Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận picc và cisg áp dụng picc trong việc bổ sung, giải thích cho các điề...

Tài liệu Tiểu luận picc và cisg áp dụng picc trong việc bổ sung, giải thích cho các điều khoản của cisg

.PDF
14
1
87

Mô tả:

TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐẠI HỌC UEH TRƯỜNG KINH TẾ, LUẬT VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC KHOA LUẬT ĐỀ TÀI: PICC VÀ CISG - ÁP DUNG PICC TRONG VIỆC BỔ SUNG, GIẢI THÍCH CHO CÁC ĐIỀU KHOẢN CỦA CISG 1 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thương mại quốc tế ngày một mở rộng, các quy tắc điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế ngày càng trở nên quan trọng hơn. Với sự khác biệt về phong tục, tập quán, pháp luật giữa các quốc gia, nhiều doanh nghiệp khi mở rộng phạm vi phát triển ra nước ngoài gặp phải nhiều trở ngại, đặc biệt là những rào cản về mặt pháp lý. Để giải quyết những mối lo ngại về sự khác biệt về hệ thống luật pháp giữa các quốc gia, nhiều nguyên tắc và Điều ước, Công ước quốc tế đã ra đời nhằm tạo ra một hệ thống pháp luật thống nhất, hài hòa những sự khác biệt của các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới. Và hiện nay, hai nền tảng pháp lý được xem là quan trọng và phát triển nhất là Bộ nguyên tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế (CISG). Đây là những công cụ pháp luật được hình thành dựa trên nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm hài hòa và hiện đại hóa luật hợp đồng quốc tế. Song, qua thời gian hình thành và phát triển, nhiều luật gia trên thế giới đã nhận thấy sự hài hòa, thống nhất giữa chính PICC và CISG. Do đó, nội dung của bài báo cáo là để làm rõ hơn mối quan hệ giữa PICC và CISG, đặc biệt là sự hỗ trợ của PICC trong việc giải thích, bổ sung cho CISG. 2 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 1. Tổng quan về Công ước Viên 1980 Giới thiệu Công ước Viên 1980 về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế (gọi tắt là CISG) 1.1. được soạn thảo và phát triển bởi Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL)1 với mục tiêu hướng tới một nguồn luật chung trong tạo lập và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trên thế giới. CISG còn được gọi là Công ước Viên vì nó được ký ban đầu tại Viên vào năm 1988. Mục tiêu mà các nhà làm luật khi soạn thảo CISG là xây dựng một nền tảng pháp lý thống nhất từ những nguyên tắc chung trong thương mại quốc tế, hướng đến sự hài hòa giữa nhiều hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, là công cụ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại quốc tế, củng cố hành lang pháp lý cho các thương nhân khi tiến hành giao kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại giữa các quốc gia. CISG được nhìn nhận là một thành tựu to lớn của UNCITRAL, với 94 quốc gia thành viên (tính đến năm 2020) đến từ “mọi khu vực địa lý, mọi giai đoạn phát triển kinh tế và mọi hệ thống luật pháp, xã hội và kinh tế”, trong đó bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Đức, Pháp... CISG được coi là khung pháp lý đồng nhất, hiện đại về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có sức ảnh hưởng rộng nhất trên toàn thế giới hiện nay, gần ⅔ số lượng hợp đồng quốc tế được điều chỉnh bởi CISG. CISG là một cam kết quốc tế giữa các quốc gia. Thế nên, CISG có hiệu lực pháp lý cao hơn luật quốc gia đối với bất kỳ giao dịch quốc tế nào giữa các quốc gia khi ký kết tham gia Công ước. Điều này đồng nghĩa, so với luật của các quốc gia thành viên, CISG được ưu tiên áp dụng để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Bởi vì tính ràng buộc này mà rất nhiều quốc gia đã tỏ ra e ngại khi ký kết CISG. Và để thu hút các quốc gia tham gia hiệp ước, đã có một vài thỏa hiệp được xây dựng thông qua các điều khoản về phạm vi áp dụng của CISG. Theo đó, dựa trên nguyên tắc tự do hợp 1 “Giới thiệu chung về Công ước Viên, Trung tâm WTO. https://trungtamwto.vn/chu_de_khac/304-gioi-thieu-chung-ve-cong-uoc-vien/1 3 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ đồng, các quốc gia thành viên hoàn toàn có quyền bảo lưu một phần hoặc toàn bộ các điều khoản được quy định trong CISG. 1.2. Phạm vi điều chỉnh Đầu tiên, một điều kiện tiên quyết để một hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của CISG thì hợp đồng đó phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tính chất quốc tế được CISG định nghĩa là việc các bên tham gia trong hợp đồng phải có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau. Thông thường, tính chất quốc tế được nhìn nhận là sự chuyển dịch hàng hóa xuyên biên giới giữa các quốc gia, tuy nhiên, với CISG, không quy định tiêu chí phải có sự chuyển dịch hàng hóa qua biên giới mà xem xét đến địa điểm kinh doanh của các bên, không lưu ý đến nơi giao kết hợp đồng, hay nơi thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, phạm vi điều chỉnh của CISG tương đối hẹp, cụ thể, hợp đồng phải là hợp đồng mua bán hàng hóa, không thể là các hợp đồng dịch vụ, hoặc mua bán hàng hóa không vì mục đích thương mại, đấu giá,…. (theo Điều 2, khoản 2 Điều 3 và Điều 5 CISG). Tiếp đến, căn cứ theo khoản 1 Điều 1 của CISG về những trường hợp thuộc phạm vi điều chỉnh của CISG, bao gồm: “a.Khi các Quốc gia này là các Quốc gia thành viên của Công ước; b.Khi các quy tắc tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một Quốc gia thành viên Công ước.”2 Trong trường hợp nếu các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau, và các quốc gia này là thành viên của CISG thì Công ước sẽ mặc nhiên điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa trên. Bên cạnh đó, vì CISG có hiệu lực pháp lý cao hơn so với luật quốc gia, nên ngay cả khi các bên tham gia không có trụ sở kinh doanh tại quốc gia là thành viên của Công ước nhưng có thỏa thuận áp dụng luật của quốc gia mà quốc gia này là thành viên của CISG thì CISG vẫn được ưu tiên áp dụng. Mặt khác, CISG còn được áp dụng khi các quy tắc tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một Quốc gia thành viên Công ước. Công ước Viên, mặc dù là sự cam kết giữa các quốc gia, nhưng vẫn đề cao tính pháp lý của sự thỏa thuận giữa người bán và người mua lên trên hết. Cụ thể, theo Điều 6 CISG, quy định rằng các bên có quyền loại trừ một phần hoặc toàn bộ các điều 2 Khoản 1 Điều 1 CISG 4 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ khoản của Công ước, hoặc sửa đổi hiệu lực của bất kì điều khoản nào của Công ước. Quyền loại trừ sự áp dụng của Công ước cho hợp đồng của các bên là một quyền được thừa nhận trong Tư pháp quốc tế, thể hiện nguyên tắc tự do hợp đồng. Do đó, cho dù các bên có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia là thành viên của Công ước thì vẫn có quyền được loại trừ sự điều chỉnh của Công ước. Thông thường, việc lựa chọn loại trừ áp dụng CISG là để các bên có thể thỏa thuận áp dụng luật quốc gia, bởi lẽ, mỗi bên đều quen thuộc với luật bán hàng nội địa của riêng mình và mong muốn hợp đồng của họ được điều chỉnh bởi luật nội địa. Có hai cách để loại trừ việc áp dụng CISG. Thứ nhất, các bên có thể lựa chọn áp dụng luật của một nước không phải thành viên của Công ước. Thứ hai, vì CISG có tính chất pháp lý vượt lên trên luật quốc gia nên vẫn được ưu tiên áp dụng khi giải quyết tranh chấp, do đó, nếu không muốn chịu sự điều chỉnh của CISG, các bên cần quy định cụ thể về việc loại bỏ sự áp dụng của CISG, chẳng hạn, hợp đồng cần ghi rõ “Luật của quốc gia sẽ được sử dụng là luật của hợp đồng và Công ước Viên cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ không được áp dụng”, nếu không CISG vẫn được áp dụng. Mặt khác, trong trường hợp các bên thỏa thuận áp dụng luật của nước là thành viên của Công ước nhưng quốc gia này có bảo lưu một phần hoặc toàn bộ các điều khoản của CISG thì tùy vào từng trường hợp cụ thể mà phạm vi áp dụng của CISG sẽ khác nhau. 2. Tổng quan về Bộ quy tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) 2.1. Giới thiệu Bộ nguyên tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) do Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế (UNIDROIT) soạn thảo và ban hành năm 1994, được sửa đổi và bổ sung vào các năm 2004, 2010, 2016. Đây là văn bản tập hợp những nguyên tắc pháp lý cơ bản phản ánh những khái niệm đã được công nhận ở phần lớn các hệ thống pháp luật trên thế giới. Khi soạn thảo PICC, mục đích của những nhà sáng lập không chỉ dừng lại ở việc xây dựng một hệ thống hóa các nguyên tắc hợp đồng phổ biến ở đa số các quốc gia, mà trên hết là để hướng tới một cách giải quyết công bằng chung, có nhiều tiện ích nhất cho cộng đồng thương mại quốc tế, dù được nhìn dưới một góc độ của bất cứ hệ 5 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ thống luật pháp, kinh tế hay chính trị của bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Mục đích này được thể hiện khá rõ ở hai mặt hình thức và nội dung của PICC. Về hình thức, phong cách soạn thảo của PICC giống với hệ thống Civil Law hơn là Common Law. PICC sử dụng ngôn ngữ ngắn gọn và dễ hiểu để những người không phải là luật sư cũng có thể hiểu được và cố tình tránh thuật ngữ đặc biệt đối với bất kỳ hệ thống pháp luật nhất định nào, do đó tạo ra một ngôn ngữ pháp lý được sử dụng và hiểu thống nhất trên toàn thế giới. Về nội dung, PICC bao gồm các nguyên tắc về hợp đồng được thừa nhận rộng rãi trên thế giới, thể hiện sự hài hòa giữa nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Bên cạnh đó, PICC được xây dựng với các điều khoản rất linh hoạt, xoay quanh nguyên tắc thiện chí, trung thực và những tiêu chuẩn cư xử đúng mực. Tóm lại, đây là một bộ nguyên tắc mang tính mềm dẻo, không có tính ràng buộc, có thể linh hoạt trong việc áp dụng, thể hiện sự hài hòa của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. 2.2. Phạm vi điều chỉnh Mục tiêu chính của các nguyên tắc PICC là thiết lập một khuôn thổ thống nhất cho các hợp đồng thương mại quốc tế và đảm bảo rằng các hợp đồng thương mại quốc tế này có tính thực tiễn, được giải thích và áp dụng ở nhiều quốc gia khác nhau nhằm khuyến khích sự tuân thủ một cách thiện chí và công bằng trong các quan hệ hợp đồng quốc tế. PICC trình bày những quy định chung cho các hợp đồng thương mại quốc tế. Thế nên, có thể hiểu rằng, PICC có thể áp dụng với tất cả các hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy nhiên, vì Bộ nguyên tắc PICC không mang tính ràng buộc, thế nên, không phải tất cả các hợp đồng thương mại quốc tế đều chịu sự điều chỉnh của PICC. PICC áp dụng các quy tắc chung về thương mại quốc tế khi các bên đồng ý để hợp đồng của họ được điều chỉnh bởi các nguyên tắc đó. Điều này dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng của PICC. Nguyên tắc tự do hợp đồng là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế. Theo đó, các bên có toàn quyền tự do lựa chọn đối tác, lựa chọn nguồn luật áp dụng để điều chỉnh hợp đồng cũng như tự do thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng. Do đó, với PICC, các bên hoàn toàn có 6 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ quyền tự do lựa chọn có áp dụng PICC như một nguồn luật chính để điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế của họ. Trong trường hợp các bên thỏa thuận áp dụng PICC như một nguồn luật để bổ sung, giải thích cho các điều khoản trong hợp đồng, các điều khoản của luật điều chỉnh, các bên của hợp đồng có thể đưa bất kỳ văn bản hoặc điều khoản nào của PICC vào hợp đồng. Các bên có thể chọn kết hợp một số hoặc tất cả các điều khoản của PICC, sao cho nội dung các điều khoản PICC đó không trái với nội dung luật điều chỉnh. Nếu ngược lại, việc áp dụng PICC có thể bị coi là vi phạm pháp luật. Các nguyên tắc này cũng có thể được áp dụng khi các bên không chọn một luật cụ thể để điều chỉnh hợp đồng của họ và có thể được sử dụng để giải thích hoặc bổ sung các văn bản luật quốc tế chung khác và tương tự như vậy trong việc giải thích hoặc bổ sung luật quốc gia. Bên cạnh đó, Hội đồng Trọng tài có thể áp dụng PICC trong trường hợp các bên không lựa chọn được luật áp dụng hoặc Trọng tài lựa chọn áp dụng PICC để giải thích, bổ sung các điều khoản chưa rõ ràng của luật điều chỉnh hợp đồng. Các nguyên tắc trong PICC ngày càng được Hội đồng Trọng tài nhắc đến nhiều hơn khi giải quyết các tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên, với tư cách là một công cụ không mang tính ràng buộc của “luật mềm”, PICC có thể đóng nhiều vai trò khác nhau, tùy vào từng trường hợp, nếu PICC được sử dụng như “những quy tắc của luật” để điều chỉnh quan hệ hợp đồng, có được kết hợp với các điều khoản của hợp đồng được điều chỉnh bởi nội luật hoặc điều ước quốc tế mà các bên thỏa thuận áp dụng. Hoặc PICC cũng có thể đóng vai trò như một phương tiện để giải thích, bổ sung cho nguồn luật đang điều chỉnh hợp đồng. Bên cạnh đó, ngoài được thỏa thuận rõ ràng hoặc ngầm hiểu giữa các bên trong hợp đồng, PICC còn có thể được Hội đồng Trọng tài đưa vào để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA PICC VÀ CISG – ÁP DỤNG PICC ĐỂ BỔ SUNG, GIẢI THÍCH CHO CISG 1. Sự khác biệt giữa PICC và CISG PICC và CISG đều là những nền tảng pháp lý được xây dựng dựa trên nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm hài hòa và hiện đại hóa luật thương mại quốc tế. Cả PICC và 7 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CISG đều đề cập đến các hợp đồng quốc tế. Tuy nhiên, lại có sự khác biệt trong việc định nghĩa về tính quốc tế giữa chúng. Tính quốc tế của các hợp đồng theo CISG được xác định theo một tiêu chí tương đối chủ quan, tùy thuộc vào việc các bên có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia khác nhau. Ngược lại, PICC không đề cập đến định nghĩa về tính quốc tế. Một trong số những nhà soạn thảo PICC đã lập luận rằng, việc PICC không quy định cụ thể về tính quốc tế là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ, xuất phát từ bản chất không mang tính ràng buộc, là một nguồn luật mềm, được áp dụng khi các bên có sự thỏa thuận trong hợp đồng do đó, nếu quy định cụ thể về tính quốc tế sẽ gây cản trở các bên khi thỏa thuận áp dụng PICC. Ngoài ra, trong số các hợp đồng được coi là quốc tế, sự khác biệt đáng kể đầu tiên giữa CISG và PICC đề cập đến phạm vi áp dụng cơ bản của chúng. Như đã trình bày ở trên, phạm vi áp dụng của CISG chỉ giới hạn trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Còn với PICC, phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, không chỉ bao gồm hợp đồng mua bán hàng hóa mà còn bao gồm bất kỳ loại hợp đồng thương mại quốc tế nào. Về cơ bản, PICC không cấu thành luật, không phải là một văn bản pháp luật do không được ký kết bởi Chính phủ, PICC chỉ là văn bản tập hợp những nguyên tắc pháp lý cơ bản phản ánh những khái niệm đã được công nhận ở phần lớn các hệ thống pháp luật trên thế giới. Nhưng với CISG, đây là một văn bản pháp luật chính thức, được thông qua và ký kết bởi các nước thành viên , là một phần của luật quốc gia và có giá trị pháp lý cao hơn so với luật quốc gia. Ngày nay, các nguyên tắc trong PICC được nhiều luật gia nhìn nhận là một “ công cụ hài hòa pháp luật không mang tính ràng buộc”, là một nguồn "luật mềm" bởi vì chúng không liên quan đến Chính phủ, không phải là công cụ ràng buộc và do đó, việc chấp nhận các nguyên tắc này phụ thuộc hoàn toàn vào sự thỏa thuận của các bên khi soạn thảo và ký kết hợp đồng. PICC được áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng thương mại quốc tế trong khi phạm vi áp dụng của CISG chỉ giới hạn trong các hợp đồng thương mại quốc tế mua bán hàng hóa. Sự khác biệt quan trọng giữa PICC và CISG là sự ràng buộc trong việc áp dụng, CISG có thể được coi là một công cụ ràng buộc quan trọng trong lĩnh vực luật thương mại xuyên quốc gia và có hiệu lực pháp lý cao hơn so với luật quốc gia, trong khi PICC không phải là điều khoản bắt buộc, không gắn liền 8 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ với luật quốc gia. Mặt khác, CISG có khá nhiều vấn đề pháp lý chưa được quy định, khi đó luật quốc gia thành viên sẽ là luật áp dụng bổ sung cho những vấn đề CISG không điều chỉnh. Còn với PICC, các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận áp dụng PICC là nguồn luật chính để điều chỉnh hợp đồng hoặc một nguồn luật bổ sung, giải thích cho luật điều chỉnh hợp đồng. 2. Áp dụng PICC để bổ sung, giải thích cho CISG Không thể phủ nhận, CISG là một nền tảng pháp luật tương đối thành công. Theo một thống kê, có ít nhất 3000 vụ tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong đó tòa án và trọng tài áp dụng CISG để giải quyết. Tuy nhiên, bên cạnh sự thành công, các luật gia thế giới cho rằng hiện nay CISG đang có nhiều lỗ hổng pháp lý. Theo đó, vì theo đuổi sự hài hòa giữa các hệ thống luật trên thế giới, rất nhiều vấn đề pháp lý không được CISG quy định hoặc có quy định nhưng không cụ thể. Và để giải quyết vấn đề trên tại khoản 2 Điều 7 của CISG quy định rằng: “Các vấn đề liên quan đến đối tượng điều chỉnh của Công ước này mà không quy định thẳng trong Công ước thì sẽ được giải quyết chiếu theo các nguyên tắc chung mà từ đó Công ước được hình thành hoặc nếu không có các nguyên tắc này, thì chiếu theo luật được áp dụng theo quy phạm của tư pháp quốc tế.”3 Chẳng hạn, về các vấn đề pháp lý liên quan đến bồi thường thiệt hại, trong trường hợp một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có dấu hiệu bị vi phạm, cần các biện pháp khắc phục thiệt hại. Tuy nhiên, CISG chỉ quy định một khung pháp lý cơ bản về bồi thường thiệt hại, theo đó, về phạm vi thiệt hại được đền bù, CISG chỉ quy định là “những thiệt hại không vượt quá tổn thất mà bên vi phạm hợp đồng đã dự đoán hoặc bắt buộc phải dự đoán được…”, trong khi đó, PICC lại có những quy định cụ thể về vấn đề trên, cụ thể, tại Điều 7.4.2 quy định nguyên tắc bồi thường toàn bộ, bao gồm cả những thiệt hại vật chất (tổn thất và lợi ích bị mất đi) và cả những thiệt hại phi tiền tệ (những thương tổn về thể chất, tinh thần). CISG không có quy định cụ thể về loại thiệt 3 Khoản 2 Điều 7 CISG 9 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ hại này. Bên cạnh đó, tại Điều 5 của Công ước còn quy định loại trừ việc áp dụng Công ước cho những thiệt hại do người chết hoặc bị thương. Hay về đơn vị tiền tệ để xác định chi phí bồi thường thiệt hại, CISG không có điều khoản quy định về đồng tiền dùng để xác định chi phí trên, tuy nhiên, trong PICC có điều 7.4.12 quy định về đồng tiền thanh toán thiệt hại như sau: “Thiệt hại được tính bằng đồng tiền quy định trong điều khoản về nghĩa vụ thanh toán, hoặc bằng đồng tiền tại nơi thiệt hại phát sinh tùy theo đồng tiền nào thích hợp nhất”. 4 Qua đó, có thể thấy, về các vấn đề xoay quanh đến vấn đề bồi thường thiệt hại, CISG chỉ quy định khung pháp lý cơ bản để nhận định và giải quyết. Vấn đề về bồi thường thiệt hại là một vấn đề pháp lý quan trọng, nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của một bên. Thế nên, việc Công ước không quy định một cách cụ thể đã gây khó khăn nhất định đối với bên bị thiệt hại và cả Tòa án hay Trọng tài quốc tế khi giải quyết nếu có tranh chấp phát sinh. Do đó, đối với các vấn đề pháp lý mà CISG chưa quy định cụ thể, dựa trên khoản 2 Điều 7 của Công ước, các bên và cả Tòa án hay Trọng tài quốc tế có thể viện dẫn các nguyên tắc chung mà Công ước dựa trên hoặc các quy phạm pháp luật của Tư pháp quốc tế. Về cách giải quyết này, một trong những nhà sáng lập Công ước giải thích như sau: “việc vi phạm hợp đồng có thể xảy ra trong nhiều trường hợp, rất khó để xác định cụ thể tất cả các trường hợp, do đó, không có luật nào có thể quy định chi tiết để đo lường thiệt hại trong tất cả các trường hợp có thể xảy ra”5. Điều mà các điều khoản của CISG cố gắng thực hiện là nêu các nguyên tắc cơ bản để khắc phục thiệt hại, cưỡng chế việc thực hiện bồi thường khi vi phạm xảy ra. Theo đánh giá của nhiều luật gia trên thế giới, việc CISG quy định một điều khoản mở như vậy là để Công ước có thể tùy thời thích ứng với sự thay đổi của xã hội, bằng việc áp dụng các nguyên tắc chung được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Thế nhưng, điều này cũng đồng thời gây trở ngại đối với chính các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chịu sự điều chỉnh của CISG. Không những vậy, nếu có tranh chấp xảy ra, với những điều khoản mở, những vấn đề mà Công ước còn bỏ ngỏ, 4 Điều 7.4.12 PICC 5 John Y. Gotanda, (2007), “Using the Unidroit Principles to Fill Gaps in the CISG”, Villanova University Charles Widger School of Law, pp.2 10 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể sẽ gây khó khăn cho chính Tòa án, Trọng tài quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp. Trong nhiều trường hợp, để khắc phục những lỗ hổng pháp lý của CISG, các thương nhân đồng thời áp dụng luật quốc gia để bổ sung cho những quy định còn mơ hồ, chưa rõ ràng của Công ước. Tuy nhiên, việc thỏa thuận lựa chọn luật của quốc gia nào được áp dụng tương đối khó khăn, vì mỗi bên đều quen thuộc với hệ thống pháp luật của quốc gia mình, rất khó để đi đến quyết định thống nhất. Do đó, hiện nay, nhiều ý kiến từ các luật gia trên thế giới cho rằng PICC có thể được xem là nền tảng pháp lý bổ sung hợp lý cho CISG, điều này tốt hơn nhiều so với việc sử dụng luật quốc gia vì PICC là một công cụ pháp lý quốc tế được soạn thảo vì lợi ích của thương mại quốc tế, không bị ảnh hưởng bởi các chính phủ và không gây ra bất kỳ mối đe dọa nào đối với hệ thống pháp luật quốc gia. Hơn nữa, qua sự so sánh, đối chiếu về vài điều khoản liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại, có thể thấy, PICC bao gồm các điều khoản chi tiết hơn những văn bản được tìm thấy trong các hiệp định quốc tế. Việc sử dụng PICC như một phương tiện giải thích và bổ sung các công cụ luật thống nhất quốc tế là đặc biệt phù hợp với CISG. Mặc dù phạm vi áp dụng khác nhau, nhưng cả hai đều giải quyết những vấn đề giống nhau, liên quan đến quá trình hình thành, giải thích, thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, các điều khoản trong PICC được xây dựng tương đối chi tiết và toàn diện hơn, cho nên trong nhiều trường hợp, PICC có thể cung cấp các giải pháp khắc phục những điều khoản mơ hồ, chưa rõ ràng hoặc những lỗ hổng pháp lý trong CISG. Do đó, các luật gia thế giới đa phần cho rằng các nguyên tắc trong PICC đặc biệt phù hợp để lấp đầy những khoảng trống trong CISG, bởi vì chúng đưa ra các nguyên tắc chung của hợp đồng thương mại quốc tế và việc áp dụng các nguyên tắc này sẽ bổ sung thêm Điều 7.1 của CISG bằng cách giúp thống nhất luật hợp đồng quốc tế. Đã có rất nhiều trường hợp, khi đối diện với những lỗ hổng pháp lý của CISG, nhiều Tòa án và Trọng tài quốc tế đã áp dụng PICC như một nguồn luật để bổ sung, giải thích cho sự mơ hồ, thiếu rõ ràng hoặc những vấn đề pháp lý còn bỏ ngỏ của CISG. Điều này theo nhận định của tác giả là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ, mục tiêu chính của các nguyên tắc PICC là thiết lập một khuôn thổ thống nhất cho các hợp đồng thương mại quốc tế và đảm bảo rằng các hợp đồng thương mại quốc tế này có tính 11 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ thực tiễn, được giải thích và áp dụng ở nhiều quốc gia khác nhau nhằm khuyến khích sự tuân thủ một cách thiện chí và công bằng trong các quan hệ hợp đồng quốc tế, hoàn toàn phù hợp với những yêu cầu của CISG về những nguyên tắc quốc tế được quy định tại khoản 2 Điều 7. Do đó, PICC có thể được sử dụng để lấp đầy những khoảng trống pháp lý trong CISG. Không những vậy, trong trường hợp các bên có thỏa thuận áp dụng PICC như một nguồn luật bổ sung cho CISG, mối lo ngại về sự xung đột giữa hai văn bản trên về cơ bản là không thể xảy ra. Bởi lẽ, với vị trí là một nguồn luật bổ sung, nếu những điều khoản trong PICC trái với CISG thì CISG được ưu tiên áp dụng, PICC chỉ có thể giải thích, bổ sung, làm rõ những vấn đề chưa được quy định cụ thể trong CISG. Do vậy, việc kết hợp áp dụng PICC với các hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của CISG sẽ đem đến cho các bên trong quan hệ hợp đồng rất nhiều lợi ích về mặt pháp lý. KẾT LUẬN Tính đến hiện tại, có thể kết luận rằng: PICC và CISG đều là những bộ quy tắc thương mại quốc tế thành công với những đặc tính riêng biệt. Mặc dù có nhiều điểm khác biệt, nhưng chúng ta không thể phủ nhận mối quan hệ hài hòa giữa PICC và CISG. PICC là một bộ nguyên tắc với các điều khoản rất cụ thể, chặt chẽ, trình bày rõ ràng, không bao gồm các nguyên tắc mơ hồ hoặc hướng dẫn chung. Thế nên, trong nhiều trường hợp, PICC có thể cung cấp các giải pháp hữu ích cho những mơ hồ hoặc lỗ hổng của CISG, đồng thời, giải thích và bổ sung thêm các điều khoản của hợp đồng thương mại quốc tế. Do vậy, với sự kết hợp của PICC và CISG, sẽ đồng thời tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho các bên tham gia hợp đồng thương mại quốc tế, cũng như giúp công tác giải quyết của Tòa án hay Trọng tài quốc tế trở nên dễ dàng hơn, xây dựng một hệ thống pháp luật chặt chẽ, thống nhất, hướng đến sự hài hòa giữa nhiều hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, tạo điều kiện để thương mại quốc tế ngày một phát triển. 12 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brödermann, E. (2020). Bridge over Troubled Waters for International Commercial Contracts--The UNIDROIT Principles 2016, An Overview from a Long Time User. Tulane Journal of International & Comparative Law, 28(2), 224. 2. Bản dịch “Công ước Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước Viên 1980)”, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao https://www.vksndtc.gov.vn/KND/Documents/Ban%20dich%20CISG-1980.pdf 3. John Y. Gotanda, (2007), “Using the Unidroit Principles to Fill Gaps in the CISG”, Villanova University Charles Widger School of Law https://digitalcommons.law.villanova.edu/cgi/viewcontent.cgi? article=1089&context=wps 13 TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 4. Komarov, A. (2017). Contract interpretation and gap filling from the prospect of the UNIDROIT Principles. Uniform Law Review, 22(1), 44. https://doi.org/10.1093/ulr/unw062 5. Global Law Experts, (2020), “Applying Unidroit Principles to Regulate International Commercial Contracts” 6. Lawpath, (2019), “CISG and UNIDROIT: What You Should Know About Selling Overseas” 7. Lucia Carvalhal Sica, (2006), “Gap-filling in the CISG: May The Unidroit Principles supplement the gaps in the CISG?” 8. Marta Requejo, (2016), “Applying UNIDROIT Principles in International Arbitration: An exercise in conflict”, Conflict to Laws.net 9. Unidroit Principles 2016 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan