ĐẶT VẤN ĐỀ
Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá, là niềm tự hào của dân tộc ta
và là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp
dựng n ớc và giữ n ớc của nhân dân ta. Có thể nói, các di tích lịch sử - vănƣ ƣ
hoá, danh lam thắng cảnh không chỉ góp phần giáo dục nhân dân Việt Nam về
truyền thống văn hóa, lịch sử tốt đẹp của cha ông mà còn là một bộ phận hữu cơ
của “Hình ảnh đất n ớc, con ng ời Việt Nam” đối với bạn bè quốc tế. Di sảnƣ ƣ
văn hoá bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản
phẩm tinh thần, vật chất, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học đ ợc l u truyền từƣ ƣ
thế hệ này sang thế hệ khác ở n ớc ta.ƣ
Nhân dân ta có trách nhiệm ra sức bảo vệ và phát huy các di tích lịch sử -
văn hoá, danh lam thắng cảnh, các giá trị văn hóa truyền thống của cha ông.
Làm tốt việc này cũng chính là góp phần tích cực vào việc quảng bá hình ảnh
đẹp đẽ của Việt Nam trên tr ờng quốc tế. Để bảo vệ và sử dụng có hiệu quả diƣ
tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh trong việc giáo dục truyền thống
dựng n ớc và giữ n ớc của nhân dân Việt Nam, góp phần giáo dục tinh thầnƣ ƣ
yêu n ớc, yêu chủ nghĩa xã hội và lòng tự hào dân tộc, nâng cao kiến thức, phụcƣ
vụ công tác nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ và văn hoá của
nhân dân, xây dựng nền văn hoá mới và con ng ời mới xã hội chủ nghĩa, làmƣ
giàu đẹp kho tàng di sản văn hoá dân tộc và góp phần làm phong phú văn hoá
thế giới.
Tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ tập thể trong việc bảo
vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh. Nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về giá trị và vai trò của di sản văn hoá trong phát triển
và huy động nguồn nhân lực, phát huy chủ thể văn hoá vào việc bảo tồn di sản
văn hoá giúp cho các thế hệ t ơng lai có điều kiện kế thừa và sáng tạo ra các giáƣ
trị văn hoá mới làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa dân tộc.
Trong những năm đất n ớc đổi mới, chúng ta đã xác định rõ những địnhƣ
h ớng lớn trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá, đã quan tâm tạo lập sựƣ
hài hoà giữa bảo tồn và phát triển, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế,
góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n ớc. Từ nămƣ
2008, Việt Nam gia nhập Công ớc quốc tế UNESCO về bảo vệ di sản văn hóaƣ
và trở thành Quốc gia thành viên của Ủy ban liên chính phủ của Công ớc quốcƣ
tế UNESCO. Những năm gần đây, nhân dân có nhận thức về vai trò quan trọng
của chủ thể văn hóa và cộng đồng đang đ ợc cải thiện rõ nét.ƣ
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tại là công tác quản lý
Nhà n ớc và bảo tồn các di sản văn hoá hiện đang gặp nhiều khó khăn; tìnhƣ
trạng xuống cấp nghiêm trọng ở các di tích, nạn mất cắp cổ vật, tu bổ tôn tạo
không đúng quy trình gây biến dạng, mất yếu tốt gốc, giảm các giá trị lịch sử
văn hoá tại các di tích đã là vấn nạn.
Tại thời điểm năm 2009, theo số liệu kiểm kê bàn giao thì Thành phố Hà
Nội có hơn 5.175 di tích (trong đó tỉnh Hà Tây tr ớc đây có 3.053 di tích; thànhƣ
2