TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
W X
BÁO CÁO
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU VỀ NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU
KABUKI CỦA NHẬT BẢN
Sinh viên thực hiện: TRẦN THỊ THU VÂN
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. ĐOÀN LÊ GIANG
BIÊN HÒA, 12/ 2010
LỜI CẢM ƠN
Trải qua 4 năm rèn luyện và học tập dưới mái trường Đại Học Lạc Hồng, em
đã được trau dồi và tiếp thu những kiến thức và kinh nghiệm quý báu không những
từ sách vở mà còn từ cuộc sống và những hoạt động thực tế do nhà trường và Ban
lãnh đạo khoa Đông Phương tổ chức cho sinh viên. Đó là sự biết ơn vô cùng to lớn
của sinh viên chúng em.
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Nhà trường, Ban lãnh đạo khoa
Đông Phương, quý Thầy Cô, bố mẹ, bạn bè,…đã quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện
để em có thể hoàn thành bài báo cáo nghiên cứu khoa học của mình một cách tốt
nhất. Đặc biệt, cho em được gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS. TS. Đoàn Lê Giang,
người đã dẫn dắt em từng bước trong việc nghiên cứu của mình. Từ lúc ban đầu, bỡ
ngỡ và mới mẻ, trải qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu gặp rất nhiều khó khăn và
cho đến khi hoàn thành bài báo cáo này, Thầy đã tận tình chỉ dạy và hướng dẫn.cho
em. Thầy vừa tạo điều kiện để em có thể vận dụng hết khả năng tư tư duy sáng tạo
của mình vừa dẫn dắt em theo những hướng đi khoa học và hiệu quả. Đó là tấm
lòng cao quý của một người thầy.
Là một sinh viên theo học nghành Nhật Bản học tại khoa Đông Phương,
nghiên cứu khoa học là quá trình để em tự vận dụng kiến thức và kinh nghiệm trau
dồi được từ 4 năm theo học tại trường vào bài nghiên cứu, cũng là quá trình để em
tự kiểm tra và củng cố lại kiến thức của mình. Từ đó, em có thể xác định được
hướng đi cần thiết cho bản thân mình. Vì vậy, em cũng xin được gửi đến Nhà
trường, Ban lãnh đạo khoa Đông Phương, quý Thầy Cô, lời biết ơn chân thành nhất.
Những người đã tạo cho em những điều kiện tốt nhất để em có thể học tập, nghiên
cứu và sáng tạo bằng chính khả năng và sự cố gắng của bản thân em.
Với khả năng có thể và bằng những kiến thức và kinh nghiệm của bản thân,
em đã hoàn thành bài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, cũng không thể tránh khỏi
những sai sót. Vì vậy, em mong rằng có thể nhận được những lời nhận xét, sửa chữa
và bổ sung của quý Thầy Cô và bạn đọc!
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện đề tài
Trần Thị Thu Vân
MỤC LỤC
A. PHẦN DẪN LUẬN ...............................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.....................................................................................1
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ..................................................................2
3. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................................2
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................................3
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI ...............................................................................3
6. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI................................................................................4
B. PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................5
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KABUKI......5
1.1. Nguồn gốc và sự ra đời của Kabuki nữ 1603-1629......................................5
1.1.1. Tiểu sử người sáng tạo ra Kabuki.............................................................. 5
1.1.2. Sáng tạo ra Kabuki..................................................................................... 5
1.1.3. Okuni và Kabuki những năm sau đó ......................................................... 7
1.2. Kabuki nam bắt đầu từ năm 1653 ................................................................8
1.2.1. Kabuki của các nam diễn viên trẻ.............................................................. 8
1.2.2. Sự hình thành Yarou kabuki ...................................................................... 9
1.3. Kabuki thời Genroku 1673-1735.................................................................10
1.4. Kabuki sau cuộc Minh Trị Duy Tân...........................................................12
1.5. Kabuki ngày nay...........................................................................................12
1.6. Các soạn giả và các vở kịch nổi tiếng..........................................................14
1.6.1. Soạn giả Chikamatsu Monzaemon (1653-1724) ..................................... 14
1.6.2. Soạn giả Namiki Shozo (1703-1773) ...................................................... 15
1.6.3. Soạn giả Namiki Gohei (1747-1804)....................................................... 15
1.6.4. Soạn giả Tsuruya Nanboku (1755-1829)................................................. 16
1.6.5. Soạn giả Kawatake Mokuami (1816-1893)............................................. 17
CHƯƠNG II: GIÁ TRỊ CỦA KABUKI. ..................................................................19
2.1. Văn hóa Edo trong các vở kịch Kabuki .....................................................19
2.2. Nhân vật ........................................................................................................23
2.3. Kết cấu vở kịch .............................................................................................26
2.5. Hóa trang và trang phục..............................................................................30
2.5.1. Hóa trang.................................................................................................. 30
2.5.2. Trang phục ............................................................................................... 32
CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU KABUKI VÀ KABUKI TRONG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA NHẬT BẢN ...............................................................................35
3.1. Nghệ thuật sân khấu.....................................................................................35
3.1.1. Thiết kế sân khấu ..................................................................................... 35
3.1.1.1. Hanamichi (Hoa đạo) ........................................................................ 35
3.1.1.2. Mawari-butai (Sân khấu xoay)......................................................... 37
3.1.1.3. Seri (Cửa sập).................................................................................... 38
3.1.1.4. Chuunori (Bay giữa không trung)..................................................... 38
3.1.1.5. Hikidougu (Xe đẩy sân khấu) ........................................................... 38
3.1.2. Trợ lý sân khấu ........................................................................................ 38
3.1.3. Đạo diễn sân khấu.................................................................................... 39
3.1.4. Diễn xuất.................................................................................................. 40
3.1.5. Nhà hát..................................................................................................... 44
3.2. Kabuki trong đời sống tinh thần của người dân Nhật Bản......................47
C. PHẦN KẾT LUẬN ..............................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................55
1
A. PHẦN DẪN LUẬN
1.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tôi biết đến Nhật Bản qua cái tên gọi là đất nước Phù Tang và qua các hình
ảnh như: những cành hoa anh đào dịu dàng, những cô gái Nhật nổi bật trong những
chiếc áo Kimono, ngọn núi Phú Sĩ oai nghiêm, xinh đẹp hay những bộ phim truyền
hình hấp dẫn đầy ấn tượng. Và có những giờ học lịch sử tôi cũng được nghe thầy
giảng dạy về đất nước Nhật Bản với một nền văn hóa nhân văn sâu sắc. Tôi biết
ngoài những điều mà tôi đã nói, Nhật Bản còn có rất nhiều những đặc sắc, những đa
dạng trong cái gọi là văn hóa ấy. Tất cả làm cho tôi có cảm giác muốn khám phá về
đất nước này. Trở thành sinh viên nghành Nhật Bản học như bây giờ cũng là mong
muốn lớn của tôi, nó bắt nguồn từ những động lực từ thuở nhỏ. Và cho tới ngày
hôm nay tôi đã có cơ hội để thực hiên được điều mà tôi đã mơ ước từ lâu. Tôi đã
quyết đinh tìm hiểu về nó dù là ở khía cạnh nào hay chỉ là một yếu tố nào trong cái
nền văn hóa rộng lớn. Vì tôi biết ở một mặt nào trong đời sống của con người cũng
có thể thể hiện lên được nét đẹp văn hóa.
Một lý do nữa mà tôi rất tâm huyết mang tính học hỏi giao lưu của giới trẻ
Việt Nam nữa đó là tại ngôi trường mà tôi đang theo học và sắp sửa kết thúc khóa
học, các bạn sinh viên có thể tự xây dựng và hóa thân trở thành các diễn viên trong
các vở nhạc kịch Kabuki của chính mình. Chính vì vậy mà khi tiến hành tìm hiểu về
đề tài nhạc kịch Kabuki tôi sẽ cố gắng hoàn thiên một bài nghiên cứu hoàn chỉnh,
đầy đủ và hệ thống nhằm có thể cung cấp và giúp đỡ cho chính tôi và các bạn về
cách nhìn,cách cảm nhận, cách tiếp thu về môn nghệ thuật này.
Cũng như du khách nước ngoài khi đặt chân đến Việt Nam, không thể bỏ qua
múa rối nước, chèo, tuồng hay cải lương thì khi đặt chân đến đảo quốc Phù Tang,dù
là người ưa náo nhiệt nhất cũng ít nhất một lần tự ép mình vào nhà hát để được đắm
mình trong bầu không khí của nước Nhật cổ xưa qua một loại hình nghệ thuật với
tên gọi là Kabuki. So với 3 loại hình nghệ thuật là: No, Kyogen và Bunraku, thì
2
Kabuki ra đời muộn nhất nhưng được đánh giá là hấp dẫn và mang nhiều nét đặc
trưng hơn cả. Nghiên cứu Kabuki cũng chính là cách để đắm mình vào những nét
đẹp cổ truyền và tinh túy của nó.
Với những lý do trên, tôi đã chọn cho mình đề tài này với mong muốn hoàn
thành nó bằng sự cố gắng nhất mà tôi có thể. Vì vậy tôi cũng rất mong nhận được
sự giúp đỡ và cộng tác của mọi người.
2.
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong phạm vi trường Đại học Lạc Hồng thì chưa có ai nghiên cứu về đề tài
này nhưng ở phạm vi rộng lớn hơn thì đã có rất nhiều người tìm hiểu về đề tài này.
Tuy nhiên những nghiên cứu của họ chủ yếu là đi sâu vào tìm hiểu một mảng, một
khía cạnh nào đó trong Kabuki chẳng hạn như: kịch bản, sân khấu, diễn viên, hóa
trang, … Trong đề tài nghiên cứu của mình, tôi sẽ tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu
một cách hệ thống, tổng quát mọi khía cạnh, mọi mặt của Kabuki mà tôi có thể.
Có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về nhạc kịch Kabuki và tôi cũng được
tham khảo rất nhiều về nó nhưng quả thật không chỉ với riêng tôi mà còn với rất
nhiều người,Kabuki, môn nghệ thuật truyền thống nổi tiếng từ hàng thế kỉ nay vẫn
luôn là điều mới mẻ. Tại Nhật bản, cuốn sách nói về “đời sống” Kabuki của tác giả
Shoriya Aragoro là một trong những cuốn sách bán chạy nhất. Điều đó cho thấy
Kabuki có một sức sống vĩnh cửu trong cuộc sống của người Nhật nhờ sự trân trọng
và gìn giữ những giá trị truyền thống dân tộc cùng những tư liệu của nhiều người
về nó.
3.
MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Kabuki là một loại hình văn hóa lâu đời và rất đặc sắc của Nhật Bản. Kabuki
được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân
loại vào ngày 24 tháng 11 năm 2005. Hiện nay Kabuki là loại hình kịch truyền
3
thống của Nhật Bản được yêu thích nhất. Chính vì vậy, đối với tôi-một sinh viên
đang theo học chuyên nghành Nhật Bản học, việc quyết định nghiên cứu tìm hiểu
về loại hình văn hóa này là việc để tôi hiểu biết nhiều hơn về Kabuki và muốn giới
thiệu rộng rãi đến nhiều người, nhiều đối tượng một cách hệ thống và hoàn chỉnh.
Kabuki là một đề tài thuộc lĩnh vực văn hóa truyền thống là một lĩnh vực rất
rộng bao gồm nhiều yếu tố mà khả năng người viết thì có hạn. Vì vậy, đề tài sẽ tìm
hiểu về lịch sử phát triển của kabuki, những nét đặc sắc của kabuki và kabuki trong
đời sống xã hội Nhật bản.
Vì thời gian có hạn, những tài liệu mà mình tìm được cũng trong tầm giới
hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót về kiến thức và cách xây dựng nghiên
cứu một đề tài. Tuy nhiên, tôi sẽ hết sức cố gắng tìm hiểu và hoàn thiện bài nghiên
cứu của mình một cách tốt nhất.
4.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Về phương pháp nghiên cứu, để hoàn thành bài viết, tôi đã sử dụng các
phương pháp sau đây:
Phương pháp lịch sử: phương pháp này tạo cho bài viết một phong cách trình
bày khoa học, rõ ràng cùng những sự kiện lịch sử có liên quan đến đề tài.
Phương pháp phân tích-tổng hợp: dựa vào nguồn tài liệu có được từ những
tác giả đi trước và nguồn tài liệu khác như: sách, báo, trang web, … bài viết thu
thập, tổng hợp, phân tích và liên kết các dữ liệu lại nhằm đảm bảo tính hệ thống và
hoàn chỉnh của bài viết.
5.
ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đóng góp một phần nhỏ vào lịch sử các công trình nghiên cứu về văn
hóa Nhật Bản. Đề tài tìm hiểu về môn nghệ thuật sân khấu Kabuki, môn nghệ thuật
truyền thống của Nhật Bản. Từ những tìm hiểu của bài nghiên cứu, đề tài sẽ đưa đến
4
cho người đọc những hiểu biết về giá trị văn hóa, từ đó tiếp thu và học hỏi những
tinh hoa của nhân loại, nâng tri thức của con người lên một tầm cao mới.
6. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Để xây dựng bài viết theo đúng mục tiêu và đảm bảo được tính khoa học
cũng như là có thể dễ dàng truyền đạt đến người đọc nội dung của bài nghiên cứu
một cách có hiệu quả nhất,tôi đã xây dựng cấu trúc của bài nhiên cứu theo 3 chương
như sau:
•
Chương I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
KABUKI
Trong chương này, tôi sẽ nghiên cứu về nguồn gốc và sự phát triển của nghệ
thuật nhạc kịch Kabuki qua các thời kì lịch sử. Qua đó làm nổi bật giá trị lịch sử lâu
đời của Kabuki.
•
Chương II: GIÁ TRỊ CỦA KABUKI
Tổng hợp, phân tích các yếu tố đặc sắc trong Kabuki để làm rõ các giá trị
truyền thống cũng như giá trị nghệ thuật của nó là nội dung chính của chương này.
•
Chương III: NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU KABUKI VÀ KABUKI
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA NHẬT BẢN
Từ những giá trị được phân tích ở chương II, chương III sẽ tìm hiểu về tầm
ảnh hưởng của Kabuki trong đời sống văn hóa Nhật Bản.
5
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KABUKI
1.1. Nguồn gốc và sự ra đời của Kabuki nữ 1603-1629
1.1.1. Tiểu sử người sáng tạo ra Kabuki
Okuni sinh ra và lớn lên ở gần một ngôi đền có tên gọi là Izumo, nơi cha cô
làm nghề thợ mộc và những người thân trong gia đình làm việc ở đó. Khi lớn lên
Okuni cũng vào đền làm việc với tư cách là một Miko, có nghĩa là cô gái trẻ phục
vụ trong đền thờ đạo Shinto. Cô dần nổi tiếng không chỉ về múa đẹp, biểu diễn giỏi
mà còn được biết đến cả về sắc đẹp của mình nữa. Theo phong tục thời kì đó, pháp
sư, miko, và những người khác làm việc trong đền luôn muốn cống hiến cho đền
thờ sẽ được đi tới Kyoto để biểu diễn các điệu múa và bài hát linh thiêng phục vụ
cho thần linh.
Khi lên Kyoto, với những màn trình diễn xuất sắc của mình cô nổi danh với
những điệu múa cách tân trong bi
ểu diễn. Đó là điệu múa Nembutsu, điệu múa ngợi ca Phật A Di Đà. Điệu múa
này được biết đến vì vẻ đẹp có tính nhục cảm và có những ám chỉ bóng gió về tình
dục. Cùng với việc thể hiện điều đó trong những điệu múa và vở kịch, cô thu được
rất nhiều sự chú ý và bắt đầu thu hút một lượng lớn khán giả đến xem mình biểu
diễn. Ngay lúc đó, cô bị gọi về lại đền thờ nhưng cô không quan tâm đến việc trở về
tuy nhiên cô vẫn đều đặn gửi tiền về cho các hoạt động trong đền thờ .
1.1.2. Sáng tạo ra Kabuki
Hình 1.1. Người sáng tạo ra Kabuki,
Izumo no Okuni
[Nguồn hình: http://nhatban.net] [19]
6
Đến khoảng năm 1603, Okuni thành lập một gánh hát ở vùng Shijougawara,
sông Kamo. Gánh hát tập hợp những người vô gia cư hay những kẻ có địa vị xã hội
thấp, những kẻ đã bị gắn liền với cái tên Kabukimono. Kabuki xuất phát từ động từ
Kabuku, có nghĩa là: dựa vào hướng nào đó. Mono có nghĩa là người. Okuni dạy
cho những người trong gánh hát cách diễn xuất, múa, hát một cách tự nhiên. Và bà
đặt tên cho đoàn kịch của mình là Kabuki. Những buổi biểu diễn ban đầu mới của
đoàn kịch chỉ có múa và hát mà không có cốt truyện chính, nội dung cụ thể. Vì vậy,
nó bị một số người coi rẻ vì sự lòe loẹt, chối tai, nhưng nói một cách công bằng thì
những buổi biểu diễn ấy nó cũng được tán dương vì tính công phu và cầu kì trong
vẻ đẹp hóa trang và màu sắc sặc sỡ của trang phục, sân khấu. [17- trang 106]
Bản thân Okuni yêu cầu các nam diễn viên trong đoàn kịch đóng giả vai nữ và
ngược lại nhưng chính cô lại đóng vai của cả hai vai nam, nữ. Đặc biệt, cô nổi tiếng
nhất với vai diễn Samurai và nhân vật cha sứ. Trong các lần biểu diễn, có một lần
trong lúc nhập vai cô gái làng chơi, Okuni đã thể hiện một cách thái quá với những
hành động kì quặc khiến cho người xem phải lúng túng vì nó mang tính chất nhạy
cảm. Ngay lập tức, những cô gái làng chơi chuyên nghiệp thời kỳ đó liền bắt chước
những hành động thái quá mà Okuni đã biểu diễn và xem cô như một thần tượng.
Về sau, với sự tài trợ của Ujisato Sanzaburou, người giúp đỡ cho Okuni về
phương diện tài chính cũng như nghệ thuật, những màn trình diễn của đoàn kịch đã
chính thức trở thành một môn kịch có tên gọi là Kabuki. Theo như cách diễn giải
của một số tài liệu thì: Kabuki được đọc theo âm Hán-Việt là ca vũ kỹ. Ca có nghĩa
là hát, vũ có nghĩa là múa, kỹ có nghĩa là kỹ năng. Theo đó đôi khi Kabuki cũng
được dịch là nghệ thuật múa hát. Tuy nhiên nếu xét theo loại chữ phụ thuộc vào
cách phát âm mà không phụ thuộc vào các ký tự cấu thành lên nó thì nó sẽ không
giải thích được đúng nghĩa từ nguyên gốc. Từ Kabuki cũng có thể bắt nguồn từ
động từ Kabuku, có nghĩa là “tựa vào” hay là “chống vào”, “dựa vào”. Nếu hiểu
7
theo nghĩa của sân khấu thì nó có nghĩa là “tiên phong, đi trước” hay là “dị thường”.
[7- trang 440]
Về mặt riêng tư, người ta nói rằng, Sanzaburou là người tình của Okuni, mặc
dù họ không kết hôn với nhau. Sau khi Sanzaburou chết, bà vẫn tiếp tục phát triển
Kabuki, tiếp tục kết hợp và phát triển giữa kịch nghệ với âm nhạc và các điệu múa.
Cứ như thế, sự nổi tiếng của bà và đoàn kịch Kabuki đã lan rộng khắp nước Nhật
cùng với những nghệ thuật biểu diễn do bà sáng tạo ra.
1.1.3. Okuni và Kabuki những năm sau đó
Okuni lui về nghỉ hưu năm 1610, rồi từ đó lặng thinh, không thấy bà xuất
hiện trên các sân khấu nữa.
Có rất nhiều người và các đoàn kịch khác đã có các hoạt động bắt chước theo
Kabuki. Đặc biệt, ở các nhà chứa còn tổ chức các buổi biểu diễn mang tính bắt
chước này để làm trò vui thích, giải trí cho những vị khách giàu có. Họ cũng tiếp
nhận những cô gái có khả năng múa hát và diễn xuất để họ có thể biểu diễn trên sân
khấu kiêm thêm nghề gái điếm. Từ những điều đó, các loại hình biểu diễn Kabuki
lúc bấy giờ nhanh chóng cuốn hút những loại khán giả hủ bại, và lôi cuốn sự chú ý
của rất nhiều đàn ông. Những người trân trọng và yêu quý nghệ thuật Kabuki cũng
như chính quyền chức sắc không vừa lòng với loại thu hút cách cảm nhận lệch lạc
về nghệ thuật. Họ cảm thấy như thể phụ nữ đã làm mất đi cái phẩm giá của nghệ
thuật Kabuki. Cho nên đến năm 1629, phụ nữ bị cấm diễn xuất Kabuki và bất kì
một hình thức sân khấu nào khác. [2-trang 134]
Nói về Okuni, có vài thuyết nói về khoảng thời gian bà qua đời, có thuyết nói
rằng bà mất năm 1613, số khác lại cho rằng con số1658 mới chính xác.
Năm 2003, một tượng đài được dựng lên để tôn vinh và tưởng nhớ đến công
ơn của bà, trên đường Kawabata, ở phía Bắc Shijou Ouhashi, gần bờ sông Kamo ở
Kyoto. [16- trang 275]
8
1.2. Kabuki nam bắt đầu từ năm 1653
1.2.1. Kabuki của các nam diễn viên trẻ
Cái này vừa cấm đã mọc ra cái khác theo nhu cầu hiển nhiên của xã hội.Vì
Kabuki đã quá nổi tiếng và đang rất được yêu thích, nên các nam diễn viên trẻ, gọi
là wakashu (diễn viên nam trẻ), đã tiếp nối vị trí của phụ nữ sau khi họ bị cấm biểu
diễn. Những nam diễn viên trẻ mặc quần áo phụ nữ và đảm nhận vai trò onnagata
(nữ vai trò). Những thanh niên này có thể thay thế vai trò của phụ nữ vì nam tính
trong những người thanh niên chưa trưởng thành này chưa bộc lộ rõ và họ có giọng
cao hơn so với những người đàn ông trưởng thành. Những nam diễn viên trẻ này
đảm nhận những vai diễn có sức hấp dẫn đã trở nên phổ biến và thường được trình
bày trong bối cảnh có tính chất khiêu dâm.
Hình 1.2. Một cuộc hẹn hò giữa một người đàn ông và một diễn viên nam trẻ
[Nguồn hình: http://nhatban.net][19]
Cùng với sự thay đổi về vai trò giới tính của người biểu diễn còn dẫn đến sự
thay đổi trong sự nhấn mạnh hiệu suất bằng cách tăng sự căng thẳng trong kịch tính
giống như các bộ phim truyền hình nhằm cuốn hút sự theo dõi của khán giả hơn là
9
nhấn mạnh đến kỹ thuật các điệu múa. Các buổi biểu diễn của họ nói chung đều tục
tĩu và các diễn viên nam đặc biệt là những diễn viên trẻ, đẹp trai cũng bắt đầu bước
vào việc hành nghề mại dâm. Khách hàng bao gồm cả hai đối tượng: phụ nữ và nam
đồng tính. Trong các buổi biểu diễn hay là sau các buổi biểu diễn có nhiều khán giả
thường làm loạn lên và thường xảy ra những vụ cãi vã om sòm đôi khi biến thành
ẩu đả, nguyên nhân chính là do việc tranh giành nhau để được qua đêm với các diễn
viên trẻ, đẹp trai, nổi tiếng. Vì điều này chính quyền Mạc phủ đã quyết định cấm vai
trò Wakashu vào năm 1652, có nghĩa là cấm các chàng trai chưa trưởng thành trở
thành diễn viên Kabuki. Điều này đã tạo nền móng cho sự hình thành Yarou
Kabuki.
1.2.2. Sự hình thành Yarou kabuki
Hình 1.3. Hai diễn viên kabuki Bando Zenji và Sawamura Yodogoro trong tranh
của Sharaku (1974).
[Nguồn hình: http://nhatban.net][29]
Song song với quyết định đó, từ năm 1653, quyết định mới ra đời quy định chỉ
có đàn ông trưởng thành thực sự mới được tham gia biểu diễn Kabuki. Kabuki phát
triển thành một loại hình sân khấu phức tạp và cách điệu hóa gọi là Yarou kabuki
(dã lang ca vũ kỹ, đại ý là Kabuki nam). Sự biến đổi về nội dung trong phong cách
10
mới này có ảnh hưởng lớn đến các nhà hát hài kịch, đặt dưới sự quản lý của Mạc
phủ. Vì Kyogen vào thời gian đó cũng rất nổi tiếng.
Từ đó, tất cả các vai trong vở kịch Kabuki tiếp tục do đàn ông đảm trách. Hình
thức các diễn viên nam chuyên đóng các vai nữ, được gọi là onnagata hay oyama
(có nghĩa là nữ hình)bùng nổ. Những gia đình truyền thống của các onnagata bắt
đầu hình thành rất nhiều và trong những năm sau này, phần lớn các onnagata
chuyên nghiệp xuất thân từ những gia đình truyền thống đó.
Diễn viên onnagata có thể làm cho khán giả nghĩ họ chính là phụ nữ thật vì họ
trang điểm rất đậm và lối diễn, giọng nói cũng giống như là các diễn viên nữ đang
đảm nhận vai trò đó vậy. Onnagata xuất hiện nhiều trong các cảnh lãng mạn. Các
cảnh này họ thường diễn xuất chung với một diễn viên khác. Những người đàn ông
biết cách giấu thể hình và kích cỡ thật của mình để trông giống nữ giới như thật. Họ
nói bằng cái giọng the thé, lảnh lót. Có lẽ đó là cái cách mà đàn ông vẫn thường
nghĩ về phụ nữ nên họ đã đưa chúng vào trong lối diễn của mình.
Sau hơn 250 năm từ khi có quy định cấm phụ nữ trình diễn Kabuki, diễn viên
onnagata đóng vai trò chính trong các vở kịch Kabuki và trong các nhà hát Kabuki.
Cho đến trước khi lệnh cấm trên bị dỡ bỏ vào năm 1879, thì vai trò của phụ nữ cũng
đã trở nên không còn quan trọng nữa vì các diễn viên nam đã có được các kĩ năng
diễn những vai loại này. Vì loại Kabuki này thiếu sức hấp dẫn so với hai loại
Kabuki thời kỳ trước về phương diện dung mạo bong sắc nên diễn viên đã tập trung
sức lực nghiên cứu kỹ thuật trình diễn hòng lôi cuốn khán giả. Dần dần, Kabuki đã
thành hình với tư cách là một sân khấu tuồng mà vai trò của diễn xuất được đặt lên
hàng đầu.
1.3. Kabuki thời Genroku 1673-1735
Trong suốt thời kì Genroku (Nguyên Lộc 1688-1704), Kabuki phát triển rất
hưng thịnh từ vùng kinh kỳ Kamigata cho tới Edo, trung tâm chính trị mới. Thời kì
này cấu trúc, nội dung của một vở kịch Kabuki đã được chính thức hóa, cũng như
sự xuất hiện của nhiều yếu tố cách điệu hóa của văn học. Các loại hình nhân vật
trong vở kịch thường được xác định rõ ràng. Sân khấu Kabuki và Ningyou joururi,
11
thể loại sân khấu múa rối sau đó được biết đến với cái tên Bunraku, trở thành mối
liên kết chặt chẽ với nhau trong thời kì này và cả hai đều có ảnh hưởng đến sự phát
triển của nhau.[1-trang 397]
Trong Kabuki thời kỳ này, hai loại vai quan trọng được chú trọng phát triển
đó là: aragoto (phong cách thô ráp) do Ichikawa Danjuuro (1660-1704) khám phá
ra ở Edo, và wagoto (phong cách êm dịu) bởi diễn viên Kamigata vĩ đại và Sakata
Tojuurou (1604-1709) sáng tạo ra ở vùng Kyoto-Osaka. Hai loại vai này có những
đặc điểm trái ngược, khác biệt nhau. Aragoto là loại vai có phong cách phô trương,
mạnh mẽ, theo đó các diễn viên thường phóng đại từ ngữ, điệu bộ, thậm chí đến cả
trang phục, chân cẳng và trang điểm. Kịch nghệ trong Aragoto thường nhấn mạnh
vào hành động. Ngược lại, đặc điểm của loại vai Wagoto là thường có lời nói và
điệu bộ bình thường, nhẹ nhàng và kịch tính. Nội dung thường chú trọng về các bi
kịch lãng mạn. Tính cách của vai diễn là nhạy cảm, dễ xúc động. Truyền thống của
hai loại này phát triển và hoàn thiện đến ngày nay và đời nào cũng có người mang
tiếp tên tuổi nối nghiệp tổ tiên.
Vào giữa thế kỷ 18, Kabuki bị Bunraku thay thế chỗ đứng trên sân khấu.
Bunraku được biểu diễn dành cho những tầng lớp thấp hơn của xã hội. Nguyên
nhân một phần là do sự xuất hiện một vài nhà viết kịch Bunraku tài năng vào thời
điểm đó. Đó chính là những soạn giả như Chikamatsu Monzaemon và Ki no Kaion.
Về mặt kết cấu vở tuồng và mô tả tâm lý con người thì Bunraku có sự tiến bộ và
phát triển trước Kabuki một bước. Từ lúc bị thế chỗ, không có gì nổi bật trong sự
phát triển của Kabuki cho đến cuối thế kỷ đó và cho đến khi Kabuki nổi tiếng trở
lại và giành lại vị thế trong lòng khán giả.
Tuy rằng loại hình sân khấu Kabuki coi trọng diễn viên và kỹ thuật trình diễn
được đặt lên hàng đầu nhưng dần dần nội dung, tính chất của các bản tuồng cũng
được thay đổi. Vì vậy cùng với thời gian, nó bộc lộ được tính kịch nghệ trong lối
diễn xuất và cấu trúc vở kịch. Đó là điều đáng chú ý trong lịch sử phát triển Kabuki.
Trước thời Meiji những bản tuồng không được sao chép, truyền bá. Chúng được lưu
giữ theo thời gian bằng các vở kịch diễn đi diễn lại nhiều lần và biến hóa tùy theo
12
phong cách diễn xuất của diễn viên. Do đó bắt đầu từ khi này, trong Kabuki, diễn
viên có vai trò quan trọng hơn cả soạn giả. [13- trang 46]
1.4. Kabuki sau cuộc Minh Trị Duy Tân
Cuộc cải cách văn hóa to lớn của Nhật Bản vào năm 1868 kéo theo sự sụp đổ
của Mạc phủ Tokugawa, xóa bỏ đi tầng lớp Samurai, và sự mở cửa của Nhật Bản
đối với phương Tây đã giúp cho Kabuki một lần nữa hồi sinh. Trong khi nền văn
hóa đất nước đang vật lộn để khắc phục sự thiếu thốn nét đặc trưng và sức thu hút
của mình, thì các diễn viên Kabuki cố gắng tăng cường tiếng tăm, uy tín, vai trò của
Kabuki trong giới thượng lưu và ra sức hòa trộn, thích ứng giữa phong cách truyền
thống với khẩu vị đương thời. Cuối cùng họ cũng chứng tỏ được thành công về điều
này bằng một suất diễn phục vụ Nhật Hoàng Minh Trị vào ngày 21 tháng 4 năm
1947. [12- trang 95]
Rất nhiều nhà hát Kabuki bị phá hủy do bị ném bom và bị lực lượng quân đội
chiếm đóng trong thế chiến thứ II. Sau chiến tranh, Kabuki lại bị ngăn cấm biểu
diễn trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, đến năm 1947, lệnh cấm bị bãi bỏ và việc
biểu diễn Kabuki lại được tiếp tục trở lại.
1.5. Kabuki ngày nay
Thời gian từ sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc là một thời gian
khó khăn đối với Kabuki. Bên cạnh sự tàn phá của chiến tranh phần lớn các thành
phố Nhật Bản mà nó còn kéo theo xu hướng đương thời đó là từ chối những giá trị
truyền thống và những tư tưởng của quá khứ. Kabuki cũng không nằm ngoài xu
hướng đó.
Để tồn tại và tìm lại sự đón nhận của khán giả, Kabuki tự tìm cách thay đổi
chính mình. Những vở kịch Kabuki truyền thống trước kia được cải tiến lại mang
tính chất đổi mới, hiện đại của đạo diễn Tetsuji Takechi rất được công chúng hoan
nghênh vào thời điểm đó. Chúng đã mang lại sự hồi sinh mạnh mẽ cho Kabuki và
tình yêu của khán giả đối với Kabuki ở vùng Kansai.
Cùng với công lao của những đạo diễn Kabuki tài năng, không thể không nói
đến công lao của những diễn viên Kabuki trong việc gìn giữ và phát triển nó. Nói
13
đến các ngôi sao Kabuki, trong số những ngôi sao trẻ tuổi đã biểu diễn cùng
Takechi Kabuki thì Nakamura Ganjiro III (sinh năm 1931) là diễn viên hàng đầu.
Ông lần đầu được biết đến với cái tên Nakamura Senjaku, và để vinh danh ông, thời
kì đó trong giới Kabuki gọi là
“ Thời kỳ Senjaku” để vinh danh ông. [11- trang
200]
Ngày nay, Kabuki vẫn khá được ưa chuộng – có thể nói nó là loại hình kịch
truyền thống Nhật Bản được ưa chuộng nhất – và các ngôi sao Kabuki cũng thường
xuất hiện với các vai diễn xuất sắc khác trên Tivi hay màn ảnh rộng. Ví dụ, vai diễn
Onnagata nổi tiếng có tên gọi là Bandoo Tamasaburo V đã xuất hiện trong vài vở
kịch không phải là Kabuki và điện ảnh – vai mà họ đảm nhận thường là vai nữ.
Kabuki cũng đươc một loại hình nghệ thuật hiện đại nổi tiếng khác của Nhật Bản
tham khảo đó là Anime.
Mặc dù có không nhiều các nhà hát lớn ở Tokyo, Kyoto, Osaka, nhưng lại có
rất nhiều các nhà hát nhỏ ở Osaka, và trên khắp đất nước. Đoàn kịch Ooshika
Kabuki, ở Ooshika, tỉnh Nagano, là một ví dụ. Một vài đoàn kịch Kabuki đã bắt đầu
giao cho phụ nữ đảm nhận các vai onnagata, và Ichikawa Kabuki-za (đoàn kịch toàn
nữ) được thành lập sau chiến tranh thế giới thứ II.
Sự quan tâm và yêu thích Kabuki đã lan sang cả các nước phương Tây. Các
đoàn kịch Kabuki thường sang Châu Âu và Châu Mỹ lưu diễn. Cũng có một vài vở
kịch của phương Tây đã được soạn sang cho việc biểu diễn Kabuki, chẳng hạn như
các vở kịch của Shakespeare.
Ngược lại, các nhà viết kịch và tiểu thuyết gia phương Tây cũng đã thử sức
sáng tạo nghệ thuật với đề tài Kabuki, ví dụ như vở Hiroshima Bugi (2004) của
Gerald Vizenor. Nhà văn Yukio Mishima là một người có công trong việc tiên
phong và phổ biến phong cách biểu diễn Kabuki theo lối hiện đại, và làm hồi sinh
những loại hình nghệ thuật truyền thống khác, như Noh, cho phù hợp và tồn tại với
phong cách hiện đại.
14
Ở Australia, đoàn kịch Za Kabuki của Đại học Quốc gia Australia đã bắt đầu
biểu diễn kịch từ năm 1976, đây là một đoàn biểu diễn kịch Kabuki có sự tồn tại và
phát triển lâu nhất ở bên ngoài nước Nhật. [8- trang 256]
Kabuki đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền
khẩu của nhân loại vào ngày 24 tháng 01 năm 2005. [6- trang 301]
1.6. Các soạn giả và các vở kịch nổi tiếng.
1.6.1. Soạn giả Chikamatsu Monzaemon (1653-1724)
Hình 1.4: Soạn giả Chikamatsu Monzaemon (1653-1724)
[Nguồn hình: http://www.erct.com]
Nhà soạn kịch nổi tiếng Chikamatsu Monzaemon, một trong những nhà soạn
kịch Kabuki đầu tiên và tài năng, ông có một số tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn
trong giới sáng tác Kabuki. Vở thường được coi là tác phẩm quan trọng nhất của
ông là vở Sonezaki Shinju (Tự sát vì tình ở Sonezaki), mặc dù thực chất vở này bắt
nguồn từ kịch bản Bunraku. Thế nhưng cũng giống như nhiều vở kịch Bunraku, nó
được sửa lại cho phù hợp với sân khấu Kabuki. [2-trang 136]
Từ nó có thể làm xuất hiện nhiều bản tương tự. Trong lịch sử, vở này và
những vở có nội dung tương tự đã gây ra nhiều vụ tự tử phỏng theo kịch bản khiến
chính phủ ban hành lệnh cấm trình diễn những vở kịch có đề tài Shinjumono (kịch
vì việc hai người yêu nhau phải tự tử) vào năm 1723. [2-trang 140]
15
1.6.2. Soạn giả Namiki Shozo (1703-1773)
Người đóng vai trò then chốt trong sự phục hưng của Kabuki là soạn giả
Namiki Shozo (1730-1773). Ông chịu ảnh hưởng của phong cách sân khấu Jooruritiền Bunraku vì là ông học trò của soạn giả Jooruri nổi tiếng Namiki Sosuke (16951751). Ông đã biết đem cách kết cấu tình tiết phức tạp của tuồng Jooruri vào trong
Kyogen của Kabuki, cũng như đã biết thay đổi cách trang trí phông cảnh sân khấu,
sáng chế ra sân khấu quay vòng tròn, dùng những dụng cụ đồ sộ, công phu hơn để
cảnh quay sân khấu rộng lớn thêm lên và do đó, đáp ứng được nhu cầu của ngày
càng nhiều khán giả. Namiki Sosuke là người soạn ra tác phẩm “Con Thuyền Ba
Mươi Thạch lên đường” “Sanjikkoku Yofune no Hajimari” (Tam Thập Thạch Đăng
Thủy), truyện kể về loại thuyền buôn “ba mươi thạch” (trọng tải trên 5 tấn vì 1
“thạch” hay “hộc” tương đương 180 lít) chở hành khách và hàng hóa trên sông
Yodogawa ở vùng Osaka.
1.6.3. Soạn giả Namiki Gohei (1747-1804)
Môn đệ của Namiki Shozo là Namiki Gohei (1747-1804). Namiki Gohei có
sở trường về Sewakyogen tức là loại Kabuki nói về nhân tình thế thái đương thời,
và ông đã thừa kế sự nghiệp của thầy. Gohei trở thành soạn giả số một của vùng
kinh kì nhưng đến năm Kansei (Khoan Chính) thứ 6 (1794) ông lại bỏ sang miền
Đông, mang theo cả tác phong tả thực của Kabuki vùng Kyoto-Osaka sang Edo.
Cùng lúc, soạn giả đồng thời đại với Namiki Gohei bấy giờ là Sakurada Jisuke
(1734-1806) cũng nổi tiếng với những vở tuồng mang tinh thần giải trí sắc thái nhẹ
nhàng tươi mát của phong cách nghệ thuật Edo. Ông là người đã kết hợp, pha trộn
các loại tuồng Kabuki mà trước đây khi mỗi vở ra đời liền được sắp xếp vào một
“nhóm tuồng” cố định có tên gọi riêng chứ không có sự hòa hợp(gọi là “sekai” và
vào thời Bunsei (1818-1803) người ta đã tính ra có tới trên 120 “sekai”). Cách pha
trộn, hài hòa phong cách của Sakurada Jisuke I là gọi là “maizame”.
Namiki Gohei có vở “Cây Ngô Đồng Cửa Chùa” (Kinmon Gosan no Kiri) do
Ishikawa Goen chủ diễn, Sakurada Jisue I có “Quyển Sổ Khuyến Giaó” (Gohiiki
Kanjincho), trong đó có đoạn “Sư không biết đọc kinh” thuật lại bước đường cùng
- Xem thêm -