rằng âm tiết tiếng Việt có cấu trúc hai bậc: bậc 1 là thanh điệu, âm đầu và phần vần; bậc 2 là âm đệm, âm chính và âm cuối. Theo sơ đồ sau: Âm tiết Bậc 1: Âm đầu – Vần – Thanh điệu Bậc 2: Âm đệm – Âm chính – Âm cuối 1.3. Vần của âm tiết tiếng Việt Dựa trên cơ sở của mô hình cấu trúc âm tiết tiếng Việt như đã nói ở trên. Phần vần được mỗi nhà ngôn ngữ quan niệm như sau: 1.3.1. Vần của âm tiết tiếng Việt theo Bùi Thị Tâm Âm tiết tiếng Việt có 5 vị trí đó là phụ âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu. Có âm tiết có đủ 5 vị trí, có âm tiết có vị trí vắng, nhưng nguyên chính âm luôn luôn có mặt. “Âm tiết tiếng Việt được chia làm ba phần: phần đầu; phần vần và thanh điệu, thanh điệu luôn nằm trên toàn bộ âm tiết”[28; tr.19]. Do đó mô hình của âm tiết theo Bùi Thị Tâm như sau: Thanh điệu Phụ âm đầu Vần Âm đệm Âmchính Âm cuối Như vậy, phần vần được chia làm các phần: âm đệm, âm chính và âm cuối. -18- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm Âm đệm: Gồm có bán nguyên âm môi, ghi bằng /-w-/ thể hiện trên chính tả bằng 2 trường hợp là “o” hoặc “u”, và một âm vị có nội dung tiêu cực là âm vị /zero/ không thể hiện trên chính tả. Âm đệm có tính chất nước đôi. Âm đệm có thể nghiêng về phần vần, nhưng cũng có thể nghiêng về phần phụ âm đầu. Âm đệm có chức năng làm trầm hóa âm tiết Âm đệm /-w-/ không kết hợp với phụ âm môi, không kết hợp với nguyên âm hàng sau tròn môi (u, uô, ô) và nguyên âm (uơ). Âm chính: Gồm có 13 nguyên âm đơn được ghi bằng các con chữ: a, ă, â, e, ê, i, o, ơ, ô, u, ư, y, trong đó i và y là do một âm vị như nhau về hình thức thể hiện. Và 3 nguyên âm đôi được thể hiện trên chính tả bằng các con chữ: ia, ya, iê, yê, ua, uô, ưa, ươ. Ví dụ: khuya, mượn, tiên, mua, bia, người, yêu… Âm chính có chức năng: tạo âm sắc cho âm tiết. Đồng thời là đỉnh của âm tiết. Âm cuối : Gồm có 8 nguyên âm được thể hiện trên chính tả là các con chữ: t, m, n, nh, ch, ng, p, o, u, a, ô, ơ, e, ê. Âm cuối được chia làm 3 nhóm như sau: Nhóm phụ âm ồn: /p, t, k /ví dụ: họp, chất, cách, cất) Nhóm phụ âm vang: -m, -n, -nh, -ng (ví dụ: tủm tỉm, tin, mênh mang, lênh đênh) Nhóm bán nguyên âm cuối: -i, -y, -o, -u (ví dụ: mai sau dù có bao giờ - TK) Âm cuối có chức năng kết thúc âm tiết. 1.3.2. Vần của âm tiết tiếng Việt theo Huỳnh Công Tín Theo ông, âm tiết tiếng Việt được chia làm ba phần. Phần phụ âm đầu hay thủy âm, phần vần: gồm tiền chính âm, chính âm và chung âm, và phần thanh điệu. * Tiền chính âm (âm đệm) –w-: Tiền chính âm được biểu hiện ở các trường hợp khác nhau. Biểu hiện lên chữ viết bởi chữ “o” trong toán, hoàn… và chữ “u” trong: quân, huân… Tiền chính âm có mặt trong âm tiết tiếng Việt có chức năng tạo âm sắc cho âm tiết. Là cơ sở để phân biệt âm tiết như trong các âm tiết. * Âm chính: Có 9 nguyên âm đơn là: /i, u, ư, e, ê, a, ơ, o, ô/ và 3 nguyên âm đôi được thể hiện trên chữ viết là: / iê, ua, uô, ưa, ue/ -19- Biểu trưng của khuôn vần trong Chinh phụ ngâm Ngoài thanh điệu ra, chính âm là thành tố duy nhất của âm tiết không bao giờ có thể thay thế được bằng /zêrô/. Nó là yếu tố chính của phần vần (vận mẫu) cung cấp cho toàn bộ âm tiết cái âm sắc chủ đạo của nó: âm sắc này bao quát toàn bộ âm tiết, kể cả âm đoạn phụ âm tuyến tính. * Chung âm (âm cuối) Chung âm là phần kết thúc âm tiết. Nó thường được biểu hiện bằng một phụ âm khép vào trong âm tiết kín. Có hai bán nguyên âm cùng làm nhiệm vụ kết thúc âm tiết. Trong các âm tiết hở, chung âm có dạng zêrô. Trong các âm tiết kín, tiếng Việt chỉ có 8 chung âm là: /-p/, /-m/, /-n/. /-n/, /-k/, và hai chung âm bán nguyên âm /-w/, /-j/ . Nhìn chung thì cách chia phần vần của âm tiết tiếng Việt của Huỳnh Công Tín cũng giống như cách phân chia của Bùi Thị Tâm, chỉ có cách gọi tên của các thành phần âm tiết là khác nhau. 1.3.3. Vần của âm tiết tiếng Việt theo Mai Thị Kiều Phượng Theo Mai Thị Kiều Phượng trong cuốn Tiếng Việt đại cương – ngữ âm, cho rằng: “Vần là một thành tố cấu tạo thuộc cấp độ bậc 1. Tuy phụ âm đầu cũng là yếu tố cấu tạo bậc 1, nhưng phụ âm đầu có thể khuyết trong một số trường hợp, còn vần là yếu tố quan trọng không thể vắng mặt để tạo nên âm tiết. Vần là thành phần chủ yếu tạo nên âm tiết”[25; tr.217]. Theo Mai Thị Kiều Phượng, vần của âm tiết có cấu tạo gồm 3 yếu tố thuộc cấu trúc âm đoạn: âm đệm, âm chính, âm cuối và một yếu tố thuộc cấu trúc âm đoạn: thanh điệu. Cấu tạo tối thiểu của vần là gồm 2 âm vị (một âm vị đoạn tính là ngữ âm và một âm vị siêu đoạn tính là thanh điệu). Thanh điệu là yếu tố chẳng bao giờ vắng mặt trong thành phần của vần, nó bao trùm lên toàn bộ phần vần. Cấu tạo tối đa của vần là 4 âm vị: 3 yếu tố thuộc cấu trúc âm đoạn: âm đệm, âm chính, âm cuối; và một yếu tố thuộc cấu trúc siêu âm đoạn: thanh điệu. Về chức năng theo bà vần là yếu tố âm tiết tính, là hạt nhân chủ yếu của âm tiết nên vần có chức năng chính là tạo đỉnh cho âm tiết. Vần là thành phần cấu tạo âm sắc của âm tiết. Mô tả phần vần của âm tiết theo bà như sau: -20-
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan