Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo
Trường Đại Học Kiến Trúc Đà Nẵng
Khoa Kinh Tế-Ngành Tài Chính Ngân hàng
BÀI TẬP NHÓM
Tài Chính Quốc Tế
Đề tài:
Khủng hoảng nợ công Hy Lạp.
Nguyên nhân hậu quả tác động của khủng hoảng.
Các nước châu âu phải làm gì?
Dự báo gì cho tương lai?
Giáo Viên Hướng Dẫn : Vũ Hoàng Vy
Lớp
: 08NH3
Nhóm Thực Hiện
: Eagle
Nguyễn Đình Tân
Nguyễn Hoài Vững
Lê Anh Vũ
Trần Thị Xí
Mai Thị Lê
Nguyễn Thị Kiều Trang
Nguyễn Tố Nhân
Phạm Ngọc Mai
Nguyễn Thị Thanh Vân
GVHD: Vũ Hoàng Vy
Khủng Hoảng Nợ Công Hy Lạp
I/ Lời nói đầu:
Năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đã làm rung động thị trường tài
chính châu Âu và toàn cầu. Khủng hoảng nợ công ảnh hưởng đến không chỉ một vài nước
trong khu vực châu Âu (Ireland, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…) mà liên quan đến hầu hết
các nền kinh tế thế giới. Vậy vì đâu mà Hy Lạp từ một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh nhất châu Âu lại rơi vào khủng hoảng.chúng ta đi tìm hiểu nguyên nhân xảy ra
cuộc khủng hoảng nợ này, các giải pháp của khối liên minh tiền tệ và Châu Âu đã giúp
Hy Lạp như thế nào? Và cuộc khủng hoảng này đã gây ra những hậu quả gì cho Hy Lạp
và cho thế giới.
II/ Thực trạng nợ công Hy Lạp
Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã kéo dài gần 3 năm, các nỗ lực cứu trợ
cũng như các chương trình thắt lưng buộc bụng của các Chính phủ vẫn không ngừng
được đưa ra nhưng tình hình thậm chí ngày càng xấu đi. Trong cuộc khủng hoảng này,
Hy Lạp là cái tên được người ta nhắc đến nhiều nhất.
Trang 2
GVHD: Vũ Hoàng Vy
Hy Lạp được đặt vào tình trạng khủng hoảng nợ công kể từ cuối năm 2009, khi
Chính phủ mới của nước này thừa nhận rằng Chính phủ tiền nhiệm đã công bố những số
liệu kinh tế không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách. Thực tế thâm hụt ngân
sách của nước này năm 2009 là 13,6% chứ không phải là 6,7% GDP như đã từng
được báo cáo, cao hơn nhiều hạn mức thâm hụt ngân sách 3% GDP cho phép đối
với các nước thành viên EU. Tình trạng tiết kiệm thấp và vay nợ nước ngoài cho chi
tiêu công vẫn diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn 2002-2007 là một trong những nguyên
nhân giúp tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế lên mức 4.2%/năm.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 đã ảnh hưởng
mạnh mẽ lên các ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Doanh thu ngành du lịch và
vận tải biển – 2 ngành chủ chốt của nền kinh tế này, sụt giảm trên 15% vào năm 2009.
Kinh tế Hy Lạp lâm vào khó khăn, các nguồn thu thuế, phí …để tài trợ cho ngân sách bị
thu hẹp, trong khi Chính phủ vẫn phải tăng cường chi tiêu công để hỗ trợ nền kinh tế vượt
qua khủng hoảng, đã đẩy nợ công đến con số khổng lồ. Đến năm 2010, báo cáo của
OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Mục tiêu ban đầu của OECD là xây dựng
các nền kinh tế mạnh ở các nước thành viên, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh tế thị
trường, mở rộng thương mại tự do và góp phần phát triển kinh tế ở các nước công
nghiệp.) Cho thấy nợ công của Hy Lạp đã lên tới con số 330 tỷ Euro, tương đương
với 147.8% GDP. Các chuyên gia kinh tế dự đoán dù Hy Lạp có thực hiện được kế
hoạch thắt lưng buộc bụng kéo dài 3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm 2012 vẫn tăng
lên mức 172% GDP.
Ngoài ra, do kinh tế lún sâu hơn vào suy thoái, mặc dù đã cam kết những chính
sách khắc khổ nhằm giảm thâm hụt ngân sách nhưng thâm hụt ngân sách trong 8 tháng
đầu năm 2011 của Hy Lạp đã lên tới 18,1 tỷ Euro (24,67 tỷ USD), tăng mạnh so với
14,813 tỷ Euro cùng kỳ năm ngoái. Trong đó Hy Lạp và Ireland là 2 nước có mức thâm
hụt lớn nhất. Trong khi thâm hụt ngân sách của Ireland chủ yếu là những khoản nợ
chuyển từ khu vực tư nhân sang khu vực công do chính phủ phải “ra tay” cứu hệ thống
ngân hàng, thâm hụt ngân sách Hy Lạp lại chủ yếu gây ra bởi trình độ quản lý công yếu
kém.
Như vậy, Hy Lạp đang cùng lúc đối mặt với những vấn đề nan giải: nợ công
quá cao (147,8%), thâm hụt ngân sách lớn (13,6% GDP năm 2010) và thâm hụt cán
cân thanh toán vãng lai lớn (trung bình vào khoảng 9% GDP – so với mức trung
bình của toàn khu vực Eurozone là 1%). Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt
cán cân vãng lai của Hy Lạp đều vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh Tiền tệ
và Kinh tế châu Âu (EMU), đặc biệt vi phạm Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của Liên
minh châu Âu (EU) với quy định trần thâm hụt ngân sách 3% GDP.
Việc ngụy tạo các số liệu kinh tế nhằm che dấu thực trạng đất nước đã khiến uy tín
của Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề. Cả 3 hãng xếp hạng tín nhiệm lớn nhất thế
giới hiện đều hạ mức tín nhiệm của Hy Lạp xuống mức gần thấp nhất trong thang điểm
đánh giá tín nhiệm đồng thời cảnh báo nguy cơ vỡ nợ của quốc gia này là rất cao. Lợi
suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp kỳ hạn 2 năm đã tăng lên trên 60%, trong khi đó kỳ
Trang 3
GVHD: Vũ Hoàng Vy
hạn 1 năm đã vượt 110%. Điều này đồng nghĩa với việc Hy Lạp gặp nhiều khó khăn
trong việc huy động thêm vốn từ thị trường vốn quốc tế và chỉ có thể mong đợi các
khoản cứu trợ đặc biệt từ IMF, ECB hay một số quốc gia khác.
III/ Nguyên nhân chính khủng hoảng nợ công Hy Lạp
Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng
quản trị tài chính công yếu kém cùng với những khoản chi tiêu của chính phủ quá lớn,
vượt khả năng kiểm soát. Có thể nêu những nguyên nhân chính của nợ công Hy Lạp, đó
là:
Thứ nhất, tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu
công: Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%, thấp
hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và đang có
xu hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các
dòng vốn đến từ bên ngoài; Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên
minh châu Âu EU (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng cho thấy Hy
Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có buộc chính phủ Hy Lạp tăng
cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công.
Thứ hai, chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách: Tăng trưởng GDP
của Hy Lạp vẫn được ca ngợi với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 4,3% (2001 – 2007)
so với mức trung bình của khu vực Eurozone là 3,1%. Tuy nhiên, trong giai đoạn này,
mức chi tiêu chính phủ tăng 87% trong khi mức thu của chính phủ chỉ tăng 31%, khiến
cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU. Theo đánh giá của các
nhà kinh tế, bộ máy công quyền cồng kềnh và thiếu hiệu quả của Hy Lạp chính là nhân tố
chính đằng sau sự thâm hụt của quốc gia này.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), chi tiêu cho quản lý công
trong tổng số chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các nước thành
viên OECD khác trong khi chất lượng và số lượng dịch vụ không được cải thiện nhiều.
Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công
nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên
15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài
trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi
tiêu công để kích thích kinh tế. Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng năm 2008
cũng làm trầm trọng thêm vấn đề nợ công. Tính đến tháng 01/2010, nợ công của Hy Lạp
ước tính lên tới 216 tỷ Euro và mức nợ lũy kế đạt mức 130% GDP.
Sự già hóa dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực
châu Âu của Hy Lạp cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Dự
đoán tỷ lệ số người trên 64 tuổi của Hy Lạp sẽ tăng từ 19% năm 2007 lên 32% năm 2060.
Người về hưu được hưởng một khoản tiền tương đương với 70-80% mức lương chính
thức trước khi về hưu chưa kể những lợi ích từ những cơ chế hỗ trợ khác với đủ 35 năm
Trang 4
GVHD: Vũ Hoàng Vy
cống hiến so với mức 40 năm ở các quốc gia châu Âu khác. Ước tính tổng số tiền chi trả
cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ tăng từ 11,5% GDP (2005) lên 24% (2050).
Thứ ba, nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân
sách và gia tăng nợ công. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân tố làm
giảm nguồn thu ngân sách. Theo đánh giá của Ngân hàng thê giới (WB), kinh tế không
chính thức ở Hy Lạp chiếm tới 25 - 30% GDP(so với mức 15,6% GDP của Việt Nam;
13,1% GDP của Trung Quốc và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản). Hệ thống thuế
với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu
quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế ngầm
phát triển ở Hy Lạp. (Kinh tế ngầm là nơi các hoạt động thương mại được thực hiện mà
không liên quan đến thuế, luật của nhà nước)
Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ tham
nhũng cao nhất trong EU. Không chỉ có công nhân viên chức không chịu nộp thuế, mà
việc nhận tiền hối lộ còn khá phổ biến từ trung ương đến địa phương. Năm 2008, hơn
13% người Hy Lạp đã chi tới 750 triệu EUR tiền phong bì cho các lãnh đạo khu vực công
và khu vực tư, trong đó có bác sĩ là những người đòi nhiều tiền hơn cho các cuộc phẫu
thuật; các nhà quy hoạch thành phố là những người quyết định thời gian giấy phép xây
dựng được cấp và các quan chức ở địa phương cũng liên quan đến những vụ việc nhận
hối lộ. Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou thừa nhận “tham nhũng mang tính hệ
thống” (systematic corruption) là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình trạng nợ công Hy Lạp.
Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8% GDP. Tham nhũng
không chỉ gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ, nhắm tới duy trì mức
lương cao cho công chức và thực hiện các dự án có vốn đầu tư lớn thay vì nhắm vào các
dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng suất lao động. Mức lương cao không chỉ tạo
ra gánh nặng ngân sách mà còn làm cho tính cạnh tranh của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi.
Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1 euro đổi hơn 0,8 đô la Mỹ lên đến 1 euro đổi 1,6
đô la trong suốt giai đoạn từ 2000-2008 khiến sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu
và hệ quả tất yếu là một cán cân thương mại thâm hụt triền miên.
Thứ tư, sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngòai và việc sử dụng nguồn
vốn không hiệu quả: Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy
Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được
những nền kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ
của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Nhờ việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm
nhiên có được hình ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư, dễ dàng thu
hút vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp. Trong gần một thập kỷ qua, chính phủ
Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ đôla. Số tiền này lẽ ra có thể giúp
kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên, chính
phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm
đến các kế hoạch trả nợ dẫn đến mức nợ ngày càng tăng.
Thứ năm, thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư: Sự thiếu minh
bạch trong số liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư mà quốc
Trang 5
GVHD: Vũ Hoàng Vy
gia này đã tạo dựng được với tư cách là một thành viên của Eurozone và nhanh chóng
xuất hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào
tình trạng khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế. Sự phụ thuộc
vào nguồn tài chính nước ngoài đã khiến cho Hy Lạp trở nên rất dễ bị tổn thương trước
những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư. Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, thì
minh bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các nhà đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp
do chính phủ không minh bạch các số liệu, cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về
tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về
ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô do vậy, hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn
chế nhiều
IV/ Giải pháp cứu cánh Hy Lạp
Tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo Eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố
gói cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá 110 tỷ EUR dành cho Hy Lạp. Sau đó, vào tháng
10/2010 IMF cho Hy Lạp vay thêm 2,5 tỷ EUR (3,3 tỷ USD), nâng tổng giá trị các
khoản vay khẩn cấp mà IMF dành để ngăn chặn khả năng vỡ nợ của nước này lên 10,58
tỷ EUR (tương đương 13,98 tỷ USD).
Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2010 và 6/2011, Ngân hàng Trung ương Châu
Âu đã mua khoảng 45 tỷ EUR trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Ngoài ra, các khoản hỗ trợ
thanh khoản mà ECB dành cho các ngân hàng Hy Lạp đã tăng từ mức 47 tỷ EUR vào
tháng 1/2010 lên mức 98 tỷ EUR vào tháng 5/2011.
Để có được những khoản hỗ trợ này, chính phủ Hy Lạp đã phải cam kết thực hiện
lộ trình cắt giảm thâm hụt ngân sách được các nhà tài trợ đưa ra. Hiện tại Hy Lạp đang
đợi chờ gói các gói cứu trợ mới nhưng đi kèm với nó là Chính phủ phải đưa ra nhiều
chính sách cắt giảm chi tiêu hơn nữa. Tuy nhiên, các chính sách này sẽ khó có thể thực
hiện được trong thời gian tới khi hàng loạt các cuộc biểu tình của người dân Hy Lạp vẫn
liên tục nổ ra. Ngoài ra, nếu Hy Lạp tiếp tục cắt giảm chi tiêu thì nền kinh tế nước này sẽ
giảm tốc mạnh hơn nữa. Theo Bộ trưởng tài chính Hy Lạp, GDP có khả năng tăng trưởng
-5% trong năm 2011, giảm mạnh hơn mức -3,5% được dự báo trước đó. Như vậy, Hy
Lạp đang phải đối mặt với một vòng luẩn quẩn: càng thắt chặt ngân sách, kinh tế sẽ càng
xấu đi. Nếu kinh tế xấu đi, doanh thu từ thuế sẽ giảm sút trầm trọng. Khi doanh thu từ
thuế giảm mạnh, Hy Lạp lại càng phải đi vay nợ… Và cứ thế, bong bóng nợ công sẽ ngày
càng phình to cho đến khi nó nổ. Vấn đề chỉ là thời gian.
Trang 6
GVHD: Vũ Hoàng Vy
Theo tính toán của Morgan Stanley, chi phí lãi trung bình cho các khoản nợ của
Hy Lạp vào khoảng 6%GDP tương đương khoảng 10 tỷ EUR (2010). Giới phân tích cho
biết, kinh tế Hy Lạp sẽ tăng trưởng âm trong năm 2011, theo đó, chi phí lãi trên GDP sẽ
tăng lên mức lên mức 6,5% trong năm 2011. Gần đây Phó Bộ trưởng tài chính Hy
Lạp cho biết Hy Lạp sẽ chỉ còn đủ tiền mặt để tiếp tục hoạt động cho đến giữa tháng
10/2011.
Tóm lại: Nợ công Hy Lạp giống như con bệnh đã hết thuốc chữa. Việc vay
thêm nợ mới hay đợi những khoản cứu trợ mới cũng chỉ đủ trả những khoản lãi vay
cho nên việc Hy Lạp vỡ nợ chỉ là vấn đề sớm hay muộn . Hệ lụy nào nếu Hy Lạp vỡ
nợ?
V / Hậu quả tác động của Hy Lạp
a. Đối với chính Hy Lạp: khủng hoảng tài chính trong nước
Hệ lụy đầu tiên Hy Lạp phải đối mặt là mất khả năng tiếp cận thị trường tài
chính quốc tế hoặc những điều kiện ưu đãi đi kèm các khoản vay sẽ mất đi, chi phí
lãi vay sẽ ở mức rất cao hoặc thậm chí không huy động được nguồn vốn.
Theo thông tin từ Reuters, hiện các ngân hàng Hy Lạp đang giữ 62,8 tỷ USD trái
phiếu Chính phủ và là chủ nợ lớn nhất của Chính phủ Hy Lạp. Nếu Hy Lạp vỡ nợ, các
ngân hàng này có khả năng được yêu cầu tìm kiếm các nguồn vốn mới để bù đắp các
khoản lỗ và hầu như chắc chắn là Hy Lạp sẽ quốc hữu hóa những ngân hàng có liên
quan đến nợ Chính phủ. Ngoài ra, việc các tổ chức tài chính trong nước bán tháo các tài
sản nợ có thể xẩy ra sẽ dẫn tới 1 cuộc khủng hoảng tài chính tại Hy Lạp.
Trang 7
GVHD: Vũ Hoàng Vy
b. Ảnh hưởng nặng nề đến hệ thống ngân hàng khu vực Châu Âu và thế giới.
Top 10 những nước có giá trị các khoản nợ trực tiếp với Hy Lạp lớn nhất
Đức và Pháp là 2 nước chủ nợ lớn nhất của Hy Lạp. Theo ước tính của các
chuyên gia kinh tế, thiệt hại của các ngân hàng Pháp và Đức nếu Hy Lạp vỡ nợ lần
lượt là 56,9 và 23,8 tỷ USD. Ngoài ra, việc Hy Lạp vợ nợ cũng gây thiệt hại lớn cho
ngân hàng Anh, Bồ Đào Nha, Mỹ, Hà Lan, Nhật…Nếu Hy Lạp vỡ nợ, hệ thống ngân
hàng của các quốc gia này sẽ đối mặt với khoản nợ xấu lớn, ảnh hưởng đến an toàn
hệ thống ngân hàng toàn cầu.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là tính toán về những khoản nợ tài chính trực tiếp, chưa có
cơ quan nào đưa ra số liệu chính xác về những tài sản tài chính gián tiếp có liên quan tới
Hy Lạp. Báo cáo công bố ngày 18/08/2011 của cơ quan tài chính trực thuộc Quốc hội
Mỹ cho biết trong khi những khoản vay trực tiếp của Mỹ tới Hy Lạp là 7,3 tỷ USD
(tính đến tháng 12/2010), nhưng ước tính giá trị những khoản tín dụng gián tiếp của
nước Mỹ với Hy Lạp lớn hơn đến gần 5 lần với 34,1 tỷ USD. Báo cáo cũng cho biết
thêm tổng các khoản tín dụng gián tiếp của Mỹ tới 5 quốc gia đang “vướng mắc”
trong khủng hoảng nợ công là Hy Lạp, Ireland, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha ước
tính lên tới 641 tỷ USD.
Trang 8
GVHD: Vũ Hoàng Vy
Bên cạnh đó, do những bất ổn, nghi ngờ gia tăng đối với những ngân hàng có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới những khoản nợ của Hy Lạp, Các ngân hàng
khác sẽ ngần ngại gia hạn tín dụng cho nhau vì lo sợ vỡ nợ, hoặc các ngân hàng sẽ
yêu cầu các khoản thế chấp lớn hơn, gây ra làn sóng bán tài sản trên diện rộng. Đây
là có thể là lịch sử lặp lại của vụ phá sản Lehman Brothers, dẫn tới sự sụp đổ của
một loạt các thể chế tài chính lớn. Và thiệt hại của sự sụp đổ này thì chưa ai tính đến.
c. Hiệu ứng domino và hệ lụyđến tăng trưởng kinh tế toàn cầu
Hy Lạp là một nước thành viên nhỏ của khối các nước sử dụng đồng tiền chung
Châu Âu, chỉ đóng góp khoảng 2,4% tổng GDP của khu vực. Tuy nhiên, cái người ta lo
ngại là hiệu ứng domino sẽ xảy ra khi Hy Lạp vỡ nợ. Ireland và Bồ Đào Nha là 2 quốc
gia cũng đang trong tình trạng ngập đầu nợ nần và sẽ phải đối mặt với việc kinh tế tăng
trưởng chậm lại trong các năm tới khi chính phủ nỗ lực thắt chặt chi tiêu, giảm thâm hụt
ngân sách và mang đến sự ổn định cho hệ thống ngân hàng.
Nhưng nếu như Hy Lạp vỡ nợ, không trả được tiền hoặc không trả đủ tiền
cho các trái chủ, thì tại sao Ireland và Bồ Đào Nha lại không thể làm thế? Và có thể
việc Hy Lạp vỡ nợ sẽ tạo tiền đề cho một loạt sự đổ vỡ tiếp sau đó. Lo lắng về một
cuộc khủng hoảng, đổ vỡ toàn cầu đang tới gần khiến tâm lý thận trọng của nhà đầu
tư tăng lên, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động đầu tư, chi tiêu của cá nhân…dẫn tới
làm giảm tăng trưởng GDP của cả khu vực. Ngoài ra, các nền kinh tế lớn cũng phải
chia sẻ một phần nguồn lực tài chính của các chương trình hỗ trợ kinh tế trong
nước cho các gói cứu trợ Hy Lạp và hệ thống ngân hàng, qua đó giảm tăng trưởng
kinh tế trong nước.
Như đã nói ở trên, Hy Lạp vỡ nợ đồng nghĩa với việc chi tiêu toàn cầu đặc biệt
là từ Châu Âu giảm sút. Ngoài ra, nước Mỹ cũng đang đứng trên bờ vực của suy thoái.
Việc 2 đối tác xuất khẩu chính của Trung Quốc gặp khó khắn khiến nhu cầu hàng
Trang 9
GVHD: Vũ Hoàng Vy
hóa Trung Quốc có khả năng giảm mạnh. Sự sụt giảm này được đánh giá là có tác
động lớn tới Trung Quốc và có thể buộc chính phủ phải từ bỏ cuộc chiến chống lại
lạm phát để giữ cho nền kinh tế đang phát triển.
d. Bất ổn chính trị và xã hội
Việc Hy Lạp cũng như các quốc gia khác trong khu vực thực thi các chính sách
thắt lưng buộc bụng đã làm làm dấy lên làn sóng biểu tình phản đối trong khu vực đồng
thời cũng làm tăng lên những bất ổn xã hội khác. Ví dụ dự thảo việc Hy Lạp hoãn trả
lương công chức hay áp thêm nhiều loại thuế mới khiến làn sóng phản đối chính phủ
càng mạnh thêm. Giờ đây không chỉ thị trường quốc tế mà còn cả chính nhân dân Hy
Lạp đã không còn niềm tin vào chính phủ Hy Lạp.
Ngoài ra những cuộc đàm phán giữa các thành viên trong khu vực cho thấy những
bất đồng chính trị đang ngày càng lớn dần giữa các nước. Đức là quốc gia đã phản
ứng mạnh với những phương cách cứu trợ Hy Lạp. Với tích cách của dân tộc Đức, nhiều
người đã kiên quyết phản đối việc cứu Hy Lạp khi họ coi Hy Lạp là một quốc gia thiếu
trách nhiệm. Bản thân trong chính phủ Đức cũng có những luồng ý kiến trái chiều về việc
này. Theo đó, khủng hoảng nợ Hy Lạp là một cơ hội khiến bất đồng gia tăng trong nội bộ
chính phủ vốn đã nhiều rối ren. Như vậy, khủng hoảng nợ công Hy Lạp đang làm gia
tăng bất ổn chính trị của khu vực.
e. Đối với Việt Nam
Do đồng EUR giảm giá, nên các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
EU sẽ bị đắt lên tương đối, do dó ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của Việt nam
vào thị trường này.
Dù Hy Lạp không phải là một nền kinh tế lớn ở châu Âu và quan hệ thương mại,
dòng vốn đầu tư với Việt Nam không lớn, nhưng Việt Nam sẽ chịu tác động gián tiếp
nếu cuộc khủng hoảng này nổ ra. Cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu có thể gây gián
đoạn thương mại toàn cầu, ảnh hưởng tới nhu cầu xuất khẩu của châu Á, trong đó có Việt
Nam và khiến “các nguồn tiền nóng” chảy vào khu vực Châu Á giảm sút, góp gây mất
cân đối cán cân tổng thể của các quốc gia trong đó có Việt Nam.
VI/ Dự đoán trong tương lai về Hy Lạp
Nếu IMF, EU và ECB quyết định không giải ngân khoản tiền cứu trợ tiếp theo, Hy
Lạp sẽ hết tiền ngay tháng 10/2011.
Chính phủ Hy Lạp nhiều khả năng sẽ không thể thực hiện được các mục tiêu cắt
giảm ngân sách được đề ra vài tháng trước theo điều kiện của các gói giải cứu. Như vậy
các biện pháp được thực hiện ráo riết để ngăn khả năng phá sản có thể không đủ.
Dự báo này được đưa ra khi các chuyên gia thuộc IMF, EU và ECB đang có mặt
tại Hy Lạp để xem xét sổ sách tài chính của Hy Lạp nhằm quyết định xem nước này có
nên tiếp tục được giải ngân khoản tiền cứu trợ tiếp theo. Nếu không có khoản tiền này,
Hy Lạp sẽ hết tiền ngay lập tức.
Bản dự thảo kế hoạch ngân sách năm 2012 được chấp thuận ngày Chủ nhật dự báo
về mức thâm hụt ngân sách năm 2011 là 8,5%, không đạt mục tiêu 7,6%.
Trang 10
GVHD: Vũ Hoàng Vy
Các quan chức chính phủ châu Âu đang cố gắng ngăn khả năng Hy Lạp vỡ nợ, yếu
tố sẽ làm yếu đi bảng cân đối kế toán của các ngân hàng châu Âu, đặt tương lai của đồng
euro vào vòng nguy hiểm và có thể đẩy kinh tế toàn cầu vào một cuộc khủng hoảng mới.
Quan chức châu Âu khẳng định đánh giá của nhóm IMF, EU và ECB sẽ mang tính
quyết định liệu Hy Lạp có cần thêm hỗ trợ giải quyết các khoản nợ từ phía các chủ nợ tư
nhân, biện pháp có thể đồng nghĩa với vỡ nợ.
GDP Hy Lạp năm 2011 được dự báo tăng trưởng âm 5,5%. Ngoài ra GDP năm
2012 có thể tăng trưởng âm 2 – 2,5%.
Những con số dự báo trên đúng với tính toán của IMF, thế nhưng tệ hơn so với dự báo
được dùng để tính toán gói giải cứu 109 tỷ euro tương đương 146 tỷ USD đưa ra vào
tháng 7/2011. Theo tính toán đó, kinh tế Hy Lạp có thể tăng trưởng 0,6% trong năm
2012.
Thâm hụt ngân sách năm 2011 đồng nghĩa với Hy Lạp cần thêm 2 tỷ euro để bù
đắp cho chi phí hoạt động của năm nay. Như vậy, chính phủ Hy Lạp sẽ phải tăng thuế
khẩn cấp và giảm lương trong 2 tháng tới để đạt mục tiêu.
VII/ Ảnh hưởng và bài học cho Việt Nam
Kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ lệ xuất
nhập khẩu và dòng vốn đầu tưnước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Nếu cuộc
khủng hoảng nợ của Hy Lạp xảy ra thì kinh tế của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng
nề. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng là một bài học cho Việt Nam khi nhìn lại vấn
đề nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.
Ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián
tiếp vào Việt Nam. Dù Hy Lạp không phải là một nền kinh tế lớn ở châu Âu và quan hệ
thương mại, dòng vốn đầu tư giữa Việt Nam không lớn, nhưng Việt Nam sẽ chịu tác
động gián tiếp nếu cuộc khủng hoảng này nổ ra.
Với việc EU và IMF cam kết sử dụng gần 1,000 tỷ USD để cứu trợ cho nước này
và một số nước có liên quan, chúng tôi cho rằng khả năng vỡ nợ của Hy Lạp sẽ khó diễn
ra. Tuy vậy, cuộc khủng hoảng này sẽ làm chậm lại đà phục hồi của kinh tế toàn cầu và
đặc biệt là kinh tế châu Âu. Là khu vực có quan hệ thương mại và dòng vốn đầu tư khá
lớn vào Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam sẽ không tránh khỏi những ảnh hưởng.
Ổn định tỷ giá và tâm lý trên TTCK. Các dòng vốn đầu tư từ khu vực châu Âu
suy giảm, hay đà tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này chậm lại đều tạo ra
mối đe dọa lên sự phát triển kinh tế Việt Nam và ổn định của tỷ giá tiền đồng. Tâm lý
nhà đầu tư trên TTCK cũng sẽ bị tác động không nhỏ bởi sự sút giảm của thị
trườngchứng khoán châu Âu và thế giới. Không loại trừ khả năng có một đợt rút lui mạnh
mẽ của dòng tiền từ nhà đầu tư trong nước và cả nước ngoài nếu khủng hoảng nợ công
bùng nổ.
Trang 11
GVHD: Vũ Hoàng Vy
Chi tiêu công mở rộng gây sức ép lên thâm hụt ngân sách của Việt
Nam. Trong thời gian gần đây, Ủy banTài chính - Ngân sách của Quốc hội đã đưa ra
cảnh báo về mức dư nợ chính phủ và nợ quốc gia đã tăng sát mức trần cho phép.
Cũng tương tự như Hy Lạp, thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy trì ở
mức cao và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài,
trong đó số tiền vay nợ qua (ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc
tế) ngày càng lớn. Dù hiện tại tỷ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn (dưới 50%), nhưng
tỷ lệ này đang ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng tiệm cận mức giới hạn an toàn
50%.
Việt Nam cũng đã phải thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ và kích thích kinh tế
để lấy lại đà tăng trưởng sau khủng hoảng. Áp lực thâm hụt ngân sách càng nặng hơn khi
sắp tới Việt Nam đang có hàng loạt dự án quy mô rất lớn như mở rộng thủ đô Hà Nội,
xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dự án đường cao tốc Bắc Nam,... Đây là những dự án
tiêu tốn chi phí cao và phần lớn số tiền không phải là tiền tiết kiệm trong nước, mà đến từ
nguồn vốn vay từ nước ngoài.
Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị
tổn thương nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và các
nước châu Âu cũng khiến Việt Nam phải suy nghĩ lại về bài toán chất lượng tăng trưởng.
Tỷ lệ đầu tư/GDP trong những năm gần đây đều ở mức trên 40%. Đây là một tỷ lệ rất cao
so trung bình các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong số hơn 40% nói trên, khoảng 27-30% được tài trợ bởi nguồn vốn tiết kiệm
trong nước. Hơn 10% còn lại là từ dòng vốn từ bên ngoài (FDI, FPI, ODA và các khoản
vay khác), trong đó vốn vay chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Với việc dòng vốn đầu tư nước
ngoài chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị
tổn thương một khi kinh tế thế giới ngưng trệ.
Tuy vậy, chúng tôi cho rằng một kịch bản xấu ít có khả năng xảy ra, và trong ngắn
hạn Việt Nam chưa phải chịu áp lực quá nhiều từ việc suy giảm các dòng vốn đến từ bên
ngoài. Xét về dài hạn, tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào các dòng vốn đầu tư nước
ngoài kéo dài sẽ khiến Việt Nam gặp phải nhiều rủi ro tương tự như Hy Lạp.
Kinh tế Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cao mà sẽ không phải phụ
thuộc quá nhiều đến dòng vốn từ bên ngoài như hiện tại, nếu Việt Nam sử dụng vốn đầu
tư một cách hiệu quả (ICOR khoảng 3.5-4, bằng mức trung bình các nước đang phát
triển). Vì vậy, giải pháp dài hạn của Việt Nam vẫn là phải nâng cao hiệu quả đầu tư, giúp
giảm được hàng loạt những rủi ro đối với nền kinh tế.
Tóm lại, từ cuộc khủng hoảng Hy Lạp một lần nữa cho chúng ta thấy kinh tế Việt
Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu
tư từ bên ngoài. Tình trạng của Việt Nam cũng giống Hy Lạp ở một số yếu tố như: thâm
hụt tài khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong quan lý chi tiêu công… Chỉ có tái cấu trúc
nền kinh tế và cải thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ
tăng trưởng cao trong những năm sắp tới.
Trang 12
GVHD: Vũ Hoàng Vy
VII/ Kết luận:
Hy Lạp chỉ là một quốc gia nhỏ ở Châu Âu với đóng góp không nhiều vào GDP
hàng năm của khu vực nhưng việc vỡ nợ của Hy Lạp lại có ảnh hưởng nặng nề chưa tính
toán hết được tới nền kinh tế toàn cầu. Đây là bài học rõ ràng cho những quốc gia đang
phát triển nóng theo đuổi những con số đẹp về chỉ tiêu tăng trưởng, nếu cứ tiếp tục đi
vay và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua, chắc chắn di sản có
thể để lại cho tương lai sẽ là một món nợ khổng lồ.
Trang 13
- Xem thêm -