Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tiểu luận xử lý tình huống nuôi nhốt động vật hoang dã trái phép trên địa bàn th...

Tài liệu Tiểu luận xử lý tình huống nuôi nhốt động vật hoang dã trái phép trên địa bàn thành phố hà nội.

.DOCX
25
2782
75

Mô tả:

TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG TP HÀ NỘI LỚP BỒI DƯỠNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN K3A.2015 -----  ----- TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Tên đề tài: “Xử lý tình huống nuôi nhốt động vật hoang dã trái phép trên địa bàn thành phố Hà Nội” Họ & tên học viên: Lê Hoàng Phương Thảo Chức vụ: Chuyên viên Đơn vị công tác: Phòng Tổ chức hành chính – Chi cục Kiểm lâm – Sở NN&PTNT Hà Nội Hà Nội, tháng 11 năm 2015 Phần thứ nhất LỜI NÓI ĐẦU Với kiểu khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, được thiên nhiên ưu đãi nên Việt Nam là một trong những nước có hệ sinh thái vô cùng phong phú và đa dạng. Những thảm thực vật đặc trưng, các loài thú hoang dã, quí hiếm hiện hữu ở gần 130 nghìn khu rừng đặc dụng, trong đó có 28 vườn quốc gia, 60 khu bảo tồn thiên nhiên và 39 khu bảo vệ cảnh quan nhằm bảo tồn và phát triển các hệ sinh thái trong đó có các loài động thực vật hoang dã. Nhưng thực tế hiện nay, số lượng động vật hoang dã trong các khu bảo tồn, các vườn quốc gia ngày càng giảm rất nghiêm trọng. Vậy thì nguyên nhân do đâu lại xảy ra tình trạng này...? Có rất nhiều nguyên nhân, trực tiếp hay gián tiếp. Có thể là do sự xâm lấn của các sinh vật nhập nội, hay là những cuộc di cư lâu dài khiến một số cá thể không thể bám trụ…Nhưng đó chỉ là những nguyên nhân nhỏ gây ra sự giảm sút số ít của một số loài mà thôi. Có một nguyên nhân to lớn khác, đó chính là con người, “cư dân đông nhất của trái đất”. Và chính chúng ta có dân số đông và nhu cầu sống rất cao, chúng ta xây dựng các khu công nghiêp, các đô thị lớn,…để phục vụ cho nhu cầu của chúng ta, đa số chúng ta không trực tiếp sát hại động vật, nhưng vô tình chúng ta hủy hoại cuộc sống của chúng với việc tạo ra các chất độc hại trong quá trình sản xuất công nghiệp, chúng ta khai thác gỗ rừng, làm hẹp đi môi trường sống của động vật…Động vật hoang dã không giống như phế thải, chúng không thể tái chế. Chỉ nói riêng ở Việt Nam thì phần lớn chúng ta không nhận thức được điều này, nếu có chăng thì cũng là những nhận thức chưa thật sự rõ về hậu quả, đó là điều đáng trách, nhưng còn đáng trách, đáng buồn hơn khi với những thú vui bắt các loài động vật hoang dã làm vật nuôi, săn bắn, giết hại đông vật, với niềm tin không có căn cứ khoa học về các liều thuốc tiên từ chế phẩm của động vật, và những lợi nhuận trước mắt,... mà một số người đã thỏa 1 sức “Tận Diệt” các loài động vật, những cư dân góp phần không nhỏ cho sự cân bằng hệ sinh thái của trái đất. Các thống kê trong những năm gần đây đã chứng minh con người là nguyên nhân chính gây ra sự suy giảm số lượng của các loài động vật. Theo tài liệu Cục Bảo tồn đa dạng sinh học, Tổng Cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, nước ta có 21 nghìn loài động vật, được xếp hạng thứ tư trên thế giới về các loài linh trưởng và là nơi cư trú của bốn trong số 25 loài linh trưởng bị đe dọa tuyệt chủng cao nhất trên thế giới. Mặc dù vậy, sự tồn vong của các loài động, thực vật đang bị đe dọa ở mức nguy cấp. Sách đỏ Việt Nam năm 2007 đã thống kê được 882 loài động thực vật bị đe dọa nguy cấp tăng 161 loài so với gia đoạn năm 1992-2006. Theo công bố tại cuộc hội thảo do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức tại Vân Long, Ninh Bình cho thấy tình trạng buôn bán động, thực vật trái phép ngày tăng. Từ năm 1996 đến 2007, cả nước có hơn 14 nghìn vụ vi phạm về săn bắt, buôn bán động, thực vật hoang dã, tịch thu hơn 181 nghìn cá thể, với trọng lượng khoảng 635 tấn. Theo ước tính, số lượng động, thực vật hoang dã cung cấp cho thị trường Việt Nam mỗi năm khoảng 3.400 tấn, với hơn 1 triệu cá thể. Đó là những con số khổng lồ biết nói, chúng đánh một hồi chuông cảnh tỉnh cho chúng ta rằng, với tốc độ suy giảm nhanh chóng về số lượng động vật hoang dã như thế thì đây là vấn lớn và phức tạp mà Việt Nam và các quốc gia khác phải đối đầu. Xuất phát từ những vấn do thực tiễn công tác đặt ra, qua học tập, nghiên cứu tại trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, là một công chức công tác trong ngành Kiểm lâm, tâm nguyện của tôi là bảo vệ rừng, trong đó có các loài động vật rừng xử lý triệt để các hành vi xâm hại đến rừng, nhất là các hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát triển động vật rừng. Từ đó, tôi chọn đề tài là một vụ việc thực tế xảy ra trên địa bàn công tác với tình huống: “Xử lý vi phạm đối với hành vi nuôi nhốt trái phép động vật hoang dã trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Với mục tiêu phân tích sự việc 2 dưới góc độ các quy định về quản lý hành chính Nhà nước, trao đổi kinh nghiệm, đồng thời lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết công việc, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu dựa trên hồ sơ pháp lý của vụ việc đã xảy ra trước đó, thu thập tài liệu đã có, các văn bản luật, quy định của Chính Phủ, Bộ, Ngành có liên quan. Phạm vi nghiên cứu: Trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và bảo tồn tài nguyên sinh vật rừng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bố cục của tiểu luận gồm ba phần: - Phần thứ nhất: Lời nói đầu - Phần thứ hai: Nội dung tình huống 2.1 Mô tả tình huống 2.2 Xác định mục tiêu xử lý tình huống 2.3 Nguyên nhân xảy ra tình huống 2.4 Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống 2.5 Lập kế hoạch tổ chức phương án đã lựa chọn - Phần thứ ba: Kết luận và kiến nghị Do thời gian nghiên cứu hạn hẹp, kiến thức và kinh nghiệm công tác của bản thân còn nhiều hạn chế nên chắc chắn rằng việc phân tích và đề xuất hướng xử lý tình huống sẽ còn nhiều khiếm khuyết rất cần được sự góp ý, bổ sung từ phía các thầy cô giáo, đồng nghiệp. Sự góp ý, bổ sung là cơ sở, tiền đề, động lực giúp tôi có thêm điều kiện hoàn thiện bản thân nhằm tạo thêm hành trang quý báu cho tôi trong quá trình công tác về sau. Xin chân thành cảm ơn! Học viên Lê Hoàng Phương Thảo 3 Phần thứ hai NỘI DUNG TÌNH HUỐNG 2.1 Mô tả tình huống Hoàn cảnh ra đời Thủ đô Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích tự nhiên là 332.492 ha, với dân số khoảng 6,4 triệu người, bao gồm 30 quận, huyện, thị xã. Trong tổng diện tích tự nhiên của thành phố có gần 30.000 ha rừng và đất trống đồi núi trọc quy hoạch cho lâm nghiệp, chiếm 8,8% diện tích tự nhiên của thành phố. Tuy diện tích rừng và đất lâm nghiệp không lớn, song có vị trí, vai trò rất quan trọng, được coi như là lá phổi xanh phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái, làm đẹp cảnh quan cho thành phố. Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa nằm ở phía Tây Bắc của thành phố Hà Nội. Phía Bắc giáp thành phố Việt Trì của tỉnh Phú Thọ, ranh giới là con sông Hồng. Phía Nam giáp các huyện Lương Sơn và Kỳ Sơn của tỉnh Hoà Bình. Phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, ranh giới là con sông Đà. Phía Đông Bắc giáp sông Hồng, ngăn cách với tỉnh Vĩnh Phúc. Phía Đông Nam giáp thị xã Sơn Tây và một phần nhỏ của huyện Thạch Thất. Địa hình được chia ra làm ba vùng rõ rệt: vùng núi, vùng đồi gò, vùng đồng bằng ven sông. Vùng núi chiếm 47,5% diện tích, có các núi cao trên 700m, trong đó cao nhất là Tản Viên cao 1.296m, đỉnh Vua và Ngọc Hoa cao trên 1000m. Vùng đồng bằng lại được bao bọc và bồi đắp bởi hai con sông là sông Hồng và sông Đà nên đất đai rất phì nhiêu, màu mỡ. Huyện có hai hồ rất lớn là hồ Suối Hai và hồ Đồng Mô. Trên địa bàn huyện có vườn quốc gia Ba Vì. Ở ranh giới của huyện với tỉnh Phú Thọ có hai ngã ba sông là: ngã ba Trung Hà giữa sông Đà và sông Hồng (tại xã Phong Vân) và ngã ba Bạch Hạc giữa sông Hồng và sông Lô (tại các xã Tản Hồng và Phú Cường, đối diện với thành phố Việt Trì). Ba Vì nối liền với các tỉnh và thủ đô Hà Nội bằng các trục đường chính như: quốc lộ 32, tỉnh lộ 89A… và các tuyến đường thủy qua sông Hồng,sông Đà có tổng chiều dài 70 km. Với những lợi thế về giao thông 4 đường thủy, đường bộ, Ba Vì có điều kiện khá thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn hóa với bên ngoài, tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ thuật để phát triển kinh tế với cơ cấu đa dạng nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, công nghiệp. Vùng núi Ba Vì chiếm 42% diện tích toàn huyện, với trung tâm là ngọn núi Ba Vì cao 1.296 m, cùng hệ động thực vật phong phú, quý hiếm. Tập trung xung quanh núi là hàng trăm con suối, hàng chục các hồ lớn nhỏ khác nhau như: Ao Vua, Khoang Xanh, Thác Mơ, suối Tiên, hồ Suối Hai, đặc biệt suối khoáng nóng Thuần Mỹ có thể khai thác phục vụ du lịch dưỡng bệnh, nghỉ ngơi. Ngoài ra, Ba Vì còn có một loạt những di tích, địa danh đã đi vào lịch sử như khu căn cứ kháng chiến của tỉnh Sơn Tây, vùng rừng thông Đá Chông, khu tưởng niệm Bác Hồ và hàng loạt các đình, đền, chùa đã được xếp hạng (đình Tây Đằng được xếp hạng là một trong 12 di tích đặc biệt quan trọng). Hiện nay, hầu hết các điểm du lịch trên địa bàn huyện đã được đưa vào khai thác có hiệu quả. Diện tích rừng Ba Vì có giá trị lớn trong việc bảo vệ môi trường cảnh quan và phòng hộ đầu nguồn của thủ đô Hà Nội. Trên địa bàn huyện Ba Vì, du lịch sinh thái và du lịch tâm linh được đầu tư, phát triển, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ cảnh quan, môi trường và phát triển kinh tế của địa phương. Hiện nay, nhu cầu lập trại nuôi sinh sản, sinh trưởng động vật hoang dã trên địa bàn ngày càng cao, không những phục vụ nhu cầu về lợi nhuận kinh tế, mà một số gia đình còn xem đây là thú vui, chơi cảnh. Trên địa bàn huyện Ba Vì hiện nay có 17 trại đăng ký nuôi sinh sản, sinh trưởng động vật hoang dã thông thường như: Nai, Hươu sao, Heo rừng, Nhím... theo hướng dẫn của Công văn số 515/CKL-VPCITES ngày 14/5/2007 của Cục Kiểm lâm về việc đăng ký trại nuôi sinh sản, sinh trưởng động vật hoang dã thông thường. Mô tả tình huống Vào lúc 7 giờ 30 phút, ngày 10 tháng 05 năm 2015, chuông điện thoại của Tổ trưởng tổ kiểm lâm cơ động, Hạt kiểm lâm Ba Vì – thuộc Chi cục 5 Kiểm lâm Hà Nội reo lên. Từ đầu máy bên kia là giọng nói của một người đàn ông trung niên với thái độ nghiêm túc mang nội dung: “Tại nhà ông Nguyễn Văn Năm, Nhà số xxx, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì có nuôi, nhốt động vật hoang dã (loài: Mèo rừng), có 03 cá thể: 01 Mèo mẹ, 02 Mèo con”. Ngay lập tức, tổ trưởng tổ kiểm lâm cơ động đã hỏi tên, tuổi, năm sinh và nơi thường trú của người đã cung cấp thông tin. Sau lời cảm ơn chân tình, tổ trưởng tổ kiểm lâm cơ động đã báo cáo lãnh đạo để cùng nhau bàn bạc và nhận định mức độ tin cậy của nguồn tin. Song song đó cũng tiến hành thông báo, huy động, tập trung lực lượng nội bộ và các lực lượng chức năng khác như công an huyện Ba Vì, UBND thị trấn Tây Đằng để chuẩn bị vào cuộc xử lý tình huống. Vào lúc 9 giờ cùng ngày, Hạt Kiểm lâm Ba Vì, Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã thuộc Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội phối hợp với Công an huyện Ba Vì, UBND thị trấn Tây Đằng có mặt tại nhà ông Nguyễn Văn Năm để kiểm tra, xác minh tin báo. Tại thời điểm trên, qua kiểm tra sơ bộ, phát hiện có 03 cá thể Mèo rừng đang được nuôi nhốt, gồm 01 Mèo mẹ và 02 Mèo con, đều trong tình trạng sức khỏe tốt. Sau khi đối chiếu, nhận định loài thì đây thuộc loài Mèo rừng quý hiếm (tên khoa học là Prionailurus bengalensis, thuộc nhóm IB – Nghị định số 32/2006/NĐ-CP). Loài này được tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUNC) xếp vào loài rất nguy cấp (CR). Ước tính ở Việt Nam hiện nay có ít hơn 100 cá thể ngoài tự nhiên (CITES Việt Nam 2010) và theo các chuyên gia bảo tồn nhận định thì đến năm 2015 phân loài Mèo rừng Prionailurus bengalensis có thể biến mất nhanh hơn bất kỳ một loài mèo rừng nào khác (theo Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, tháng 3 năm 2011). Sau khi tiến hành kiểm tra, ông Năm đã không xuất trình được bất cứ giấy tờ nào chứng minh nguồn gốc của 03 cá thể Mèo rừng trên. Kết quả lấy lời khai, lập biên bản và tìm hiểu hoàn cảnh ban đầu như sau: Về nhân thân, hoàn cảnh và địa chỉ của đối tượng: 6 Ông Nguyễn Văn Năm, 40 tuổi, cư trú tại số nhà xxx – thị trấn Tây Đằng – huyện Ba Vì – TP Hà Nội. Nghề nghiệp: kinh doanh dịch vụ ăn uống. Chưa có tiền án, tiền sự, vi phạm pháp luật nói chung và luật Bảo vệ & phát triển rừng nói riêng. Về chủng loại, số lượng và khối lượng tang vật phát hiện, tạm giữ: 01 Mèo rừng mẹ trọng lượng 2kg, 02 mèo rừng con, mỗi con có trọng lượng 0,5kg. Theo lời khai của ông Năm, số cá thể Mèo rừng trên là do ông Năm đã mua lại của người em họ tại huyện Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh. Sau khi lấy lời khai, Đoàn kiểm tra tiến hành lập biên bản vi phạm về nuôi nhốt trái phép động vật hoang dã và đề nghị ông Năm giao lại 02 cá thể Mèo rừng đã nói trên cho cơ quan chức năng để lập hồ sơ xử lý và có biện pháp bảo tồn loài động vật hoang dã rất nguy cấp này. Ông Năm không đồng ý đề nghị trên vì ông cho rằng đây là con Mèo rừng ông đã mua lại của người em là dân tộc thiểu số, trong thời gian qua ông đã cho ăn và chăm sóc rất cẩn thận, được khoảng 05 tuần thì nó sinh ra 02 Mèo con. Nếu tịch thu 03 cá thể Mèo trên thì phải trả số tiền ông đã bỏ ra mua, công vận chuyển từ Hà Tĩnh về và công nuôi dưỡng, chăm sóc trong thời gian qua cho ông. Sau đấu tranh, đoàn kiểm tra thuyết phục và giải thích rõ việc làm của ông là vi phạm pháp luật về nuôi nhốt trái phép động vật hoang dã, loài nguy cấp, quý, hiếm thuộc nhóm IB và đề nghị ông giao nộp cho cơ quan chức năng để xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành. Lúc này ông Năm đã hiểu và đồng ý giao 03 cá thể Mèo cho cơ quan chức năng và ký vào biên bản vi phạm. Toàn bộ số cá thể Mèo được thống nhất giao lại cho Trung tâm cứu hộ Động vật hoang dã – Sở Nông nghiệp &PTNT Hà Nội chăm sóc, cứu hộ chờ xử lý. 2.2 Xác định mục tiêu xử lý tình huống Việc phân tích tình huống trên đây nhằm đạt được những mục tiêu sau: 7 Thứ nhất: Tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân nhận thức đầy đủ về pháp luật nhất là luật bảo vệ và phát triển rừng, luật bảo vệ môi trường, các văn bản quy phạm pháp luật về bảo tồn và phát triển động vật hoang dã, đặc biệt là các loài nguy cấp, quý, hiếm những loài có giá trị kinh tế cao nhằm quản lý bền vững tài nguyên động vật hoang dã ở nước ta; đồng thời tăng cường tính răn đe, giáo dục pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm. Thứ hai: Cần làm rõ mức độ sai phạm của ông Nguyễn Văn Năm về việc nuôi nhốt động vật hoang dã trái phép, đồng thời phải điều tra, xác minh người em họ mà ông Năm khai để làm rõ mức độ sai phạm về săn, bắt động vật hoang dã trái phép. Đảm bảo thực thi nghiêm minh các quy định của pháp luật trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản nhất là đối với động vật rừng. Xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật đa dạng sinh học với phương châm: đúng người, đúng tội, tránh oan sai, có lý, có tình. Thứ ba: Trong quá trình xử lý vi phạm, tang vật phải đảm bảo an toàn; động vật hoang dã sinh trưởng, phát triển tốt, đặc biệt ưu tiên phát triển nguồn gen tại khu vực tự nhiên chúng đang sinh sống và phát triển. Thứ tư: Thông qua giải quyết vụ việc trên có thể rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình giải quyết, xử lý vụ việc, tăng cường công tác phối hợp trong công tác quản lý động vật hoang dã giữa các địa phương, các ngành. Thấy rõ vai trò trách nhiệm, những mặt yếu kém của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, chính quyền địa phương trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ động vật rừng từ đó có phương hướng khắc phục. 2.3 Nguyên nhân xảy ra tình huống Bất kỳ một sự việc nào xảy ra trong đời sống xã hội cũng đều có nguyên nhân của nó. Việc phân tích nguyên nhân của tình huống này sẽ giúp cho chúng ta xây dựng được các phương án giải quyết có hiệu quả, mang tính khoa học và đúng pháp luật. 8 Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là vấn đề quản lý nhà nước hiện nay. Lực lượng Kiểm lâm là lực lượng chính để quản lý bảo vệ tài nguyên rừng. Tuy nhiên, lực lượng Kiểm lâm hiện nay được biên chế quá mỏng, thiếu phương tiện nên không thể kiểm soát chặt chẽ diện tích tài nguyên rừng lớn như vậy. Do đó, hiện nay tình trạng săn bắn, buôn bán, nuôi nhốt động vật hoang dã vẫn thường xuyên diễn ra. Thực tế cho thấy, cần phải có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp với lực lượng Kiểm lâm địa phương để quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng triệt để, đây là vấn đề then chốt cần được quan tâm, đẩy mạnh và duy trì thường xuyên mới có thể từng bước ngăn chặn được nạn săn bắt, buôn bán và nuôi nhốt động vật hoang dã trái phép. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật của nước ta còn trùng lặp, nhiều sơ hở, thậm chí còn mâu thuẫn, làm cho mỗi người dân khó hiểu, dễ gây nên tình trạng không thống nhất giữa các ngành, các địa phương. Tuyên truyền, giáo dục Pháp luật ở nước ta còn nhiều vấn đề nan giải, người dân chưa nắm bắt được những quy định hiện hành về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã, cách giải quyết vụ việc đôi lúc còn tùy tiện, theo cảm tính cá nhân. Từ những sự việc đã xảy ra trước đó (Gấu, Vọoc, Khỉ, Rùa...) các cơ quan chức năng chưa xử lý thích đáng, răn đe tới toàn xã hội để dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật. Nhu cầu xã hội ngày càng cao, việc sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên đang trở nên thịnh hành đối với một bộ phận không nhỏ của những người có tiền. Con người tìm mọi cách để khai thác đến tận diệt tài nguyên rừng nhằm phục vụ những nhu cầu đó. Nhiều loài thực vật, động vật rừng đang ngày càng trở nên cạn kiệt. Mặt khác công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa thực hiện tốt và đạt hiệu quả chưa cao, nhất là Luật Bảo vệ & Phát triển rừng và những quy định của Nhà nước về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã chưa được phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân, từ đó nhận thức của đại bộ phận nhân 9 dân còn kém, chưa thấy được lợi ích của tài nguyên rừng là vô giá, là cần thiết cho sự sống, nên cần thiết phải bảo tồn và phát triển. 2.4 Hậu quả Vụ việc nuôi nhốt động vật hoang dã trái phép trên đây là một vụ việc rất điển hình đã xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội, nếu vi phạm xử lý không đúng quy định của pháp luật, thì: - Tình trạng nuôi nhốt, buôn bán trái phép động vật hoang dã xảy ra ngày càng phức tạp. Không thể bảo tồn đa dạng sinh học, làm phá vỡ cân bằng sinh thái, thậm chí có thể đe dọa đến tính mạng, tài sản của nhân dân, làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước. - Sẽ trở thành tiền lệ xấu, nhiều cá nhân lợi dụng những kẻ hở của pháp luật để khuyến khích việc nuôi nhốt động vật hoang dã trái phép, làm gián tiếp thúc đẩy hoạt động khai thác thú rừng, gây khó khăn cho cơ quan quản lý. - Không có tác dụng răn đe, giáo dục các đối tượng vi phạm, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, gây ra dư luận không tốt, bất bình trong nhân dân, dẫn đến việc thực thi pháp luật trong cộng đồng dân cư bị hạn chế. - Ngoài ra còn gây thiệt hại về mặt kinh tế cho gia đình của đối tượng khi phải chịu xử phạt vi phạm hành chính với một khoản tiền rất lớn. Đối với cơ quan chức năng phải mất thêm một khoản chi phí để xử phạt, chăm sóc nuôi dưỡng số Mèo rừng là tang vật vi phạm. - Xuất phát từ hậu quả vật chất của gia đình đối tượng, rất có thể sẽ làm nảy sinh tâm lý “hận thù” và từ đó sẽ tạo nên mâu thuẫn, mối quan hệ đối kháng giữa cá nhân đối với cơ quan quản lý lâm nghiệp trên địa bàn. Đồng thời cũng xuất phát từ sự kiện đó sẽ gây nên sự xáo trộn đến đời sống tinh thần cho gia đình và các thành viên trong cộng đồng. 2.5 Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống 10 Để xây dựng được các phương án giải quyết tình huống trên cần căn cứ vào những quy định hiện hành của pháp luật. Tại thời điểm xảy ra vụ việc, các văn bản Luật được áp dụng bao gồm: - - Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; - Luật đa dạng sinh học ngày 13/11/2008; - Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Nghị định 157/2013/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; - Nghị định số 32/NĐ-CP ngày 30/3/2006 Quy định về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; - Nghị định số 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; Thông tư 173/2013/TT-BTC ngày 20/11/2013 của Bộ Tài chính vê việc hướng dẫn thực hiện một số nội dung về quản lý, xử lý tang vật, phương tiện vi - phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính; Thông tư 90/2008/TT-BNN ngày 28/8/2008 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn về việc hướng dẫn xử lý tang vật là động vật rừng sau khi xử lý tịch thu. Mục tiêu xử lý tình huống là làm rõ hành vi vi phạm pháp luật của ông Nguyễn Văn Năm, từ đó có biện pháp xử lý đúng người, đúng tội, xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Góp phần hạn chế những vi phạm trong quản lý, bảo vệ rừng, đặc biệt trong bảo tồn động vật hoang dã. Kết hợp xử lý vi phạm với công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với đối tượng vi phạm, rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình xử lý các vụ việc tương tự. Để có giải pháp xử lý tình huống vi phạm trên, cần phải xây dựng các phương án xử lý sao cho hiệu quả nhất. Sau khi xem xét tính chất và mức độ 11 vi phạm của ông Nguyễn Văn Năm, căn cứ vào hình thức và mức xử phạt cho từng hành vi vi phạm; Căn cứ bảng tính giá xử lý tang vật vi phạm hành chính của Hội đồng định giá huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ngày 15 tháng 5 năm 2015, xét thấy ông Nguyễn Văn Năm tuy có vi phạm Pháp luật về hành vi nuôi nhốt động vật hoang dã nhưng có thái độ biết hợp tác và giao nộp lại tang vật vi phạm, khai báo rõ ràng, không che dấu hành vi vi phạm của bản thân, giúp cho các cơ quan chức năng thuận lợi trong công tác điều tra, xác minh. Chúng tôi đưa ra 03 phương án xử lý như sau: Phương án 1: 1. Hình thức phạt chính: Căn cứ điểm d, khoản 6, điều 21 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ: Phạt tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) về hành vi nuôi nhốt động vật rừng thuộc loài nguy cấp, quý, hiếm nhóm IB trái quy định của Pháp luật. 2. Hình thức phạt bổ sung: Căn cứ khoản 11, điều 21 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ: Tịch thu toàn bộ tang vật vi phạm, cụ thể: 03 cá thể Mèo rừng (01 cá thể Mèo mẹ, 02 cá thể Mèo con). Tang vật sau khi tịch thu giao cho Hạt kiểm lâm Ba Vì và Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã tham mưu cho UBND huyện Ba Vì thành lập Đoàn liên ngành gồm: Hạt Kiểm lâm Ba Vì, Công an huyện, Phòng Nông nghiệp &PTNT huyện, Trạm thú y huyện, Đảng ủy, UBND thị trấn Tây Đằng, Hạt Kiểm lâm Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh, UBND huyện Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh tiến hành thả 03 (ba) cá thể Mèo rừng trên về tự nhiên nơi chúng sinh sống (xã Cẩm Trung, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh) để bảo tồn nguồn gen động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm này. Ưu điểm: Xử lý nghiêm minh đối với đối tượng vi phạm về nuôi nhốt động vật hoang dã quý hiếm; nâng cao tính răn đe, giáo dục, đồng thời tuyên truyền cho nhân dân trên địa bàn hiểu hơn về việc bảo tồn các loài động vật 12 hoang dã quý hiếm; bảo tồn được nguồn gen của loài Mèo rừng cho khu vực tự nhiên của Việt Nam. Khuyết điểm: Vận chuyển từ thị trấn Ba Vì về tỉnh Hà Tĩnh sẽ gặp rất nhiều khó khăn, quá trình vận chuyển yêu cầu rất nhiều yếu tố quản lý, bảo vệ khác như chuồng nuôi nhốt, thức ăn đảm bảo trong suốt quá trình vận chuyển cả 03 cá thể. Vì hai cá thể Mèo rừng con mới sinh nên sức khỏe còn yếu, nếu thả về rừng tự nhiên chúng sẽ dễ bị chết, hiệu quả công tác bảo tồn không cao. Phương án 2: 1. Hình thức phạt chính - Căn cứ điểm d, khoản 6, điều 21 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ: Phạt tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) về hành vi nuôi nhốt động vật rừng thuộc loài nguy cấp, quý, hiếm nhóm IB trái quy định của Pháp luật. 2. Hình thức phạt bổ sung Căn cứ khoản 11, điều 21 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ: Tịch thu toàn bộ tang vật vi phạm, cụ thể: 03 cá thể Mèo rừng (01 cá thể Mèo mẹ, 02 cá thể Mèo con). Tang vật sau khi tịch thu: Giao cho cho Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã huộc Sở Nông nghiệp &PTNT Hà Nội thực hiện công tác cứu hộ, chăm sóc, nuôi dưỡng do Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã có đủ các điều kiện về chuồng, trại, thức ăn và chuyên viên cứu hộ đảm bảo trong thời gian tịch thu chờ xử lý 03 cá thể Mèo rừng được chăm sóc tốt. Ưu điểm: Xử lý nghiêm minh đối với đối tượng vi phạm về nuôi nhốt động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm. Nâng cao tính răn đe, giáo dục, đồng thời tuyên truyền cho nhân dân trên địa bàn hiểu hơn về việc bảo tồn các loại động vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm; hiệu quả bảo tồn nguồn gen động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm nhóm IB cao. 13 Khuyết điểm: Làm giảm đi nguồn gen động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm (loài Mèo rừng) cho khu vực rừng tự nhiên trên thế giới nói chung và cho Việt Nam nói riêng. Phương án 3: 1. Hình thức phạt chính - Căn cứ điểm d, khoản 6, điều 21 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ: Phạt tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) về hành vi nuôi nhốt động vật rừng thuộc loài nguy cấp, quý, hiếm nhóm IB trái quy định của Pháp luật. 2. Hình thức phạt bổ sung Căn cứ khoản 11, điều 21 Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ: Tịch thu toàn bộ tang vật vi phạm, cụ thể: 03cá thể Mèo rừng (01 cá thể Mèo mẹ, 02cá thể Mèo con). Tang vật sau khi tịch thu giao cho Hạt Kiểm lâm Ba Vì tham mưu cho UBND huyện Ba Vì thành lập đoàn liên ngành gồm: Hạt Kiểm lâm Ba Vì, Phòng Tài chính kế hoạch huyện, Phòng kinh tế huyện, Trạm thú y huyện tổ chức bán đấu giá 03 cá thể Mèo rừng cho tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc tốt. Số tiền thu được nộp về ngân sách Nhà nước. Ưu điểm: Xử lý nghiêm minh đối với đối tượng vi phạm về nuôi nhốt động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm; tăng thu cho ngân sách nhà nước. Khuyết điểm: Làm giảm đi nguồn gen động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm (loài Mèo rừng) cho khu vực rừng tự nhiên trên thế giới nói chung và cho Việt Nam nói riêng. Tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện chăm sóc tốt cần phải được cấp phép và có sự quản lý của cơ quan Nhà nước; do đó việc tìm được tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện chăm sóc tốt sẵn sàng bỏ chi phí để mua đấu giá 03 cá thể mèo trên là rất khó. Hơn thế nữa, việc bán đấu giá cần nhiều thời gian và chi phí để tổ chức. 3.3 Lựa chọn phương án xử lý 14 Sau khi đưa ra 03 phương án xử lý, tác giả chọn phương án 2 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có nhiều ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm. Với phương án 2 vừa đảm bảo được tính pháp lý xã hội chủ nghĩa, xử lý đúng người, đúng tội, hợp tình, hợp lý; đồng thời tuyên truyền cho nhân dân trên địa bàn hiểu hơn về việc bảo tồn các loại động vật hoang dã quý hiếm, tính răn đe, giáo dục cao; nâng cao hiệu quả bảo tồn nguồn gen động vật nguy cấp, quý, hiếm (loài Mèo rừng). 15 3.4 Xây dựng tổ chức thực hiện các phương án Với phương án 2, xây dựng và tổ chức thực hiện phương án gồm những nội dung sau: STT 1 2 3 4 5 Nội dung công việc Lập biên bản về vi phạm hành chính Tạm giữ tang vật vi phạm Xác định thẩm quyền xử phạt và chuyển hồ sơ vụ việc lên cấp có thẩm quyền xử phạt Ra quyết định xử phạt Thủ tục phạt tiền và nơi nộp tiền phạt 16 Trách nhiệm của cá tổ chức và cá nhân có liên quan: - Hạt Kiểm lâm Ba Vì: Sau khi phát hiện vụ vi phạm, Hạt Kiểm lâm lập biên bản: + Trong biên bản ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ tên, chức vụ người lập biên bản; họ tên, địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; tình trạng tang vật bị tạm giữ, lời khai của người vi phạm dưới sự chứng kiến của UBND huyện Ba Vì. + Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc và có văn bản báo cáo vụ việc ngay khi phát hiện hành vi vi phạm đến Chi cục Kiểm lâm Hà Nội. - Chi cục Kiểm lâm Hà Nội: + Do vượt quá thẩm quyền xử phạt của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Chủ tịch UBND huyện Ba Vì và Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Hà Nội (được quy định tại Điều 26 Điều 27 của Nghị định 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính Phủ) nên Chi cục Kiểm lâm Hà Nội có trách nhiệm chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (Người có thẩm quyền xử phạt trong tình huống này là Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội). Đồng thời có Công văn báo cáo về vụ việc lên chủ tịch UBND thành phố Hà Nội để nhanh chóng giải quyết do tang vật là loài động vật nguy cấp, quý hiếm thuộc nhóm IB vẫn còn sống. + Tham mưu cho UBND thành phố Hà Nội trong việc xử lý vụ vi phạm và xử lý tang vật sau tịch thu. + Trong thời gian chủ tịch UBND thành phố Hà Nội ra quyết định xử phạt, Chi cục Trưởng Chi cục Kiểm lâm Hà Nội có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ tang vật (03 cá thể Mèo rừng) và lập biên bản tạm giữ, có sự đồng ý bằng văn bản của ông Nguyễn Văn Năm; giao cho Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã để bảo vệ, chăm sóc, đảm bảo cá thể Mèo mẹ khỏe mạnh, 02 cá thể Mèo con khỏe mạnh, sinh trưởng tốt. - Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội: + Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính hoặc ủy quyền cho cấp phó bằng văn bản đối với ông Nguyễn Văn Năm (được quy định tại Điều 38 Luật xử lý vi phạm hành 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan