Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển đồng bằng sông cửu long nghiên cứu trư...

Tài liệu Tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển đồng bằng sông cửu long nghiên cứu trường hợp xã an thủy và thị trấn sông đốc tt

.DOC
29
290
53

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---o0o--- DƯƠNG HOÀNG LỘC TÍN NGƯỠNG CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN VEN BIỂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ AN THỦY (HUYỆN BA TRI, TỈNH BẾN TRE) VÀ THỊ TRẤN SÔNG ĐỐC (HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU) Chuyên ngành: DÂN TỘC HỌC Mã số: 62.31.03.10 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ DÂN TỘC HỌC Người hướng dẫn khoa học 1. PGS.TS. Trần Hồng Liên 2. PGS.TS. Huỳnh Ngọc Thu Thành phố Hồ Chí Minh – 2018 Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học 1. PGS.TS. Trần Hồng Liên 2. PGS.TS. Huỳnh Ngọc Thu Phản biện độc lập 1: PGS.TS. Lâm Bá Nam Phản biện độc lập 2: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh Phản biện 1:…………………….. Phản biện 2:…………………….. Phản biện 3:…………………….. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cơ sở đào tạo họp tại:………………………………………………………. ……………………………………………………………………………….. vào hồi……. giờ……. ngày….. tháng…. năm 2018 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Thư viện Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN I. Tạp chí khoa học 1. Dương Hoàng Lộc. (2015). Lễ hội nghinh Ông của cộng đồng ngư dân An Thủy (huyện Ba Tri-tỉnh Bến Tre). Tạp chí Phát triển Khoa học& Công nghệ, X3/2015. 2. Dương Hoàng Lộc.(2016). Tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng từ góc nhìn văn hóa Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn, số 2/2016. 3. Dương Hoàng Lộc. (2013). Một số nét chính về quá trình hình thành và phát triển cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre”. Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 2/2013. II. Kỷ yếu hội thảo 1. Dương Hoàng Lộc. (2014). Tìm hiểu tín ngưỡng thờ Mẫu ở cộng đồng ngư dân An Thủy-huyện Ba Tri-tỉnh Bến Tre”. Nhiều tác giả, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ bản sắc và giá trị, thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 2. Dương Hoàng Lộc. (2014). Lễ hội Nghinh Ông của của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre-Trường hợp xã An Thủy (huyện Ba Tri) và xã Bình Thắng (huyện Bình Đại). Nhiều Tác giả (2014), Lễ hội cộng đồng: truyền thống và biến đổi, thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 3. Dương Hoàng Lộc. (2017). Tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mẫu của ngư dân thị trấn Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau). Nhiều tác giả. (2017). Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Nghiên cứu thực hành tín ngưỡng trong xã hội đương đại, Hà Nội, Nxb.Thế giới. 4. Dương Hoàng Lộc. (2017). Giao thoa văn hóa Việt-Hoa qua các cơ sở thờ tự của cộng đồng tại thị trấn Sông Đốc. Nhiều Tác giả (2017), Văn hóa dân gian và giao lưu xuyên văn hóa ở Đông Á (Tập 1: Văn hóa dân gian cho hạt nẩy mầm), thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 5. Dương Hoàng Lộc. (2017). Lễ hội nghinh Ông ở Sông Đốc- một di sản văn hóa phi vật thể cần phát huy giá trị. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam-Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi DẪN LUẬN 1. Lý do nghiên cứu Nằm ở hạ lưu sông Mê Kông, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có 7 tỉnh giáp biển gồm Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Các tỉnh này thuộc khu vực Nam bộ tiếp giáp với Biển Đông và vùng Biển Tây Nam với chiều dài bờ biển là 732 km. Nghiên cứu vùng ven biển, hải đảo ở Việt Nam nói chung cũng như ĐBSCL nói riêng đã được các nhà khoa học đẩy mạnh trong khoảng hơn một thập niên năm qua. Đáng chú ý là những nghiên cứu về văn hóa của các cộng đồng ngư dân-chủ thể trực tiếp khai thác, đánh bắt thủy hải sản trên biển. Thông qua việc nghiên cứu chủ đề tín ngưỡng sẽ góp phần tìm hiểu những mong muốn, ước vọng của cộng đồng ngư dân trong cuộc sống, cũng như mối quan hệ giữa tín ngưỡng với môi trường sinh thái tự nhiên, sinh kế, lịch sử và văn hóa- xã hội của cộng đồng. Vì vậy, để hiểu rõ diện mạo cũng như phân tích đâu là những động thái đưa đến sự hình thành và tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng, việc gia tăng thực hành tín ngưỡng của ngư dân hiện nay cũng như nhận diện các đặc trưng tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân nơi đây, chúng tôi chọn đề tài Tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long: nghiên cứu trường hợp xã An Thủy(huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) và thị trấn Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau) làm đề tài luận án Tiến sĩ Dân tộc học. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Hệ thống và phân loại các loại hình tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân An Thủy và Sông Đốc hiện nay nhằm hiểu rõ nhận thức cũng như niềm tin, suy nghĩ của cộng đồng về các vị thần linh đang được thờ cúng. - Nhận diện các chức năng và đặc điểm chính của từng loại tín ngưỡng, chú trọng làm rõ vai trò, giá trị và những tác động của tín ngưỡng đối với đời sống cộng đồng ngư dân ĐBSCL nói chung và ở hai khu vực An Thủy, Sông Đốc nói riêng.. - Phân tích mối quan hệ giữa tín ngưỡng với các yếu tố như môi trường tự nhiên, sinh kế, quan hệ tộc người, lịch sử, văn hóa-xã hội của cộng đồng nhằm hiêủ rõ tính đa dạng của bức tranh tín ngưỡng các cộng đồng ngư dân ven biển ĐBSCL hiện nay. 3. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu các loại hình tín ngưỡng ở phạm vi cộng đồng cùng với những sinh hoạt tín ngưỡng gồm các hành vi, hoạt động liên quan trực tiếp như: Cơ sở thờ tự, lễ hội, truyền thuyết, văn hóa nghệ thuật (hát bội và múa bóng rỗi). Chúng tôi cũng nhận thức rằng hai cộng đồng ngư dân ven biển An Thủy và Sông Đốc được chọn khảo sát có đặc điểm là cộng đồng đa nghề nghiệp. Vì vậy, để luận án mang tính tập trung và nổi bật nội dung, chúng tôi chú trọng trình bày, phân tích cứ liệu thuộc về tín ngưỡng của nhóm ra khơi đánh bắt thủy hải sản gồm tài công và ngư phủ cùng với chủ ghe, các chủ đại lý thu mua thủy hải sản là những người liên quan trực tiếp đến hoạt động đánh bắt. Nhóm này mang tính đại diện cho đặc điểm kinh tế, văn hóa và xã hội của cộng đồng. 1 4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất luận án đưa ra là: Bản chất hoạt động tín ngưỡng của ngư dân ở đây là gì? Gắn với câu hỏi thứ nhất, có thể đưa ra giả thuyết ngư dân ra khơi đánh bắt gặp rủi ro về bão tố, sóng gió, áp lực về thu nhập để nuôi sống bản thân. Đồng thời, chủ ghe lại lo lắng về tài sản và nguồn vốn đầu tư cho mỗi chuyến ra khơi. Họ dễ bị lỗ vốn, thậm chí ghe-tài sản lớn nhất của họ bị tịch thu khi vượt sang hải phận nước khác. Một số chủ đại lý thu mua thủy hải sản lo lằng nguồn tiền đầu tư cho ghe mà không thể thu hồi toàn bộ. Vì vậy, họ có các cách thể hiện niềm tin và cúng bái khác nhau. Mặt khác, nhờ vào sinh hoạt tín ngưỡng đã tạo nên tính liên kết, thể hiện đặc trưng văn hóa truyền thống, đồng thời là cách trao truyền giá trị truyền thống giữa các thế hệ trong cộng đồng. Môi trường sinh thái vùng ven biển, biển đã tác động đến văn hóa của cộng đồng ngư dân. Như vậy, câu hỏi nghiên cứu thứ hai của luận án là: Môi trường sinh thái có tác động như thế nào đến tín ngưỡng của ngư dân? Và sự tác động đó chủ yếu ở phương diện nào? Với câu hỏi thứ hai, luận án tiên liệu rằng môi trường sinh thái, đặc biệt là qui luật gió mùa hoạt động trên biển, tác động nhiều đến sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng, nhất là thời điểm tổ chức lễ hội của cộng đồng, cũng như tạo ra sự biến đổi trong tín ngưỡng của họ hiện nay. Câu hỏi nghiên cứu thứ ba là: Trong sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng đâu là không gian thiêng và tục? Liên quan đến câu hỏi thứ ba, dựa vào cách tiếp cận cấu trúc, có thể cho rằng hai không gian cùng tồn tại song song khi người ta tham gia sinh hoạt tín ngưỡng là thiêng và tục. Họ vừa có thể thực hành tâm linh đồng thời vừa vui chơi, giải trí. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình khảo sát, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu định tính (qualitative research) để thu thập dữ liệu phục vụ luận án này: Điền dã dân tộc học, phỏng vấn sâu, ghi chép thực địa,… 6. Phạm vi nghiên cứu * Phạm vi không gian Đề tài chọn địa bàn khảo sát là xã An Thủy (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) và thị trấn Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau). * Phạm vi thời gian Từ năm 2014 đến năm 2017 là quãng thời gian người viết tiến hành thâm nhập cộng đồng, khảo sát điền dã, phỏng vấn sâu ở xã An Thủy, thị trấn Sông Đốc để thu thập dữ liệu nghiên cứu phục vụ luận án. Dựa trên những dữ liệu này, nghiên cứu tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân An Thủy, Sông Đốc nhằm hiểu về chức năng, vai trò, tác động của nó đối với đời sống cộng đồng hiện nay. 7. Những đóng góp mới của luận án - Trên cơ sở dữ liệu khảo sát, điều tra, nghiên cứu tại hai cộng đồng. luận án sẽ trình bày hệ thống, đầy đủ các hình thức tín ngưỡng lẫn những sinh hoạt tín ngưỡng liên quan của họ. - Luận án chỉ ra và phân tích những động thái cụ thể, trực tiếp dẫn đến việc hình thành, gia tăng thực hành tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân An Thủy, Sông Đốc. Mối quan hệ giữa tín ngưỡng với đặc điểm sinh kế, môi trường sinh thái, nguồn 2 gốc lịch sử và quan hệ tộc người được quan tâm xem xét, là tiền đề chính giúp nhận diện các đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng cộng đồng. - Luận án nhận diện một số xu hướng biến đổi của tín ngưỡng ở hai trường hợp được chọn nghiên cứu trong đời sống văn hóa-xã hội của cộng đồng hiện nay. 8. Bố cục của luận án Nội dung chính của luận án được phân chia bố cục thành 3 chương: - Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bàn nghiên cứu. Nội dung của chương này trình bày các vấn đề liên quan đến tình hình nghiên cứu, những khái niệm cũng như quan điểm tiếp cận, lý thuyết nghiên cứu, tổng quan về hai cộng đồng được chọn nghiên cứu. - Chương 2: Các hình thức tín ngưỡng và sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng. Nội dung của chương này giới thiệu về niềm tin, việc thờ cúng Cá Ông, thờ Mẫu và vong linh người mất trên biển thông qua các đặc trưng cụ thể cũng như những thực hành của cộng đồng như cơ sở thờ tự, lễ hội, văn hóa nghệ thuật. - Chương 3: Tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân: Chức năng và đặc điểm. Nội dung chương này tập trung phân tích chức năng tâm lý và chức năng xã hội của tín ngưỡng, nhận diện những đặc điểm nổi bật cũng như một số xu hướng biến đổi hiện nay của tín ngưỡng trong cộng đồng. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU - Trước tiên, liên quan đến những khái niệm được sử dụng nghiên cứu trong luận án này đã có nhiều công trình nghiên cứu công bố trong nhiều năm qua đề cập. Cho nên, đây là nguồn tài liệu thiết thực, bổ ích để luận án kế thừa và vận dụng. Các công trình liên quan đến khái niệm tín ngưỡng được tiếp cận, tham khảo cho việc thực hiện luận án có thể kể đến một số quyển sách tiêu biểu như: Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam (2005) của Đặng Nghiêm Vạn, Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền (2007) của Ngô Đức Thịnh và một công trình khác cũng do tác giả này chủ biên là Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam (2001), Nhân học văn hóa con người với thiên nhiên, xã hội và thế giới siêu nhiên của Vũ Minh Chi (2004),…Gần đây, Luật tín ngưỡng, tôn giáo của nhà nước Việt Nam (2017)... đã được ban hành. Luật này đã đưa ra khái niệm tín ngưỡng. Bên cạnh đó, còn có công trình Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng do Ngô Đức Thịnh chủ biên (2001) đã đưa ra sự khác biệt giữa hai thuật ngữ tín ngưỡng và tôn giáo. Vì vậy, luận án kế thừa khái niệm tín ngưỡng từ Luật tín ngưỡng, tôn giáo của nhà nước Việt Nam cũng như quan điểm tín ngưỡng tích hợp các sinh hoạt, giá trị văn hóa của Ngô Đức Thịnh để tiếp cận lẫn triển khai nghiên cứu. Mặt khác, khái niệm cộng đồng cũng như mối quan hệ giữa cộng đồng với nhân tố tín ngưỡng, tôn giáo được hai tác giả Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang nhắc đến trong quyển sách Phát triển cộng đồng lý thuyết và vận dụng (2000). - Tiếp theo, các nghiên cứu về cộng đồng ngư dân được tiếp cận cả những nghiên cứu trong lẫn ngoài nước rất hữu ích và làm cơ sở tiếp cận nghiên cứu cộng đồng cho luận án. Nhiều quyển sách giới thiệu về cộng đồng ngư dân nhiều nơi trên thế giới đã được nhiều nhà nhân học nước ngoài công bố. Đầu tiên, không thể không nhắc đến quyển. Argonauts of Western Pacific (Những người hùng của Tây Thái Bình Dương) được xuất bản năm 1922 bởi nhà nhân học Malinowski. Bên cạnh đó, Cynthia Chou xuất bản công trình Những người du cư trên biển Indonesia: Tiền bạc, ma thuật và sự sợ hãi của Orang Suku Laut (Indonesian sea Nomands: Money, magic and fear of the Orang Suku Laut) vào năm 2003. Tác giả nghiên cứu tộc người Orang Suku Laut ở quần đảo Riau. Ngoài ra, về lĩnh vực nhân học biển, chúng tôi tiếp cận sách Những người sống trên biển: Nghiên cứu Nhân học biển (Those who live from the sea: Study in Maritime Anthropology) do Estellie M.Smith tập hợp xuất bản ở Mỹ năm 1980. Đây là một tuyển tập cung cấp những dữ liệu dân tộc học về cộng đồng nghề cá ở châu Mỹ như Canada, Venezuela, Mỹ, Ecuador,… Ở Việt Nam, quyển sách Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam (2002) của Nguyễn Duy Thiệu đã giới thiệu một cách tổng thể về quá trình hình thành và phát triển các nhóm ngư dân ở nước ta và đối tượng được đề cập là các cộng đồng ngư dân chuyên nghiệp tức là những người lấy hoạt động ngư nghiệp làm nguồn sống duy nhất hoặc chủ yếu cho gia đình mình. Quyển Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam bộ do Trần Hồng Liên (chủ biên) (2004) là một nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn. Đây là một một nghiên cứu dân tộc học theo phương pháp nghiên cứu trường hợp hai cộng đồng ngư dân Phước Tỉnh (Huyện Đất Đỏ, Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) và Vàm Láng (Huyện Gò Công 4 Đông, Tỉnh Tiền Giang). Đặc biệt, quyển sách Đời sống xã hội-kinh tế văn hóa của ngư dân và cư dân ven biển Nam bộ được xuất bản năm 2014 của Phan Thị Yến Tuyết là một công trình quan trọng, có giá trị khoa học lẫn thực tiễn trong nghiên cứu cộng đồng ngư dân, cư dân ven biển Nam bộ dưới góc nhìn Nhân học biển (Maritime Anthropology). Những đúc kết quan trọng về đời sống kinh tế-xã hội-văn hóa của các cộng đồng ngư dân và cư dân Nam bộ rất có ý nghĩa tham khảo. Phạm Thanh Duy đã hoàn thành luận án tiến sĩ năm 2013 tại Đại học Hải Dương Tokyo (Nhật Bản) Những vấn đề xã hội-văn hóa và sự phát triển ở một cộng đồng ngư dân miền Nam Việt Nam: Trường hợp tại cộng đồng Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau (Socio-cultural issue and development in a fishing community of southern Vietnam: A case stuydy of Song Doc communityin Tran Van Thoi district, Ca mau province). Luận án này đã góp một cái nhìn về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội cũng như sự phát triển bền vững của cộng đồng này trong thời gian tiếp theo. Nhìn chung, qua một số tài liệu nghiên cứu trong, ngoài nước về cộng đồng ngư dân giúp cho luận án kế thừa việc tiếp cận, nghiên cứu cộng đồng cần chú trọng đến các nhân tố môi trường sinh thái, văn hóa-xã hội, nhất là sinh kế tác động và hình thành nên diện mạo, đặc điểm mỗi cộng đồng. Ngoài ra, các nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của nghề đánh bắt hải sản-sinh kế chủ đạo của cộng đồng. Mặt khác, qua hầu hết các công trình nghiên cứu đã công bố cho thấy hai cộng đồng ngư dân An Thủy, Sông Đốc cần được nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ hơn nữa. Bên cạnh đó, các công trình liên quan đến lý thuyết nhân học được chúng tôi tiếp cận nhằm rút ra những luận điểm quan trọng của từng lý thuyết mà luận án này vận dụng nghiên cứu. Bộ Từ điển Nhân học (The Dictionary of Anthropology) (2 tập) của Thomas Barfield (1998) đã ghi nhận tên tuổi, sự nghiệp cũng như các luận điểm chính của các nhà nhân học thuộc trường phái Cấu trúc, Chức năng cũng như Sinh thái học văn hóa như Claude Levi Strauss, Bronislaw Malinowski, Arthur Reginald Radcliffe Brown, Julien Steward,… Quyển Nhập môn lý thuyết nhân học(An Introdution to theory in Anthropology) (2007) của Robert Layton, sách Những vấn đề Nhân học tôn giáo (2006) do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam thực hiện có trích bài “Ma thuật, khoa học và tôn giáo” của nhà nhân học Bronislaw Malinowski, sách Cấu trúc và chức năng trong xã hội nguyên thủy (Structure and funtion in primitive society) (1965) của A.R.Radcliffe-Brown,… được tham khảo. Các tài liệu này đã giúp ích rất nhiều cho việc thực hiện luận án trên mặt tiếp cận những lý thuyết được vận dụng nghiên cứu, giúp trả lời những câu hỏi nghiên cứu đặt ra. - Kế đó, các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng của ngư dân vùng biển ở Việt Nam nói chung cũng như ở Nam bộ và ĐBSCL nói riêng. Cho đến nay, việc nghiên cứu về tín ngưỡng ngư dân vùng biển đã có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu trong nước xuất bản. Tiêu biểu có thể kể đến như: Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa của Lê Quang Nghiêm (1970), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền của Ngô Đức Thịnh (2007), Tín ngưỡng dân gian những góc nhìn (2014), Tín ngưỡng thờ thủy thần ở Nam bộ (2015) của Nguyễn Thanh Lợi, Luận án tiến sĩ Tôn giáo tín ngưỡng của cư dân vùng biển Bạc Liêu do Trương Thu Trang thực hiện (2017), Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam Đà Nẵng của Nguyễn Xuân Hương (2009), Luận án tiến sĩ Biến đổi tín ngưỡng của cư dân ven biển Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa của Lê Thị Thu Hiền (2007)… những công trình này mang giá trị tham khảo về mặt tư liệu, phương pháp tiếp cận cũng như những đánh giá, phân tích, lý giải về nguồn gốc, thực trạng các loại hình tín ngưỡng được người dân vùng biển nước ta thờ cúng. Đáng chú ý là các nghiên cứu như sách Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa của Lê Quang Nghiêm, sách Tín ngưỡng thờ Thủy thần ở Nam bộ của Nguyễn Thanh 5 Lợi, sách Văn hóa dân gian làng ven biển do Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian thực hiện, sách Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa-Vũng Tàu (2004),…,Với cách tiếp cận hệ thống, các hình thái tín ngưỡng này không chỉ dừng lại ở niềm tin mà còn có cả các hình thức gắn liền với nó như lễ hội, diễn xướng dân gian, cơ sở thờ tự mang tính chất đặc thù ở từng loại hình khác nhau. Cho nên, cách tiếp cận này được tác giả luận án kế thừa, vận dụng nghiên cứu vào từng loại hình tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân An Thủy và Sông Đốc. - Cuối cùng, luận án cần kế thừa những nghiên cứu liên quan đến tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân An Thủy và Sông Đốc trước nay, nhất là thu thập dữ liệu làm cơ sở tìm hiểu, phân tích, đánh giá. Cho nên, các công trình: Sách Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ 1757 đến 1945) của Nguyễn Duy Oanh (2017), Địa chí Bến Tre do Thạch Phương-Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Văn hóa dân gian Nam bộ những phác thảo của Nguyễn Phương Thảo (1997), Cà Mau xưa của Huỳnh Minh-Nghê Văn Lương (2003),… Tuy nhiên, khảo tả, phân tích trực tiếp về hoạt động tín ngưỡng của hai cộng đồng ngư dân này, chúng tôi quan tâm đến các nghiên cứu tiêu biểu sau đây: Luận án tiến sĩ Miếu, lăng, cung thờ ở Cà Mau tín ngưỡng và giá trị nhân văn của Phan Văn Tú (2008). luận văn thạc sĩ Văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre của Dương Hoàng Lộc (2009) và một số bài viết liên quan như: “Tín ngưỡng thờ Bà Thủy của cộng đồng ngư dân An Thủy”, “Tìm hiểu tín ngưỡng thờ Mẫu của cộng đồng ngư dân An Thủy-huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre”, “Tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mẫu của ngư dân thị trấn Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau)”, “Lễ hội nghinh Ông ở Sông Đốc-một di sản văn hóa phi vật thể cần phát huy giá trị”, “Giao thoa văn hóa Việt-Hoa qua các cơ sở thờ tự của cộng đồng tại thị trấn Sông Đốc”. Bên cạnh đó là bài viết “Tín ngưỡng thờ Nữ thần ở huyện ven biển Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau-dưới góc nhìn văn hóa biển” do Bùi Thị Hoa thực hiện. Thiết nghĩ, các nghiên cứu này, ở phạm vi một bài viết, nên nội dung chỉ ở mức độ riêng rẽ từng hình thức, từng sinh hoạt tín ngưỡng hoặc ở một hướng tiếp cận nào đó. Tuy nhiên, cũng cần nói rằng, những tư liệu ở các bài viết cung cấp nguồn tư liệu quan trọng, mang tính tiền để luận án kế thừa và tiếp tục đi sâu tìm hiểu. Tuy có đề cập đến các chức năng cũng như đặc điểm của tín ngưỡng ở hai cộng đồng này nhưng các tác giả chỉ đề cập mức độ đơn giản, chưa đi sâu phân tích, nhất là gắn với hoạt động khai thác, tiêu thụ nguồn tôm cá đánh bắt được. Vì thế, đây là vấn đề mà tác giả tiếp tục triển khai nghiên cứu trong luận án này. 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.2.1. Các khái niệm Qua nhiều công trình lẫn văn bản pháp luật đã công bố, đặc biệt qua phân loại của một số tài liệu nghiên cứu, có thể tạm chia hai nhóm quan điểm khác nhau về khái niệm tín ngưỡng. Thứ nhất là nhóm quan điểm cho rằng tín ngưỡng là trạng thái tâm lý của con người đối với thế lực thiêng, là một bộ phận của tôn giáo và không thể tách rời khỏi tôn giáo, đồng thời trở thành tiền đề quan trọng hình thành nên tôn giáo. Tiêu biều là Đặng Nghiêm Vạn, Vũ Minh Chi, E.B. Tylor, G.J. Frazer,… Nhóm thứ hai (Phan Hữu Dật, Trần Ngọc Thêm,…) có quan điểm khác, xem tín ngưỡng hoàn toàn khác và thậm chí còn độc lập với tôn giáo. Từ cách hiểu về khái niệm tín ngưỡng đã nêu, dựa vào bối cảnh nghiên cứu văn hóa Việt Nam, có thể đi đến một số nhận định sau: - Thứ nhất, tín ngưỡng là một hình thức văn hóa phi vật thế mang tính độc đáo, góp phần biểu hiện đời sống vật chất, tinh thần của con người Việt Nam. Ngoài ra, tín ngưỡng còn đóng góp việc hình thành nên các giá trị truyền thống của văn hoá 6 và tính cách dân tộc, kết nối cộng đồng thông qua sự cộng mệnh và cộng cảm, thúc đẩy việc bảo tồn bản sắc văn hóa. - Thứ hai, tín ngưỡng không những đơn thuần là niềm tin mà còn là cách thể hiện những niềm tin ấy bằng những hành động cụ thể của họ đối với một hiện tượng siêu nhiên hoặc một sự vật, cá nhân liên quan đến cuộc sống thực tại của con người đã được thiêng hóa để cầu mong sự che chở, giúp đỡ. Những hành động thể hiện niềm tin được gọi là sinh hoạt tín ngưỡng, hoạt động tín ngưỡng. - Thứ ba, tín ngưỡng cần được nhìn nhận là một hiện tượng văn hóa - xã hội. Cho nên, qua tìm hiểu tín ngưỡng của cá nhân lẫn cộng đồng giúp nhận diện được bối cảnh văn hóa-xã hội nơi mà họ đã và đang tồn tại - Thứ tư, tín ngưỡng không tồn tại một cách đơn lẻ mà có sự tích hợp với nhiều hình thức văn hóa khác nhau để bộc lộ các khía cạnh của niềm tin của con người thông qua các hành vi cụ thể. - Thứ năm, tín ngưỡng và tôn giáo còn khác biệt ở các yếu tố thuộc về khía cạnh tổ chức tôn giáo: Giáo chủ, giáo lý, giáo qui và giáo hội mà ở tín ngưỡng không có. Ngoài ra, ở Việt Nam, tín ngưỡng và tôn giáo còn có sự giao thoa lẫn nhau do đặc tính dung hợp-một đặc điểm truyền thống văn hóa dân tộc. Vì vậy, không thể bỏ qua việc tìm hiểu đến sự hiện diện của các yếu tố tôn giáo trong niềm tin, sinh hoạt tín ngưỡng và ngược lại. - Thứ sáu, phân loại tín ngưỡng hiện có nhiều cách thức khác nhau bởi các nhà nghiên cứu ở nước ta. Theo đó, gắn với luận án này cần giới thiệu qua khái niệm tín ngưỡng cộng đồng, tín ngưỡng nghề nghiệp. Tín ngưỡng cộng đồng là những hình thức thờ phụng thần linh ở phạm vi cộng đồng dân cư (chẳng hạn như thôn xã của người Việt) để bảo vệ, che chở cho cuộc sống của họ. Ngoài ra, tín ngưỡng nghề nghiệp được hiểu là tín ngưỡng của những nhóm, những cộng đồng nghề nghiệp khác nhau trong xã hội với chức năng phù hộ hoạt động nghề nghiệp của họ được thuận lợi, phát triển * Khái niệm cộng đồng Cộng đồng là một nhóm người có sự tương tác và mối quan hệ chặt chẽ, cùng chia sẻ với nhau những giá trị văn hóa-xã hội mà họ thừa nhận để đảm bảo sự ổn định và phát triển của bản thân mỗi cộng đồng. * Cộng đồng ngư dân Cộng đồng ngư dân là khái niệm rất khó định nghĩa một cách rõ ràng với những nội hàm liên quan, bởi vì cần phải xét ở từng điều kiện cụ thể mới có thể hiểu rõ. Tuy nhiên, nói đến cộng đồng ngư dân ven biển có thể bước đầu hiểu đây là một tập hợp người sinh sống sinh sống ở các vùng ven biển. Nghề đánh bắt thủy hải sản giữ vai trò quan trọng, chi phối đến sự phát triển kinh tế-xã hội của cộng đồng. Đồng thời, cộng đồng này thể hiện rõ những đặc điểm văn hóa - xã hội vốn chịu ảnh hưởng khá rõ bởi sinh kế cùng với môi sinh vùng ven biển và biển. 1.2.2. Quan điểm tiếp cận và lý thuyết nghiên cứu * Quan điểm tiếp cận Quan điểm tiếp cận từ cộng đồng: Từ quan điểm này sẽ giúp cho người nghiên cứu chọn cách thâm nhập cộng đồng phù hợp để điền dã dân tộc học thuận lợi, hơn nữa đó là những dữ liệu trung thực, khách quan để trả lời câu hỏi nghiên cứu một cách chính xác. Mặt khác, nó còn góp phần nói lên tiếng nói của cộng đồng và của các 7 chủ thể khác nhau trong cùng một cộng đồng, tránh đi những phán đoán, nhận định chủ quan của nhà nghiên cứu, xem xét nhiều góc độ khi nhìn nhận một vấn đề nào đó. * Những lý thuyết nghiên cứu Để làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu và trả lời những câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra, chúng tôi sử dụng những lý thuyết nghiên cứu của ngành nhân học: Thuyết Chức năng, thuyết Cấu trúc và thuyết Sinh thái học văn hóa. Thiết nghĩ, trong việc tìm hiểu các lý thuyết này, việc kế thừa một số luận điểm cơ bản gắn liền đề tài là hết sức cần thiết. Đồng thời, việc sử dụng nhiều lý thuyết trong một nghiên cứu sẽ giúp cho nghiên cứu này có một cái nhìn đa chiều, toàn diện để khám phá, lý giải nhiều vấn đề mà mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra. - Lý thuyết Chức năng: Trường phái Chức năng luận gắn với hai nhà nhân học B.Malinowski (1884-1942) và A. R.Radcliffe - Brown (1881-1955). Cả hai ông cùng hướng đến việc tìm hiểu các thiết chế góp phần vào việc duy trì đời sống văn hóa-xã hội, cùng phản ứng lại quan niệm của thế kỉ XIX cho rằng có thể phân thứ bậc các xã hội đang tồn tại theo các giai đoạn mà chúng đã đạt đến trong sự tiến hóa xã hội. Tuy vậy, Malinowski và Radcliffe – Brown đều có những hướng đi riêng của mình. Điều này tạo ra hai nhánh trong cùng một trường phái, đó là chức năng tâm lý gắn với Malinowski và chức năng cấu trúc thuộc về Radcliffe –Brown. Malinowski đã nhắc đến chức năng của tín ngưỡng, tôn giáo là nhằm đáp ứng việc thỏa mãn nhu cầu tâm lý của con người, giúp họ tránh đi những sợ hãi, lo lắng bởi những rủi ro, bất trắc khó lường trong cuộc sống. Malinowski đưa ra giả thuyết môi trường tự nhiên càng bất trắc thì những lo lắng tâm lý càng tăng và buộc người ta có khuynh hướng dùng đến ma thuật, lễ nghi. Mặt khác, Radcliffe –Brown chủ trương tìm hiểu vai trò của các thể chế văn hóa, cấu trúc xã hội trong việc duy trì sự cân bằng, ổn định của một xã hội. Ông cũng khẳng định chức năng của việc thực hiện nghi lễ có một chức năng xã hội đặc biệt: Điều chỉnh, duy trì và chuyển giao thế hệ này sang thế hệ khác những cảm xúc và niềm tin. - Lý thuyết Cấu trúc: Cấu trúc luận (Structuralism) xuất hiện vào cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất, được phổ biến ở Pháp, Anh và ảnh hưởng không lớn ở Mỹ. Trường phái này do Claude Lévi Strauss đề xướng. Lévi-Strauss tìm cách xây dựng ngữ pháp phổ quát của văn hóa, những cách thức các đơn vị của diễn ngôn văn hóa được tạo ra (theo nguyên tắc đối lập nhị nguyên), các qui tắc sắp xếp và kết hợp các đơn vị đó (các cặp đối lập) tạo ra những sản phẩm văn hóa thực sự (thần thoại, các qui định hôn nhân, sự sắp đặt vật tổ của các thị tộc,…) mà các nhà nhân học ghi chép. Theo đó, mô hình cấu trúc luận trong nhân học cho thấy cấu trúc của hệ nhận thức con người ở mọi nền văn hóa đều tồn taị theo hình thức đối lập nhị nguyên với những cặp tương phản như tối-sáng, đen-trắng, nam-nữ, sống-chín, trên-dưới, tự nhiên-văn hóa…. - Lý thuyết Sinh thái học văn hóa: Sinh thái học văn hóa chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa môi trường tự nhiên và văn hóa, trong đó yếu tố tự nhiên là cơ sở cho việc hình thành các mô hình văn hóa khác nhau. Nhân vật đại diện tiêu biểu của trường phái này là Julian Steward-nhà nhân học người Mỹ. Điều cần nhấn mạnh là Julian Steward đã đưa ra phương pháp sinh thái văn hóa. Theo đó, bước thứ nhất phải phân tích sự tương liên giữa môi trường tự nhiên và các kỹ thuật sử dụng để khai thác và xử lý nguồn tài nguyên này, bước thứ hai sẽ phân tích cách xã hội tổ chức công việc (làm việc cá nhân hay nhóm) liên quan đến các hoạt động sinh tồn và kinh tế gắn với nguồn tài nguyên và bước thứ ba là truy nguồn sự ảnh hưởng qua lại giữa hai hiện tượng này tới các yếu tố khác của văn hóa. Theo Steward, môi trường sinh thái tác 8 động đến văn hóa ở các yếu tố nòng cốt như tổ chức xã hội, chính trị, tôn giáo là những yếu tố chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường 1.3. DIỆN MẠO CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN VEN BIỂN ĐBSCL Vùng ven biển ĐBSCL trải dài qua các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Ở các địa phương này đã hình thành nên những cộng đồng đánh bắt thủy hải sản ven biển khá lâu. Ngày nay, việc đánh bắt xa bờ của họ không ngừng được đầu tư với nhiều ghe tàu được trang thiết bị hiện đại đã vươn ra khơi xa đánh bắt. Có nhiều địa phương ven biển nơi đây trở thành những cộng đồng đánh bắt với qui mô lớn về ghe tàu và sản lượng tôm cá. Chính điều này đã đem lại nguồn thu nhập nói riêng cũng như sự phát triển kinh tế-xã hội của người dân nói chung trong thời gian qua. Vì vậy, để tập trung và có cái nhìn cụ thể, việc giới thiệu diện mạo của các cộng đồng đánh bắt tiêu biểu ở ven biển ĐBSCL rất cần thiết. Đó là thị trấn Vàm Láng (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), xã An Thủy (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre), xã Bình Thắng (huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre), thị trấn Định An (huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh), thị trấn Trần Đề (huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng), thị trấn Gành Hào (huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu), thành phố Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang), thị trấn Cái Đôi Vàm (huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau), thị trấn Sông Đốc (huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau). Qua khảo sát một số cộng đồng ngư dân tiêu biểu ở các địa phương ven biển ĐBSCL đã cho thấy một đặc điểm nổi bật là nghề đánh bắt thủy hải sản giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế địa phương, là tiền đề phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá để đáp ứng nhu cầu ra khơi, giải quyết việc làm cho lao động địa phương. Hai mươi năm qua, hoạt động đánh bắt đã được nhà nước đầu tư bằng hình thức cho vay vốn đóng tàu, xây dựng hệ thống cảng cá đã góp phần thúc đẩy ngư dân ngày một tiến ra khơi xa đánh bắt trên biển Đông cũng như vùng biển Tây Nam. Tuy vậy, ngày nay, thách thức về sụt giảm trữ lượng tôm cá, thiếu nhân lực lao động nghề cá, bị nước ngoài tịch thu cũng như giam giữ thuyền viên đang là vấn đề mà các cộng đồng này gặp phải. 1.4. TỔNG QUAN VỀ HAI CỘNG ĐỒNG NGHIÊN CỨU Hai cộng đồng ngư dân An Thủy, Sông Đốc được tiếp cận phương diện địa bàn cư trú, hoạt động kinh tế, đời sống văn hóa-xã hội. Qua việc giới thiệu diện mạo của cộng đồng ngư dân Sông Đốc và An Thủy, có thể đi đến một số đúc kết như sau: - Nghề đánh bắt thủy hải sản là sinh kế chính của hai cộng đồng này và có chung quá trình phát triển, mở rộng phạm vi đánh bắt từ trong bờ, ven bờ và cho đến nay là xa bờ. Nghề này đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế-xã hội địa phương hiện tại. Bên cạnh đó, với đặc điểm là cộng đồng đa nghề nghiệp, nên hai cộng đồng này còn có nhiều nghề khác tồn tại như: Nghề nuôi trồng thủy hải sản, nghề trồng lúa, nghề làm muối và nghề kinh doanh,...nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương cũng như sự phát triển toàn diện của kinh tế-xã hội. Vì vậy, mô hình cơ cấu kinh tế của xã An Thủy gồm: Ngư-nông-lâm-diêm, còn mô hình của thị trấn Sông Đốc là ngư-nông-lâm kết hợp. - Trong quá trình hình thành, phát triển của hai cộng đồng này, không thể không nhắc đến vai trò của người Hoa đến đây khai thác, tổ chức mua bán thủy hải sản, góp phần rất lớn cho việc phát triển kinh tế địa phương, đồng thời chắc chắn sẽ để lại những dấu ấn văn hóa của tộc người này ở xã An Thủy, thị trấn Sông Đốc hiện nay. - Tuy hai cộng đồng ngư dân An Thủy và Sông Đốc có mối liên hệ qua lại thường xuyên, đều thuộc loại hình ngư dân bãi dọc, nhưng không thể bỏ qua sự khác 9 biệt giữa hai nơi này. Thứ nhất, nghề đánh bắt thủy hải sản truyền thống của họ trước đây phụ thuộc vào qui luật gió mùa hoạt động trên biển Đông. Do nằm phía đông nam của biển Đông nên mùa gió nam (gió mùa tây nam) là thời điểm thích hợp để ngư dân An Thủy đánh bắt. Ngược lại, mùa gió chướng (gió mùa đông bắc) thích hợp để ngư dân ở thị trấn Sông Đốc ra khơi khai thác trên vùng biển Tây Nam. Về cách thức đánh bắt, ngư dân An Thủy chuyên đóng đáy song cầu, đáy rạo ngày trước và nay thì thiên về loại hình ghe cào có thể đánh bắt hàng tháng trên biển. Trước kia, ngư dân Sông Đốc phát triển nghề nò xiêm, chà chim. Hiện tại, họ chuyên đánh bắt bằng ghe câu mực, ghe lưới đèn và ra khơi theo qui luật “con trăng” hàng tháng. Tại thị trấn Sông Đốc, nguồn gốc cư dân cũng như ngư dân địa phương mang tính đa dạng, thậm chí là phức tạp hơn xã An Thủy rất nhiều vì lý do thị trấn này thu hút đông ghe tàu từ nhiều tỉnh, thành đến lưu trú cũng như nhiều người đi về đây tìm kiếm việc làm. Thị trấn Sông Đốc có qui mô về sản lượng khai thác lẫn ghe tàu đánh bắt xa bờ hơn hẳn xã An Thủy. Tiểu kết chương 1 Đầu tiên, chương này tập trung phân tích các khái niệm tín ngưỡng, cộng đồng và ngư dân để làm công cụ phục vụ nghiên cứu. Kết quả phân tích còn làm cơ sở để lựa chọn những nội dung phù hợp, quan trọng, nổi bật ở từng khái niệm nhằm tiếp cận dễ dàng, phù hợp với bối cảnh, cách tiếp cận lẫn đối tượng nghiên cứu. Đồng thời, những luận điểm chính của các Lý thuyết Chức năng (Chức năng tâm lý, chức năng xã hội), Lý thuyết Cấu trúc, Lý thuyết Sinh thái học văn hóa cũng được trình bày để làm cơ sở xây dựng khung phân tích của luận án. Từ đó việc vận dụng những luận điểm chính của các lý thuyết vào việc trả lời từng câu hỏi nghiên cứu, giả thiết nghiên cứu đã đặt ra. Điều này góp phần rất lớn vào chất lượng cơ sở lý luận của luận án. Hai cộng đồng ngư dân Sông Đốc, An Thủy có một diện mạo riêng về môi trường sinh thái, quá trình hình thành và phát triển, đời sống văn hóa-xã hội lẫn hoạt động kinh tế của họ. Đặc biệt, qua việc trình bày phương thức đánh bắt thủy hải của ngư dân cho thấy đây là sinh kế quan trọng, ảnh hưởng và chi phối đến toàn bộ nền kinh tế-xã hội của cộng đồng. 10 Chương 2 CÁC HÌNH THỨC TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT TÍN NGƯỠNG CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN 2.1. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT TÍN NGƯỠNG CÁ ÔNG 2.1.1. Tín ngưỡng Cá Ông: Nguồn gốc và niềm tin Tín ngưỡng Cá Ông được ngư dân ven biển Miền Trung rất tin tưởng nên họ thờ cúng thần phổ biến từ Thanh Hóa trở vào đến tận Kiên Giang. Về bản chất, tín ngưỡng Cá Ông thuộc tín ngưỡng vật linh (Animalism). Niềm tin về Cá Ông của ngư dân ven biển ĐBSCL rất lớn, sâu sắc vì họ xác tín Thần cứu giúp họ vượt qua những lúc sóng to, gió lớn ở ngoài khơi cũng như mang lại sự sung túc cho ngư nghiệp. Kết quả khảo sát tại hai cộng đồng ngư dân An Thủy và Sông Đốc cho thấy niềm tin Thần Nam Hải của ngư dân có nhiều nét độc đáo. Trước nay, người làm nghề đánh bắt thủy hải sản xã An Thủy và thị trấn Sông Đốc rất tôn kính Cá Ông. Vì vậy, họ gọi Cá Ông bằng Ông Nam Hải, Nam Hải Tướng Quân, nhưng nhiều và phổ biến nhất là Ông. Nhìn chung, những đặc trưng nổi bật trên phương diện niềm tin về Cá Ông tại hai địa phương này được biểu hiện như sau: -Thứ nhất, từ những ngư dân cao tuổi cho đến các thành phần ngư nghiệp gồm các chủ ghe tàu, ngư phủ, chủ đại lý thu mua thủy hải sản hiện nay đều tin tưởng vào quyền năng cứu người mỗi khi gặp nạn trên biển của Thần Nam Hải. - Thứ hai, ngư dân An Thủy và Sông Đốc đã hình thành tri thức nhận diện Thần Nam Hải nếu tình cờ gặp trên biển hoặc thi hài bị trôi dạt vào bờ. Điều này tránh đi sự nhầm lẫn với một số loài cá tương tự như cá giông (dông), cá xà trên vùng biển Nam bộ ngày trước. - Thứ ba, trước đây, tại An Thủy và Sông Đốc, mỗi khi thấy Ông trôi dạt vào bờ, việc tổ chức tang lễ cho Thần long trọng để tỏ lòng kính tiếc. Phong tục mai táng và việc lưu giữ hài cốt Cá Ông vẫn được lưu truyền cho đến hiện nay ở địa phương, tuy có biến đổi đôi chút. Ngoài ra, đây là biểu hiện về sự kế tục nghi thức tang ma truyền thống của Cá Ông giữa các thế hệ ngư dân địa phương. - Thứ tư, mối quan hệ giữa ngư dân và Cá Ông mang tính hai chiều, thể hiện qua sự giúp đỡ lẫn nhau với tình cảm sâu sắc, đồng thời cho thấy sự gắn bó giữa con người với môi trường biển cả. - Thứ năm, ngày nay, ở xã An Thủy và thị trấn Sông Đốc, các ngư dân cao tuổi vẫn còn nhắc đến việc Cá Ông hiển linh giúp vua Gia Long bằng cách đưa thuyền vào bờ nên ông đã thoát nạn bão tố trên biển trong lúc còn bôn ba ở Nam bộ để phục nghiệp Như vậy, tín ngưỡng Cá Ông chính là tín ngưỡng đặc trưng của nghề đánh bắt thủy hải sản của ngư dân An Thủy, Sông Đốc. Trong niềm tin của họ, Thần Nam Hải luôn luôn phù hộ cho ghe tàu ra khơi được bình an, cứu giúp họ thoát khỏi tai nạn nên rất được ngư dân tin tưởng. Ngoài ra, thần còn phù hộ nghề đánh bắt được thịnh vượng, sung túc. Mặt khác, qua tìm hiểu lẫn phân tích, sự xuất hiện thêm yếu tố Nho giáo, Đạo giáo đã cho thấy tục thờ Cá Ông ở đây có nét độc đáo, thể hiện chiều sâu văn hóa tinh thần của người dân địa phương. 2.1.2. Sinh hoạt tín ngưỡng Cá Ông 11 Sinh hoạt tín ngưỡng Cá Ông chính là những biểu hiện của ngư dân nhằm bày tỏ niềm tin, tấm lòng thành kính của họ đối với Thần Nam Hải. Cụ thể, đó là việc xây dựng nơi thờ cúng-lăng Ông, tổ chức lễ hội nghinh Ông và trình diễn hát bội cho thần thưởng thức. Mục tiêu của những việc làm này còn hướng đến việc cầu mong Thần Nam Hải phù hộ bình an, giúp cho ngư nghiệp địa phương được sung túc, thịnh vượng. * Lăng Ông Tại An Thủy và Sông Đốc, nơi thờ Thần Nam Hải được gọi là Lăng Ông Nam Hải. Qua khảo sát cho thấy: Hai lăng Ông này không đồng nhất về kiến trúc lẫn bài trí thờ tự. Ngoài ra, nét tương đồng của hai Lăng Ông Nam Hải ở An Thủy và Sông Đốc là được trùng tu nhiều lần. Đây là thời điểm mà nghề đánh bắt thủy hải sản ở địa phương bắt đầu phát triển do ngư dân được nhà nước đầu tư vốn để đóng tàu lớn ra khơi đánh bắt. Vì thế, nhiều chủ ghe có điều kiện tài chánh đã ủng hộ nguồn kinh phí lớn để tiến hành trùng tu lăng. Tóm lại, lăng Ông là một địa điểm linh thiêng của cộng đồng vì đây là nơi gửi gắm niềm tin, ước vọng của người dân qua nhiều thế hệ. Ngoài ra, đây còn là một thiết chế văn hóa đặc trưng của cộng đồng ngư dân địa phương được giữ gìn và phát triển qua nhiều thế hệ nhằm góp phần mang lại niềm tin tưởng về quyền năng của Ông Nam Hải sẽ phù hộ cho công việc ra khơi đánh bắt của họ được thuận lợi, sản lượng tôm cá dồi dào, ngư nghiệp sung túc. * Lễ hội nghinh Ông Xét về tính chất, lễ hội nghinh Ông thực ra là lễ hội cầu ngư mong cho cuộc sống của ngư dân sung túc và phản ánh ước vọng bình an, cầu mong thuận lợi mỗi khi ra khơi đánh bắt. Qua lễ hội nghinh Ông ở Thị trấn Sông Đốc và Xã An Thủy cho thấy việc tổ chức các lễ hội nghinh Ông là một nét văn hóa độc đáo, một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng mang tính chất đặc trưng của nghề đánh bắt thủy hải sản, được chính cộng đồng bảo lưu, sinh hoạt rộng rãi trước nay. Nhìn chung, công việc tổ chức rất chặt chẽ, bài bản và chu đáo góp phần cho thấy tính chất quan trọng lẫn niềm tin tưởng mạnh mẽ của cộng đồng vào Thần Nam Hải. * Hát bội Trong lễ hội nghinh Ông, hát bội mục đích trước để cúng Thần Nam Hải, sau là phục vụ nhu cầu giải trí của cộng đồng. Trong Lễ hội nghinh Ông ở An Thủy vẫn duy trì sân khấu hát bội với ba suất hát. Tối ngày mười sáu tháng giêng, nhiều người dân địa phương tập trung đứng xung quanh gian võ ca đợi đoàn hát trình diễn. Nhiều đàn ông và đàn bà, có cả trẻ em, ngồi xem trong tiếng trống, tiếng nhạc, họ say sưa theo các điệu bộ của diễn viên. Hát bội kết thúc vào giữa khuya của đêm cuối cùng (tức đêm mười bảy âm lịch) với việc tôn vương. Hiện nay, Lễ hội nghinh Ông ở thị trấn Sông Đốc không còn tổ chức hát bội. 2.2. TÍN NGƯỠNG VÀ SINH HOẠT TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Tại An Thủy và Sông Đốc, qua khảo sát, các hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu của cộng đồng gồm có: Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ, tín ngưỡng Bà Thủy Long, tín ngưỡng Bà Cậu, tín ngưỡng Quan Âm Nam Hải, tín ngưỡng Thiên Hậu. Bên cạnh đó, các lễ hội kỳ yên, lễ vía cùng với những ngôi miếu thờ và diễn xướng múa bóng rỗi trở thành những sinh hoạt tín ngưỡng mang tính đặc thù của cộng đồng nhằm biểu hiện niềm tin của họ đối với các vị thánh mẫu. 2.2.1.Các hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu * Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ 12 Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ tại xã An Thủy (Miếu Bà An Bình) và thị trấn Sông Đốc (Miếu Bà Chúa Xứ Vàm Sông Ông Đốc) gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của địa phương cũng như hoạt động đánh bắt thủy hải sản của ngư dân hiện nay. Trong niềm tin của người dân địa phương, Bà Chúa Xứ là vị thánh mẫu chức năng cai quản đất đai nên phải lập miếu thờ Bà và phù hộ con người có được sức khỏe để ổn định cuộc sống, là một nhu cầu tinh thần không thể thiếu được của cư dân đến đây khai khẩn. Điểm thống nhất giữa tín ngưỡng Bà Chúa Xứ tại An Thủy và Sông Đốc hiện nay chính là Bà phù hộ công việc ra khơi đánh bắt của ngư dân. Nhờ hoạt động đánh bắt thủy hải sản ở An Thủy và Sông Đốc không ngừng phát triển, Bà Chúa Xứ, vốn gắn liền chức năng cai quản đất đai, lại được bổ sung chức năng mới là phù hộ cho ghe tàu ra khơi được yên ổn, thu hoạch tôm cá dồi dào. * Tín ngưỡng Thủy Long Bà Thủy Long hay Thủy Long Thánh Mẫu, Thủy Long Thần Nữ được ngư dân tôn thờ phổ biến để phù hộ họ trong công việc đánh bắt. Phạm vi thờ cúng Bà khá rộng, trải dài từ miền Trung trở vào, trong đó có vùng ven biển Nam bộ nói chung và ĐBSCL nói riêng. Cụ thể, khảo sát tại thị trấn Sông Đốc và xã An Thủy, ngoài hai ngôi miếu thờ Bà Thủy được ngư dân hương khói trước nay, trên ghe tàu, người ta còn lập bàn thờ Thủy Long. Vì vậy, Bà được tài công, ngư phủ thắp hương van vái mỗi ngày. Cho nên, tín ngưỡng Bà Thủy Long chính là hình thức tín ngưỡng gắn với hoạt động đánh bắt của ngư dân địa phương trước nay. Chức năng nổi bật nhất của Bà Thủy Long chính là phù hộ trực tiếp cho ngư nghiệp của cộng đồng. tín ngưỡng Bà Thủy Long có một vị trí quan trọng lẫn mối quan hệ mật thiết, trực tiếp đến hoạt động đánh bắt mỗi ngày của ngư dân tại An Thủy, Sông Đốc trước nay. Bà đã hiện diện cùng với quá trình hình thành, phát triển ngư nghiệp ở địa phương. * Tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mẫu Thiên Hậu Thánh Mẫu được cư dân Nam bộ tôn kính nên họ thờ phụng Bà ở nhiều nơi. Thánh mẫu còn được người dân một số địa phương ven biển ĐBSCL thờ cúng qua các ngôi miếu thờ được người Hoa xây cất, thu hút nhiều ngư dân đến đây cúng bái. Tại An Thủy và Sông Đốc, ngư dân kính ngưỡng Bà vì thánh mẫu phù hộ cho cộng đồng nói chung và nghề đánh bắt thủy hải sản nói riêng. Hai ngôi miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu trên địa bàn An Thủy, Sông Đốc trở thành một địa chỉ cầu nguyện của cộng đồng, trong đó có nhiều chủ ghe và tài công, ngư phủ thường xuyên đến đây lễ bái trong nhiều năm qua. Thiên Hậu Thánh Mẫu, ngoài chức năng giúp cho cộng đồng bình an, sức khỏe, công việc thuận lợi, mọi sự được may mắn, còn phù hộ cho ngư nghiệp ở địa phương hiện nay. Qua đây cho thấy tính đa dạng trong việc thực hành tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Nam bộ, đó là gắn liền với đặc trưng sinh kế ở từng địa phương. * Tín ngưỡng Quan Âm Nam Hải Quan Âm Nam Hải là vị bồ tát được người dân Nam bộ nói chung và các địa phương ven biển, hải đảo nơi đây tôn kính. Thông thường, ngư dân thờ phụng bồ tát ở trên ghe tàu để phù hộ họ. Ngư dân An Thủy và Sông Đốc thành tâm thờ cúng, lễ bái Quan Âm Nam Hải vì họ tin tưởng bồ tát phù hộ ghe tàu ra khơi đánh bắt trên biển. Vì vậy, hầu hết trên các ghe tàu địa phương đều lập bàn thờ Quan Âm để tài công thắp hương khấn vái mỗi ngày. Tại cộng đồng, tôn tượng bồ tát được tôn trí ở các chùa, miếu. Vì vậy, đây trở thành nơi khấn nguyện thường xuyên của các chủ ghe tàu, ngư phủ mỗi dịp lễ vía hoặc ngày sóc vọng hằng tháng diễn ra. Vì thế, tín ngưỡng 13 Quan Âm Nam Hải trở một thành tố quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của ngư dân Xã An Thủy và Thị trấn Sông Đốc. * Tín ngưỡng Bà Cậu Ở Nam bộ, những người làm nghề đi lại buôn bán, chài lưới trên sông hoặc theo ghe đánh bắt trên biển được gọi là nghề Bà Cậu. Thực ra, gọi nghề Bà Cậu vì hoạt động sinh kế của họ gắn liền với sông nước, biển cả nên tôn thờ Bà Cậu để vững tâm hơn. Trên hành trình đi biển của ngư dân An Thủy và Sông Đốc, Bà Cậu gắn liền với niềm tin của họ bằng nhiều biểu hiện khá sinh động. Trước nay, ngư dân Sông Đốc, mỗi khi chuẩn bị xuất hành, đều sắm sửa lễ vật cúng Bà Cậu ở phía mũi ghe. Thông thường, lễ vật gồm bông hoa, trái cây, nhang đèn, gà vịt luộc, nhiều ghe còn chuẩn bị thêm vàng mã. Tại An Thủy, đều đặn mỗi tháng hai lần, các chủ ghe cào gửi ghe tải mang trái cây, gà vịt, bánh mứt từ trong bờ ra ghe để ngư phủ nấu nướng rồi bày biện trước mũi ghe cúng Bà Cậu vào ngày mùng hai và 16 âm lịch hàng tháng. Nhiều ghe tàu đánh bắt khấm khá, những lần vào bờ hay xuất hành đầu năm, đều cúng rất lớn, lễ vật phải có heo quay. Bên cạnh đó, giống như ở Sông Đốc, thời điểm xuất hành ra biển, một số ghe lưới đèn ở An Thủy tổ chức cúng Bà Cậu, lễ vật gồm gà hoặc vịt luộc, bông hoa và trái cây mỗi khi ra đến cửa Sông Hàm Luông. 2.2.2. Sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu Sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu chính là cách mà ngư dân địa phương bày tỏ tấm lòng tôn kính lẫn ước vọng, cụ thể nhất là thông qua các việc xây dựng ngôi miếu làm nơi thờ tự, tổ chức lễ hội kỳ yên và vía Bà, diễn xướng múa hát bóng rỗi và trình diễn sân khấu hát bội. * Miếu Bà Trên địa bàn An Thủy có ba ngôi miếu: Miếu Bà An Bình, Miếu Bà Tiệm Tôm và Miếu Bà An Thạnh. Ở Thị trấn Sông Đốc, người dân đến viếng Thiên Hậu Cung, Miếu Bà Chúa Xứ Vàm Sông Ông Đốc, Miếu Quan Âm và Miếu Thủy Long Thần Nữ Nương Nương. Nhìn chung, về kiến trúc và qui mô, các ngôi miếu ở hai địa phương khác biệt lớn. Nếu những ngôi miếu tại Xã An Thủy được xây cất lớn, theo mô hình kiến trúc đặc trưng của ngôi đình Nam bộ thì phần lớn các miếu ở Thị trấn Sông Đốc nhỏ, thậm chí đơn sơ. Đó là trường hợp Miếu Quan Âm được xây cất với vật liệu bằng lá, hay Miếu Thủy Long Thần Nữ Nương Nương tọa lạc khiêm tốn trong khuôn viên Lăng Ông Sông Đốc. Nhìn chung, dù lớn hay nhỏ, những ngôi miếu thờ này là nơi gửi gắm niềm tin, ước vọng, trở thành một không gian linh thiêng đối với những ngư dân địa phương mỗi khi đến cầu nguyện. Ngoài ra, điểm thống nhất giữa các ngôi miếu này là được trùng tu, tôn tạo liên tục trong ba thập kỷ qua. Đây là thời điểm nghề đánh bắt thủy hải sản địa phương phát triển, đời sống ngư dân sung túc hơn trước nên việc thể hiện tấm lòng tri ân với các vị thánh mẫu thông qua việc cùng nhau đóng góp để những ngôi miếu này ngày một kiên cố, khang trang * Lễ hội Ở Nam bộ, thông thường các lễ hội cúng Bà được tổ chức ở các miếu gọi là lễ kỳ yên, lễ vía nhằm trước để tri ân công đức các vị thánh mẫu, sau là cầu an cho người dân địa phương. Các lễ hội được tổ chức ở các miếu Xã An Thủy trước nay được gọi lễ hội kỳ yên. Miếu Bà Chúa Xứ Vàm Sông Ông Đốc và Miếu Thủy Long Thần Nữ Nương Nương được người dân gọi là lễ cúng. Riêng tại Thiên Hậu Cung (thị trấn Sông Đốc) tổ chức Lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu vào ngày 23/3 âm lịch hằng năm nhằm tưởng niệm ngày sinh nhật của Bà. Tất cả các lễ hội này trở thành dịp để cộng đồng cầu khấn các vị thánh mẫu giúp đỡ và che chở họ nhằm đạt được những 14 ước nguyện, điều mong muốn trong cuộc sống, nhất là phù hộ ngư nghiệp địa phương sung túc, thịnh vượng. Qua khảo sát cho thấy trong khâu tổ chức lễ hội của các ngôi miếu giữa hai cộng đồng ngư dân An Thủy và Sông Đốc hoàn toàn khác nhau về mặt tiến trình nghi lễ lẫn qui mô tổ chức. Điều này phản ánh tính đa dạng trong sinh hoạt lễ hội ở hai cộng đồng này. Lễ hội kỳ yên Miếu Bà An Thạnh diễn ra vào ngày 16, 17 tháng tư âm lịch, Miếu Bà Tiệm Tôm tổ chức cúng ngày 16, 17 tháng sáu âm lịch, trong khi đó Lễ Kỳ yên Miếu Bà An Bình diễn ra ngày 12 và 13 tháng hai âm lịch. Nhìn chung, lễ hội ở các miếu này có trình tự chung, gồm có: Múa bóng rỗi Bà, nghi Nghinh Bà, nghi Tế Tiền Hiền-Hậu Hiền, nghi Đại bội, nghi Chánh tế và cuối cùng là nghi thức Tống ôn. Các lễ hội của các ngôi miếu trên địa bàn Sông Đốc cũng như An Thủy là dịp quan trọng để người dân địa phương không chỉ dâng lễ vật, thắp hương cúng bái mà còn là dịp để họ gặp gỡ và trò chuyện. Đồng thời, tại các miếu, người ta còn nấu thức ăn để đãi khách, tạo thêm không khí vui tươi và nhộn nhịp. Đây là thời điểm mà ngư dân địa phương bày tỏ tấm lòng tri ân cũng như thành tâm cầu nguyện các vị thánh mẫu phù hộ công việc đánh bắt suôn sẽ, thuận lợi và đạt sản lượng dồi dào. * Múa hát Bóng rỗi và hát bội - Múa hát Bóng rỗi: Bóng rỗi là hình thức diễn xướng dân gian gắn liền với lễ kỳ yên các miếu Bà ở vùng đất Nam bộ. Bóng rỗi hay múa bóng rỗi là một loại hình nghệ thuật do các ông bà bóng thực hiện, cất lên những lời ca thờ cùng và xưng tụng thần linh. Ở An Thủy và Sông Đốc, các miếu Bà có tổ chức múa bóng rỗi trong dịp lễ kỳ yên, đó là các ngôi miếu: Miếu Bà Tiệm Tôm, Miếu Bà An Thạnh và Miếu Bà Chúa Xứ Vàm Sông Ông Đốc.Bóng rỗi diễn ra vào buổi tối đêm trước ngày chính lễ kỳ yên, lễ cúng với mục đích chầu mời Bà về chứng lễ của miếu. Tham gia là hầu hết các thành viên trong khánh tiết, ban trị sự của các miếu, đồng thời còn thu hút nhiều người dân đến xem. múa hát bóng rỗi đã đem đến nét đặc trưng của lễ hội các miếu Bà trên địa bàn Xã An Thủy và Thị trấn Sông Đốc. Đồng thời, nó góp phần làm cho những lễ hội này mang tính thiêng liêng, tạo ra sự vui tươi, hấp dẫn và hào hứng lòng người mỗi khi lễ kỳ yên, lễ cúng diễn ra. Diễn xướng múa bóng rỗi trở thành một nét văn hóa lễ hội đáp ứng nhu cầu tinh thần, nhất là ước vọng cầu an cho cộng đồng địa phương. - Hát bội Hát bội chỉ diễn ra tại các ngôi miếu trên địa bàn xã An Thủy. Giống như ở Lăng Ông An Thủy, hát bội trước giúp vui cho Bà, sau phục vụ cho người dân, góp phần tạo nên không khí vui tươi và có tính qui tụ cộng đồng. Thông thường, ba ngôi miếu Bà ở An Thủy mời các đoàn hát Lâm Tiến, Tâm Đồng, Ngọc Quí, Kim Phụng, … ở tỉnh Bến Tre, Tiền Giang về biểu diễn 3 suất hát trong suốt lễ kỳ yên. Tóm lại, qua khảo sát và phân tích những loại hình tín ngưỡng lẫn việc thực hành tín ngưỡng các ngôi miếu thuộc hai cộng đồng ngư dân An Thủy và Sông Đốc, có thể đi đến những nhận định như sau: Thứ nhất, tín ngưỡng thờ Mẫu ở hai cộng đồng này mang tính phổ biến và chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần người dân. Qua tìm hiểu, phân tích về tín ngưỡng thờ Mẫu ở An Thủy, Sông Đốc cho thấy rõ các vị thánh mẫu còn gắn với hoạt động đánh bắt thủy hải sản của ngư dân để đáp ứng nhu cầu tâm linh thường xuyên của họ. Hay nói cách khác, niềm tin tưởng sâu sắc vào các vị thánh mẫu lẫn các sinh hoạt tín ngưỡng, nhất là lễ hội, đã trở thành một chỗ dựa tinh thần vững chắc, trấn an tâm lý khi họ phải đối mặt với những hiểm nguy, thách thức trong quá trình đánh bắt lẫn sự phát triển hoạt động ngư nghiệp của địa phương. Bên cạnh đó còn thể hiện rõ tâm thức hướng về cuộc sống bình an, sung túc và thịnh 15 vượng của ngư dân địa phương trước nay. Cho nên, niềm tin này không ngừng được phát triển, củng cố mạnh mẽ trong điều kiện ngư dân An Thủy, Sông Đốc. Đặc biệt hơn nữa, Bà Chúa Xứ, Bà Thủy Long là những vị mẫu gắn liền với yếu tố tự nhiên. phản ánh ý niệm tôn thờ các vị thánh mẫu có nguồn gốc hoặc gắn liền với tự nhiên nhằm bảo hộ cuộc sống của họ khi đối mặt với thiên nhiên vốn còn nhiều hiểm họa. Sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở hai cộng đồng ngư dân An Thủy và Sông Đốc đã hình thành những thiết chế đặc trưng với các thành tố liên quan như miếu, lễ hội kỳ yên và lễ vía, múa bóng rỗi, hát bội. Đây cũng là những đặc điểm của sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ. Tìm hiểu nguồn gốc của các vị thánh mẫu Việt (Bà Chúa Xứ, Bà Thủy Long, Bà Cậu) được tôn thờ tại An Thủy Sông Đốc cho thấy đây chính là sự kế thừa, tiếp nối tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung và kể cả sự nhập nhằng, lai tạp về nguồn gốc cần tiếp tục làm rõ hơn. Bên cạnh đó, tín ngưỡng thờ Mẫu ở hai địa phương này nằm trong bối cảnh vùng đất Nam bộ mang đặc điểm đa tộc người, đa văn hóa, dung hợp mạnh mẽ giữa tín ngưỡng và tôn giáo. Trường hợp Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Xã An Thủy, Thị trấn Sông Đốc là một điển hình về giao thoa văn hóa Việt-Hoa. Ngoài ra, việc tích hợp yếu tố Phật giáo qua việc ngư dân thờ cúng Quan Âm Nam Hải tạo nên tính đa dạng cho diện mạo tín ngưỡng địa phương. 2.3. TÍN NGƯỠNG VONG LINH NGƯỜI MẤT TRÊN BIỂN Niềm tin tưởng lẫn thờ cúng những vong linh người mất trên biển, trong đó có rất nhiều ngư phủ chẳng may đã bỏ mình dưới biển sâu, trở thành một nét văn hóa tinh thần mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc của ngư dân trước nay. Ngư dân vùng ven biển ĐBSCL cũng rất tin tưởng vào đối tượng này vì tin rằng chư vị vong linh luôn phù hộ, giúp đỡ họ trong công việc đánh bắt. Tìm hiểu về tín ngưỡng vong linh người mất trên biển tại hai cộng đồng ngư dân An Thủy, Sông Đốc sẽ giúp hiểu rõ hơn về hình thức tín ngưỡng này. Mặt khác, càng không thể không nhắc đến Lễ Trai đàn chẩn tế được cộng đồng tổ chức mang ý nghĩa giúp đỡ cho các vong linh được no đủ và nhanh chóng siêu thoát, không còn trong tình cảnh bơ vơ, đói khát, lạnh lẽo ở ngoài biển. 2.3.1. Vong linh người mất trên biển: Niềm tin và thực hành Nghề đi biển, vốn lênh đênh giữa sóng gió ngoài khơi, nếu chẳng may bất cẩn hoặc gặp giông bão làm chìm ghe thì ngư dân sẽ bị vùi thây dưới biển, rất khó tìm thấy được thi thể. Tín ngưỡng vong linh người mất trên biển được ngư dân thờ cúng từ dưới ghe đến trên bờ bởi đã có nhiều người đã vĩnh viễn bỏ mình ngoài khơi lẫn sự linh ứng của họ. Những biểu hiện sau đây giúp hiểu rõ hơn về quan niệm lẫn thực hành tín ngưỡng vong linh người mất trên biển của cộng đồng ngư dân An Thủy và Sông Đốc: - Trước đây và hiện tại, ngư dân địa phương đặt niềm tin vào sự linh ứng lẫn phù hộ của các vong linh này. Cụ thể, những người làm các nghề đáy song cầu, đáy rạo ở xã An Thủy hoặc đánh bắt bằng hình thức nò xiêm, chà chim thị trấn Sông Đốc cũng khấn vái chư vị vong linh mỗi ngày. Đồng thời, họ đều đặn tổ chức cúng vào ngày mùng hai, mười sáu âm lịch hàng tháng …để các vong linh hưởng lễ vật rồi phù hộ công việc đánh bắt tôm cá của ngư phủ địa phương. -Ngư phủ đi ra khởi đánh bắt rất dễ bỏ mình do gặp giông bão bất ngờ ập đến làm ghe chìm hoặc do không cẩn thận đi lại trên ghe nên dễ dàng rơi xuống biển, mãi không tìm được xác. Ngoài ra, cũng có nhiều trường hợp phải nhảy xuống biển mỗi khi lưới ghe bị mắc vật cản rồi mất tích hẳn, thân xác vĩnh viễn nằm lại biển khơi. Được biết, có nhiều gia đình ở xã An Thủy, thị trấn Sông Đốc vĩnh biệt người thân, 16 nhất là không có dịp gặp mặt lần cuối cùng cũng như nghe những lời trăn trối của họ. Đồng thời, họ trở thành những vong linh trôi dạt trên biển nếu không được làm lễ rước vong từ ngoài biển về nhà để được gia đình thờ phụng, hương khói mỗi ngày. Vì vậy, nhiều người đã thỉnh các nhà sư theo ghe ra biển làm lễ rước vong về nhà. -Hơn hai mươi năm trước, cơn bão số 5 (Linda) đổ bộ vào vùng biển Nam bộ gây ra nhiều thiệt hại về người và tài sản. Tại thị trấn Sông Đốc, cơn bão này ập đến ngày 2/11/1997 đã tàn phá nặng nề, trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng cho người dân tại đây cho đến nay. Một đài tưởng niệm đã được dựng lên tại khóm 1 nhằm ghi nhớ lại sự kiện bi thương này. Tấm bia ở đài tưởng niệm cho biết số lượng người bị thương, chết và mất tích được thống kê như sau: Số lượng người chết là 128 người, người bị thương có 601 người và vĩnh viễn mất tích gồm 1.164 người. Từ thời điểm đó đến nay, đến ngày mùng ba tháng mười âm lịch hằng năm, ghe tàu của ngư dân Sông Đốc, mặc dù đang bận đánh bắt ngoài biển, vẫn nấu cơm canh bày phía trước mũi để cúng tưởng niệm những người đã bỏ mình trong cơn bão khủng khiếp ấy. Nói tóm lại, từ niềm tin cho đến việc thờ cúng vong linh người mất trên biển trở thành một nét văn hóa có tính nhân văn cao, thể hiện rõ lối sống nhân ái, nghĩa tình của con người Việt Nam nói chung và ngư dân An Thủy, Sông Đốc nói riêng. Mặt khác, hơn ai hết, bản thân ngư phủ, tài công luôn thấu hiểu sự rủi ro tính mạng của mình trong những lúc ra khơi đánh bắt. Phải chăng từ đó dẫn đến sự thấu cảm, chia sẻ của họ đối với những người có cùng nghề nghiệp, cùng hoàn cảnh mưu sinh đã bỏ mình trên biển? 2.3.2. Lễ Trai đàn chẩn tế Lễ Trai đàn chẩn tế được tổ chức với mục đích cầu siêu cho những vong hồn, trong đó có linh hồn những người đã bỏ mình trên biển. Lễ này được tổ chức nhiều lần tại hai cộng đồng ngư dân xã An Thủy, thị trấn Sông Đốc. Lễ Trai đàn chẩn tế trước là thí thực cho những vong linh không còn đói khát, sau mới siêu độ giúp họ thoát khỏi kiếp cô hồn ngạ quỉ. Đây là một khoa nghi quan trọng của Phật giáo Bắc tông. Khoa nghi này có nguồn gốc từ Mật tông, mang ý nghĩa mở rộng lòng từ bi, cứu giúp thập nhị loại cô hồn đang ở trong cảnh vất vưởng, khổ đau. Chùa Thắng Quang (ấp An Thuận, xã An Thủy) cho biết rằng chùa đã nhiều lần tổ chức Trai đàn chẩn tế vào thập niên 80 của thế kỷ trước, nhưng chủ yếu là giúp cho vong linh của những thuyền nhân nhưng chẳng may tử nạn trên biển. Những năm gần đây, từ khi được tái thiết qui mô hơn (2010), Chùa Tân Bửu (ấp An Bình, xã An Thủy) liên tục tổ chức cúng mỗi năm ít nhất hai lần, cụ thể vào dịp rằm tháng Bảy và rằm tháng Mười. Đặc biệt, Lễ Tưởng niệm và Trai đàn cầu siêu các ngư dân tử nạn trong cơn bão số 5 và đồng bào tử nạn trên biển được tổ chức qui mô, liên tục vào hai năm 2012 và 2013 tại thị trấn Sông Đốc. Lễ này qui tụ khá đông người dân địa phương tham dự. Trai đàn này do Đại đức T.N.T, trụ trì Chùa Niệm Phật Đường (xã Phước Điền, huyện Trần Văn Thời) tổ chức tại Đài tưởng niệm nạn nhân cơn bão Linda thuộc khóm 1. Nhiều người dân thị trấn Sông Đốc yêu cầu nhà chùa đứng ra tổ chức Lễ Trai đàn chẩn tế. Phần nhiều là những gia đình có chồng, con và anh em mất tích hoặc chết nhưng tìm thấy xác trên biển sau cơn bão. Lễ Trai đàn chẩn tế dùng để cầu siêu cho các vong linh vĩnh viễn nằm lại trên biển mang lại một ý nghĩa tinh thần rất lớn đối với cộng đồng, góp phần làm xoa dịu nỗi đau do mất mát người thân của họ trong nhiều năm qua. Bên cạnh đó, lễ này còn phản ánh tính nhân văn của con người Việt Nam, không chỉ quan tâm đến con người 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan