Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh thần người việt...

Tài liệu Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh thần người việt hiện nay

.PDF
118
238
69

Mô tả:

Vò ®øc chÝnh (ThÝch Thanh NhiÔu) ®¹I häc quèc gia hµ néi TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Vò ®øc chÝnh (ThÝch Thanh NhiÔu) luËn v¨n th¹c sü triÕt häc T×m hiÓu mét sè ¶nh h ëng cña t«n gi¸o ®Õn ®êi sèng v¨n ho¸ tinh thÇn ng êi viÖt hiÖn nay LuËn v¨n th¹c sü triÕt häc hμ néi 2010 Hµ Néi - 2010 ®¹I häc quèc gia hµ néi TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Vò ®øc chÝnh (ThÝch Thanh NhiÔu) T×m hiÓu mét sè ¶nh h ëng cña t«n gi¸o ®Õn ®êi sèng v¨n ho¸ tinh thÇn ng êi viÖt hiÖn nay Chuyªn ngµnh : T«n gi¸o häc M· sè : 60.22.90 LuËn v¨n th¹c sü triÕt häc Giáo viên hướng dẫn: TS. TrÇn thÞ kim oanh Hµ Néi - 2010 119 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 5 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu........................................................... 5 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 6 6. Đóng góp của luận văn: ........................................................................... 6 7. Ý nghĩa của luận văn: .............................................................................. 6 8. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 7 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRƯỚC KHI CÓ TÔN GIÁO NGOẠI NHẬP .............................................. 8 1.1. Khái quát về tôn giáo ở Việt Nam ....................................................... 8 1.1.1. Tôn giáo và những biểu hiện của tôn giáo ....................................... 8 1.1.2. Vài nét về tôn giáo ở Việt Nam .................................................... 21 1.2. Đời sống văn hóa tinh thần của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ trước khi có tôn giáo ngoại nhập. ............................................................. 25 1.2.1. Một số khái niệm chung ................................................................. 25 1.2.2. Đôi nét về đời sống văn hóa tinh thần của người Việt .................. 32 Chương 2: MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY...................... 38 2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hoá tinh thần người Việt 40 2.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa tín ngưỡng và luân lý đạo đức 40 2.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn học nghệ thuật. .................. 56 2.2. Ảnh hưởng của Công giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần người Việt .................................................................................................. 73 120 2.2.1. Ảnh hưởng của Công giáo đến văn hóa tín ngưỡng và luân lý đạo đức. ................................................................................................... 73 2.2.2. Ảnh hưởng của Công giáo đối với văn học nghệ thuật. ................ 94 2.3. Một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục một số hạn chế của tôn giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. ............................. 103 KẾT LUẬN .................................................................................................. 107 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 109 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ V (khóa VIII), Đảng ta đã ra Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó xác định một trong mười nhiệm vụ cụ thể là “chính sách văn hóa đối với tôn giáo”. Nghị quyết ghi: “Về tôn giáo, thi hành nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật Nhà nước. Nghiêm cấm việc xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. Nhà nước chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giúp đỡ đồng bào có đạo xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống, tham gia các công việc xã hội, từ thiện Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời đẹp đạo"”[21;126]. Như vậy, trong quan điểm chỉ đạo Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của tôn giáo trong đời sống văn hóa xã hội. Tôn giáo với tính cách là một yếu tố của cấu trúc xã hội, đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến con người và xã hội trên cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, góp phần tạo nên sắc thái đặc biệt cho đời sống văn hóa tinh thần của nhân loại. Ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần được đánh giá hết sức khác nhau, thậm chí đối lập nhau trong lịch sử. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến thống nhất với nhau rằng: tôn giáo vừa có khả năng tạo nên những giá trị làm phong phú và thúc đẩy đời sống văn hóa tinh thần của xã hội song cũng có thể tạo nên những cản trở đối với sự phát triển đời sống văn hóa tinh thần, đời sống xã hội. Vì vậy, vấn đề được đặt ra cho người nghiên cứu 2 tôn giáo học là phải thấy được những hợp lý và khiếm khuyết của hiện tượng tôn giáo và những ảnh hưởng của nó đã, đang và sẽ cản trở lịch sử nhân loại. Điều này thực sự cần thiết trong thời đại ngày nay, khi cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các trào lưu hiện đại hóa, các tôn giáo thế giới có xu hướng gắn bó hơn với đời sống thế tục, đặc biệt trong các lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng truyền thống, luân lý đạo đức và văn học nghệ thuật để tự điều chỉnh, thích ứng với xu thế của thời đại, mong giữ được thánh địa thiêng liêng của mình để tiếp tục tồn tại và tồn tại lâu dài. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Bên cạnh những tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, còn có những tôn giáo được du nhập từ bên ngoài vào như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo… Các tôn giáo ở Việt Nam luôn tồn tại song hành cùng lịch sử dân tộc, bên cạnh những hạn chế nhất định, tôn giáo đã có những đóng góp tích cực nhất định cho nền văn hóa dân tộc, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam. Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, trước những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, tôn giáo ở Việt Nam đang có những biến động phức tạp theo nhiều chiều hướng. Vì vậy, nhiều vấn đề được đặt ra, nhất là xung quanh việc đánh giá ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Trong các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo và Công giáo là những tôn giáo thế giới vào nước ta từ rất sớm. Nhìn chung, đây là các tôn giáo khá gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Trong quá trình tồn tại và phát triển, các tôn giáo này đã đóng góp cho dân tộc trên nhiều phương diện, đặc biệt là phương diện văn hóa tinh thần, tạo ra sự đa dạng trong đời sống văn hóa tín ngưỡng truyền thống, những chuẩn mực trong luân lý đạo đức và giá trị nhân văn, nhân bản trong văn học nghệ thuật của người Việt Nam. 3 Do vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của tôn giáo (đặc biệt là hai tôn giáo thế giới Phật giáo và Công giáo) đối với văn hóa Việt Nam là công việc có ý nghĩa nền tảng, góp phần vào công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để hiểu đúng hơn về vị thế của tôn giáo đối với văn hóa nước nhà là một vấn đề hết sức cần thiết. Xuất phát từ những suy nghĩ như vậy, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu:“Tìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt hiện nay” làm luận văn của mình. Hy vọng, với đề tài này, chúng tôi góp phần vào việc nghiên cứu tôn giáo, có một cách nhìn khách quan hơn về vị thế của tôn giáo thế giới (Phật giáo, Công giáo) hiện nay trong xã hội Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, trong suốt một thời kỳ dài, chúng ta quan niệm tôn giáo sẽ mất đi cùng với quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Do đó, vấn đề tôn giáo ít được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Những năm gần đây, trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ đổi mới vấn đề tôn giáo được đặt ra và đòi hỏi có sự nhìn nhận, phân tích và đánh giá lại dưới những góc độ khác nhau, đặc biệt là dưới góc độ văn hóa. Vì vậy, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo, về văn hóa tôn giáo và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội. Nghiên cứu về văn hóa có các công trình tiêu biểu như: “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Quốc Vượng (chủ biên); “Việt Nam văn hóa sử cƣơng” của học giả Đào Duy Anh; “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm; Một số vấn đề lý luận văn hoá thời kỳ đổi mới” của Hoàng Văn Vinh; “Văn hoá và văn hóa học thế kỷ XX”, của Viện khoa học xã hội; “Văn hóa và sự phát triển” của một số tác giả nước ngoài viết về văn hóa như: Iu.Đavưđôp, L.G.Ionin, V.E.Đaviđôvich, Zđanôp... Nghiên cứu về tôn giáo tiêu biểu là các công trình: “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của Đặng Nghiêm Vạn, “Một số tôn 4 giáo ở Việt Nam”, của Nguyễn Thanh Xuân; “Mƣời tôn giáo lớn trên thế giới”, của Hoàng Tâm Xuyên; “Tôn giáo thế giới và Việt Nam” của Mai Thanh Hải; Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, 2 của Lê Mạnh Thát, “Phật giáo Việt Nam những vấn đề hiện nay”, của Nguyễn Tài Thư; “Phật giáo trong mạch sống dân tộc”, của Thích Thanh Từ; “Việt Nam giáo sử”, của Phan Phát Huồn; “Lịch sử truyền giáo”, tập 1, 2 của Nguyên Hồng; “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hoá Việt Nam” của Nguyễn Hồng Dương.... Ngoài ra, còn một số ít công trình đề cập trực tiếp tới một vài phương diện biểu hiện sự tác động qua lại giữa văn hóa và tôn giáo: “Tôn giáo trong mối quan hệ với văn hóa và phát triển ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hồng Dương; “Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngƣỡng tôn giáo ở Việt Nam” của Chu Quang Trứ; “Ảnh hƣởng của các hệ tƣ tƣởng và tôn giáo đối với con ngƣời Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Tài Thư chủ biên; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam” và “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam”, của Đặng Nghiêm Vạn.... Một số tạp chí cũng có những bài viết nghiên cứu về tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa xã hội như: Tạp chí Triết học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Tạp chí Công tác tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp chí Công giáo và dân tộc,... Có thể kể đến các bài viết như: “Đạo đức và đạo đức tôn giáo nhìn từ góc độ triết học” của Nguyễn Hữu Vui (Tạp chí triết học, số 4, 1995); “Tôn giáo tín ngƣỡng trong đời sống văn hóa hiện nay” của tác giả Đỗ Quang Hưng (Tạp chí Cộng sản, số 15, 1999); “Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá”, của Nguyễn Đức Lữ, (Tạp chí Triết học số, 11, năm 2006); “Bƣớc đƣờng hội nhập văn hoá dân tộc của Công giáo Việt Nam”, của Nguyễn Hồng Dương (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 7, năm 1999).... Nhìn một cách tổng thể, những nghiên cứu trên đều thống nhất quan điểm thừa nhận văn hóa tôn giáo có ảnh hưởng tích cực đến văn hóa Việt 5 Nam, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc. Song, cũng có những yếu tố tiêu cực cần phải khắc phục bằng những giải pháp cụ thể trên những bình diện nhận thức cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, do yêu cầu của xã hội hiện nay, việc tiếp tục nghiên cứu về văn hóa tôn giáo ở dạng chuyên biệt vẫn rất thiết thực và cần thiết. Theo hướng nghiên cứu này, tác giả luận văn kế thừa những giá trị của các công trình đi trước trong việc thực hiện đề tài của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích khái quát về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay và đời sống văn hóa tinh thần của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ trước khi có tôn giáo ngoại nhập, luận văn tập trung phân tích những ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hoá tinh thần người Việt hiện nay và đưa ra một số giải pháp để phát huy những giá trị văn hoá tôn giáo tốt đẹp, khắc phục những mặt hạn chế của tôn giáo. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn có hai nhiệm vụ Thứ nhất, Phân tích khái quát về tôn giáo ở Việt Nam và đời sống văn hóa tinh thần của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ trước khi có tôn giáo ngoại nhập. Thứ hai, Phân tích và làm sáng tỏ một số ảnh hưởng của tôn giáo cụ thể như Phật giáo, Công giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Đồng thời đưa ra một số một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp, khắc phục những hạn chế trong tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Ảnh hưởng của tôn giáo (Phật giáo, Công giáo) đối với đời sống văn hoá tinh thần người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số ảnh hưởng của tôn giáo (mà cụ thể là Phật giáo và Công giáo) đến đời sống văn hóa tinh 6 thần của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ trên một số lĩnh vực cụ thể: tư tưởng, tín ngưỡng truyền thống, văn học nghệ thuật. Những lĩnh vực này rất gần gũi và gắn bó với sinh hoạt đời sống văn hoá tinh thần của người Việt. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về tôn giáo; các công trình nghiên cứu về tôn giáo của các nhà Khoa học trong và ngoài nước. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tôn giáo trong mối quan hệ với đời sống văn hoá tinh thần từ góc độ tôn giáo học, sử dụng tổng hợp các phương pháp trong quá trình nghiên cứu như kết hợp logic với cơ sở, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp tư liệu... 6. Đóng góp của luận văn: Trên cơ sở phân tích khái quát về tôn giáo ở Việt Nam và đời sống văn hóa tinh thần người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ trước khi có tôn giáo ngoại nhập, luận văn phân tích một số ảnh hưởng của tôn giáo cụ thể như Phật giáo, Công giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Đồng thời đưa ra một số một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị văn hóa tôn giáo tốt đẹp, khắc phục những hạn chế trong tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa của luận văn: 7.1. Về mặt lý luận: Luận văn phân tích và làm sáng tỏ một số ảnh hưởng của tôn giáo (mà cụ thể là Phật giáo và Công giáo) đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ trên một số lĩnh vực cụ thể: tư tưởng, tín ngưỡng truyền thống, văn học nghệ thuật... 7 7.2. Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu, học tập về tôn giáo; cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung luận văn gồm 2 chương 5 tiết. 8 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRƯỚC KHI CÓ TÔN GIÁO NGOẠI NHẬP 1.1. Khái quát về tôn giáo ở Việt Nam 1.1.1. Tôn giáo và những biểu hiện của tôn giáo Trong Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã nêu rõ vai trò của tôn giáo và tầm quan trọng của công tác tôn giáo: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”[20;78]. Vậy, tôn giáo là gì? Bản chất của tôn giáo ra sao? Tôn giáo đã ảnh hưởng đến đời sống xã hội như thế nào? mà Đảng ta lại khẳng định như vậy? Tôn giáo là gì? Đây là một vấn đề xưa cũ nhưng cũng là một vấn đề thường xuyên mới. Người ta xem xét, nhận thức tôn giáo từ những không gian văn hóa và truyền thống tư tưởng khác nhau, do sự đa dạng của xuất phát điểm và góc nhìn khác nhau mà dẫn đến kết luận và giải đáp cũng rất khác nhau. Điều này làm nảy sinh ra vấn đề là nên lý giải tôn giáo như thế nào? Theo những định nghĩa phổ thông thì tôn giáo là một dạng sinh hoạt tâm linh, trong đó con người tin vào sự hiện hữu của các thế lực siêu nhiên, có quyền lực siêu phàm, có thể tác động đến đời sống của con người khi con người sống cũng như khi đã chết. Tin vào sự bất tử của linh hồn và một thế 9 giới sau khi chết, trong đó linh hồn của những người đã chết vẫn tồn tại trong một cuộc sống khác. Từ đó con người đi đến chỗ tôn vinh, thờ phụng các thế lực siêu nhiên, linh hồn của những người đã chết với hy vọng được sống an lành nơi trần thế và được hưởng phúc vĩnh hằng nơi thế giới bên kia sau khi đã chết. Tôn giáo có đặc trưng nổi bật là đặt niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, đặt ra những phương thức ứng xử để trước mắt có được một cuộc sống an bình nơi trần thế và sẽ được hưởng một hạnh phúc vĩnh hằng nơi thế giới bên kia, nhờ vào sự hỗ trợ của những sức mạnh siêu nhiên đó. Phơ bách thì lại cho rằng: “Nếu chúa là ý thức mà con người rút ra từ bản thân nó” thì tôn giáo rõ ràng là thích hợp của con người, của những thang bậc lịch sử khác nhau, của những tộc người khác nhau. Con người tạo ra tôn giáo, như C. Mác và nhiều nhà khoa học trước và sau ông chấp nhận thì rõ ràng tôn giáo phải thích nghi với xã hội con người. Xã hội thay đổi, tư duy con người thay đổi, tôn giáo của họ cũng thay đổi theo. “Con người làm ra tôn giáo chứ tôn giáo không làm nên con người. Nói cách khác, tôn giáo là sự tự ý thức và tự cảm giác của con người vốn tự chưa tìm thấy bản thân mình hoặc đã tự đánh mất mình một lần nữa. Nhưng con người không phải là một sinh vật đứng ngoài thế giới. Con người là thế giới con người, là Nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, đó là cái nhận thức thế giới đảo ngược... Tôn giáo là cái lý thuyết chung về thế giới đó, là bộ bách khoa toàn thư tóm tắt, là cái lôgic bình dân, là niềm danh dự tinh thần, là sự hân hoan, là sự thưởng phạt về luân lý, là sự bổ khuyết thiêng liêng, là nơi tìm thấy sự an ủi và biện minh, phổ cập của cái thế giới ấy. Bởi vì, trong thực tế không hề tồn tại cái tính chất nhân loại ấy.... Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần”[52;570]. 10 Như vậy, tôn giáo không chỉ là sản phẩm của con người nói chung, hơn thế nó là sản phẩm của riêng con người, của mọi thời đại, mọi màu da, mọi vùng đất để tự thăng hoa trong khi đôi chân vẫn gắn chặt với đất mẹ, với số phận không đều nhau, với niềm hạnh phúc và đau khổ xen kẽ, với vinh quang và cay đắng. Tôn giáo đòi hỏi người ta không chỉ tin và ngưỡng mộ, nó đòi hỏi lòng tin vào sự tưởng tượng phong phú, dồi dào, nhằm nâng đỡ tự thân các thân phận người. Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, một trong những cái nôi của văn minh nhân loại, một mảnh đất màu mỡ của tôn giáo và triết học. Sau khi Phật Thích Ca tịch diệt. Phật giáo dần dần tách ra nhiều tông phái, trong đó nổi bật là hai tông phái Tiểu thừa (Hinayana) và Đại thừa (Mahayana). Tông phái Tiểu thừa phát triển ở Nam Ấn và truyền qua các nước như Xrilanca, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào và Nam Việt Nam. Tông phái Đại thừa phát triển ở Bắc Ấn rồi truyền qua Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Bắc Việt Nam. Xét về đặc tính tông truyền thì đạo Ki tô có phần tiêu biểu hơn, như Ph.Ăngghen đã từng nhận xét: Sau Cơ Đốc giáo con người không thể sáng tạo ra một tôn giáo nào hoàn hảo hơn. Và chỉ trong vài năm, Ki tô giáo bành trướng từ Palextin tiến sâu vào nội địa ba châu Á, Âu, Phi. Và sau này Công giáo lan sang miền Lưỡng Hà (Mesopotamie), Ba Tư rồi Ấn Độ, đồng thời tràn qua Alexandri và Bắc Phi. Tôn giáo còn là một sự kiện của lịch sử xã hội, bởi tôn giáo không chỉ quan tâm đến những vấn đề của thế giới bên kia mà còn dành phần quan trọng cho sự quan tâm đến những vấn đề đời thường của xã hội con người và được thể hiện rõ trong luân lý, đạo đức của tư tưởng tôn giáo. Ở bất cứ điều kiện kinh tế nào, những thiên tai, những bất hạnh trong xã hội như núi lửa, động đất, hỏa hoạn, lụt lội, bệnh tật... mà con người đang gánh chịu thì tôn giáo đã góp phần nhất định trong việc gánh vác bớt những nỗi khổ đau đó của con người. Nó góp phần hạn chế những hành vi tiêu cực của con người, hàn gắn, 11 bù đắp một cách thiết thực, dù ở mức độ nào đó, những rủi ro bất hạnh của con người phần nào cũng giải quyết được. Hơn thế nữa tôn giáo còn là văn hóa, như chúng ta đã biết văn hóa đã sản sinh ra văn hóa tôn giáo, văn hóa tôn giáo ấy mang tính đặc trưng của tôn giáo sản sinh ra nó, nhưng đồng thời cũng in đậm màu sắc của nó lên văn hóa đời thường của cộng đồng đi theo tôn giáo đó. Bởi vì, những nơi nào đó coi tôn giáo là Quốc giáo hoặc nơi có số tín đồ đông nhất sẽ đem lại cho nền văn hóa ấy một bản sắc riêng. Các công trình văn hóa kiệt xuất của Hy Lạp, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc không chỉ là sản phẩm của tôn giáo đơn nhất, mà là sự hội nhập nhuần nhuyễn giữa văn hóa tôn giáo và văn hóa đời thường tới mức khó mà tách bạch. Do vậy, tôn giáo phải được coi như là một thành tố văn hóa của cộng đồng. Cho nên, trong thực tế khi muốn tìm hiểu kỹ văn hóa của một cộng đồng nào thì nhất thiết không thể bỏ qua tôn giáo của dân tộc ấy. Và như vậy, một tôn giáo nào đó du nhập vào một quốc gia bình thường sẽ diễn ra một sự giao lưu hòa nhập hoặc tiếp biến văn hóa, làm phong phú thêm đời sống văn hóa của quốc gia ấy. Như vậy, tôn giáo của các dân tộc đều là một dạng thức văn hóa, thậm chí là một dạng thức văn hóa đặc biệt. Vì vậy, nếu ai phủ nhận sạch trơn các giá trị của tôn giáo được xem như là một người cực đoan. Bởi tôn giáo là sản phẩm của chính con người, nó là vật cộng sinh với con người, tương lai của nó thuộc về con người. Tôn giáo hiểu theo quan niệm mác xít là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người những sức mạnh bên ngoài, kể cả sức mạnh trần gian mang tính siêu thế gian và chi phối cuộc sống con người. Tôn giáo cũng là hạnh phúc hư ảo của nhân dân. Bất cứ trong hoàn cảnh xã hội nào, thì cơ sở của mọi tôn giáo cũng là niềm tin của con người vào cái “thiêng” thông qua các hệ thống và biểu tượng. Ví như đạo Phật, biểu tượng của cái thiêng đó là cái “Thiện”. Phật là người tu luyện rũ bỏ dục vọng để đạt 12 tới cái “Thiện” – “Phật tính”. Điều này quy định mọi hành vi ứng xử của con người trong xã hội. Mọi hệ thống biểu tượng của tôn giáo đều là hệ thống biểu tượng của văn hóa, nó vừa chứa đựng hệ giá trị dân tộc, đồng thời là sự thể hiện bản sắc và sắc thái văn hóa của dân tộc trong những thời đại nhất định. Và nhà sử học mác xít Pháp, Charles Haichelin cũng đã nhận định: “Tôn giáo là một sự phản ánh đặc biệt, hoang đường và sai lệch vào trong ý thức xã hội những mối liên hệ giữa con người với nhau và với tự nhiên, bởi con người cả trong xã hội nguyên thủy cũng như trong xã hội được phân chia giai cấp cổ đại, phong kiến, tư bản cũng đều đặt dưới sự thống trị của những sức mạnh ở bên ngoài họ, mà họ không nhận biết được, cũng như không chi phối và kiểm soát được, vì thế mà đối với chúng, họ cảm thấy có sợ hãi bí ẩn, sự sợ hãi này...sẽ sản sinh ra các vị thần linh”[31;46]. Nhưng khi nghiên cứu về tác động, ảnh hưởng của các yếu tố ý thức hệ, đặc biệt là ý thức hệ tôn giáo tới đời sống văn hóa xã hội ta phải thận trọng với những giá trị về cuộc sống mà tôn giáo mang lại có khả năng thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người như: giá trị đạo đức dân tộc, ý nghĩa cho cuộc đời mỗi người, sự bảo đảm theo cách này hay cách khác cho thắng lợi của lẽ công bằng, sự thỏa mãn nhu cầu tuyệt đối của cuộc sống ấm no nơi Thiên Đàng, Niết Bàn... Rất dễ đưa ta đến chỗ biến tôn giáo và ảnh hưởng của nó, vốn chỉ mang tính độc lập tương đối, trở thành tính độc lập tuyệt đối, nghĩa là nó tác động đến đời sống con người với vị thế như là một yếu tố ở bên ngoài thế giới vật chất – một luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy tâm. Bởi xét cho cùng trên thực tế những lý tưởng cao quý mà tôn giáo đem lại cho con người không bao giờ thực hiện được, nó chỉ là sự thỏa mãn nhu cầu một cách ảo tưởng. C.Mác nói: “Tôn giáo là trái tim của thế giới không trái tim”, “Tôn giáo là tinh thần của những trật tự không có tinh thần”, “Tôn giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng xoay quanh con người chừng nào con người chưa biết đầu xoay quanh bản thân mình”[52;569-570]. 13 Từ lâu các nhà nghiên cứu tôn giáo ở nước ta (chỉ nói riêng các nhà nghiên cứu mác xít) đã có những cuộc tranh luận khoa học với nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về những ảnh hưởng của tôn giáo. Không ít người chỉ nhìn thấy tôn giáo như một thứ “thuốc phiện” của nhân dân, một hiện tượng tinh thần xã hội, hoàn toàn tiêu cực (như đạo Ki tô khi du nhập vào nước ta). Nhiều người khác lại tuyệt đối mặt tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội, đồng nhất lý tưởng và đạo đức tôn giáo (nhất là Phật giáo) với lý tưởng và đạo đức của con người Chủ nghĩa xã hội. Điều đó cho thấy, vấn đề ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống xã hội nhất là đời sống văn hóa tinh thần là một vấn đề khá phức tạp. Ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống văn hóa xã hội thường được biểu hiện thông qua những chức năng của tôn giáo. Tôn giáo có nhiều chức năng như chức năng: đền bù hư ảo, chức năng thế giới quan, chức năng giao tiếp, chức năng liên kết, chức năng văn hóa, chức năng giáo dục, chức năng chính trị... Ở đây chúng tôi không bàn tới vai trò và chức năng cụ thể của tôn giáo mà chỉ đề cập một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận là vấn đề tiếp cận vai trò của tôn giáo từ góc độ Tôn giáo học và Triết học. Với tính chất là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo thường được xem xét từ góc độ nhận thức luận (góc độ triết học). Sự xem xét về mặt triết học cho phép làm rõ ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa xã hội như thế nào? Trên ý nghĩa đó mà C.Mác đã nói: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Theo C.Mác, trong một xã hội mà chúng sinh bị áp bức, trong một thế giới “không có trái tim”, “không có tinh thần” là “tiếng thở dài”, là “trái tim”, là “tinh thần” của xã hội đó. Tôn giáo vừa là biểu hiện, vừa là sự phản kháng chống lại sự khốn cùng của xã hội. Hiểu theo ý đó, tôn giáo vừa là sản phẩm tinh thần, vừa là giải pháp tình thế cứu khổ, là niềm an ủi nào đó trong thế 14 giới đau khổ chưa tìm được lối thoát. Niềm tin tôn giáo có tác dụng như một loại thuốc an thần đối với một cơ thể đang bị bệnh hiểm nghèo chưa tìm được phương thức cứu chữa. “Thuốc phiện”, hiểu theo ý ẩn dụ, chủ yếu là khía cạnh tạo một sự cân bằng nào đó về tinh thần để không rơi vào bế tắc. Mỗi tôn giáo lành mạnh đều có giá trị nhân văn, khía cạnh đạo đức, tình cảm riêng và tính cộng đồng gắn bó. Có thể nói tôn giáo là một dạng văn hóa đặc biệt của nhân loại. Ngoài tính thiện, tính nhân văn, nó còn có yếu tố thiêng liêng, yếu tố thăng hoa là những địa hạt mà chỉ bằng trực giác, xuất thần, linh thiêng, mặc khải thì mới với tới được. Chính nhờ vào những yếu tố này con người mới tiến được vào cõi xa xăm, mà từ trước chỉ coi như là sự huyền bí. Vì vậy, nhu cầu tâm linh tín ngưỡng của quần chúng nhân dân cũng bức thiết như nhu cầu về đời sống vật chất như ăn, ở, mặc... Nói cách khác, tôn giáo là phần không thể thiếu được của mỗi con người. Vì vậy mà đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Đức Phật là con vua Tịnh Phạn (Suddhadama) ở phía Bắc xứ Ấn Độ. Mẹ thân sinh ra Ngài mang họ Thích Ca (Cakya), nên sau gọi Thích Ca Mâu Ni Phật. Thái tử Tất Đạt Đa sinh vào khoảng 563-438 TCN. Thời đó, xã hội Ấn Độ theo đạo Bà La Môn, được phân chia thành năm đẳng cấp. Ba lớp người thuộc đẳng cấp trên (vua chúa, quý tộc, thương gia) tha hồ đàn áp bóc lột hai đẳng cấp dưới (giới lao động và lớp người cùng khổ gọi là Parisas). Thái tử Tất Đạt Đa buồn phiền vì nỗi thống khổ cùng cực của người lao động và với cảnh sinh, lão, bệnh, tử của họ, Ngài đã từ bỏ đạo Bà La Môn(1), đến năm 29 tuổi, đã quyết chí bỏ nhà đi tu hành tìm con đường giải thoát cho loài người khỏi mọi đau khổ trên đời. Sau khi đã thành Phật – Bụt (Bậc giác ngộ) (hình 1). Ngài đã đi khắp lưu vực sông Hằng và những nơi khác để giáo 1 Đạo Bà La Môn lúc đó là hệ tư tưởng chính thống trị xã hội Ấn Độ cổ đại. 15 hóa chúng sinh. Ngài không phân biệt sang hèn, chủng tộc, mong giải thoát bể khổ cho loài người. Xuất phát từ góc độ như vậy, cho nên Ki tô giáo thời kỳ đầu hình thành là từ Đế chế La Mã được thiết lập bằng chiến tranh và dựa chủ yếu vào sức lao động của Nô Lệ. Do đó, từ cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ I TCN, Đế quốc La Mã đã chứa chất đầy mâu thuẫn. Mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa Nô Lệ và Chủ Nô. Lúc đó hàng loạt cuộc khởi nghĩa vũ trang của Nô Lệ nổi dậy chống giai cấp Chủ Nô và quân xâm lược. Nhưng tất cả cuộc khởi nghĩa đó đều bị dập tắt trong biển máu một cách dã man. Trong tâm trạng tuyệt vọng, quần chúng lao khổ trông chờ vào sự giúp đỡ của lực lượng siêu nhiên, một vị thần hay một đường cứu thế để có thể đánh đổ Đế quôc La Mã, giải phóng dân tộc và Ki tô giáo đã ra đời trong hoàn cảnh đó. Bởi thế có thể nói, đạo Ki tô vừa là sản phẩm tinh thần của quần chúng trước tình trạng bi đát và thất vọng trong cuộc sống, vừa là phản ứng của họ trước cuộc sống áp bức bóc lột của giai cấp Chủ Nô thống trị. Do vậy, Đạo Ki tô như một thứ tôn giáo của những người Nô Lệ, những người nghèo, những người áp bức đến cùng cực mà “Kinh Phúc Âm” đã để lại một câu nói nổi tiếng: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên đàng”[Mc:10;25], Ph.Ăngghen cũng đã viết: "những tín đồ Cơ Đốc giáo đầu tiên được tuyển trong số những người nào? Chủ yếu là trong số "những người đau khổ và bất hạnh thuộc những tầng lớp người dân thấp nhất, như yêu cầu đối với một phần tử cách mạng"[53;685]. Và như vậy, tôn giáo thế giới (Phật giáo, Ki tô giáo) có một điểm chung là: Chúng đều mang lại cho con người một điều gì đó gắng đạt tới và xem xét về mặt bản chất thì chúng cũng không bao giờ hướng con người tới cái xấu, cái độc ác, mà luôn luôn khuyến khích con người làm điều thiện, vươn tới cái đẹp, cái hoàn mỹ, cái cao cả vì lợi ích của bản thân và cộng đồng. Tuy nhiên, con người vì mục tiêu lợi ích riêng đều có thể sử dụng tôn giáo khiến nó đi ngược lại cái thiện, cái tốt đẹp, trở thành phản giá trị, phản văn hóa. Từ khi xã 16 hội có giai cấp thì không có Nhà nước nào không sử dụng thứ công cụ tôn giáo này phục vụ cho lợi ích của giai cấp và của tập đoàn thống trị của mình. Vì như vậy, từ đời sống trần tục, tôn giáo bị “người đời” làm biến đổi, tha hóa, có khi ngược lại mục tiêu tốt đẹp cao cả ban đầu của nó. Lịch sử nhân loại cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp các giai cấp, các tập đoàn xã hội đã lợi dụng tôn giáo gây ra chiến tranh, tàn phá, gây tai họa cho loài người. Thậm chí họ còn dùng nó như là một công cụ cho chính sách xâm lược tàn bạo của chủ nghĩa bành trướng xâm lược. Phật giáo vốn là một tôn giáo từ bi, hỉ xả - một triết thuyết giải thích một cách sâu xa về cuộc sống con người, về căn nguyên nỗi khổ đau của họ và chỉ ra cho con người một con đường cực kỳ vi diệu để tự giải phóng mình khỏi nỗi khổ đau đó. Vì vậy, nguyên tắc chính được nêu ra là Tứ Thánh Đế, còn gọi là Tứ Diệu Đế. Khổ đế: Cõi đời là cảnh khổ, không những chỉ con người khổ mà vạn vật đều khổ cả. Phật đã chỉ ra nỗi cực khổ vô hạn của đời: “Sinh là khổ, già là khổ, không ưa mà hợp là khổ, ưa mà phải dời là khổ, muốn mà không được là khổ, lưu luyến trong ngũ trọc là khổ”[1;254]. Nỗi khổ con người gồm “Bát khổ”, đó là: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Oán tăng hội khổ, Ái biệt ly khổ, Cầu bất đắc khổ, Ngũ uẩn xí hành khổ. Tập đế: Cho rằng những nỗi khổ của con người đều do nhiều nguyên nhân, tuy nhiên tựu chung lại gồm các nguyên nhân chính: Theo Phật giáo, nguyên nhân thứ nhất là do “vô minh”, tức là sự mông muội, không thấu hiểu lẽ sinh tử ở đời; còn chín nguyên nhân khác cùng với lão, bệnh, tử và các nỗi khổ do sinh mà ra, gồm lại thành mười hai nguyên nhân, liên hệ mật thiết với nhau, tức là Thập nhị nhân duyên. Thập nhị nhân duyên gồm: 1. Vô minh là sự u mê, mờ tối 2. Hành là tưởng – nghĩ và hành động, tức là tự buộc mình vào luân hồi. 3. Thức là biết ta là ta, biết ta có thể hành động, tạo tác được.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan