Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Công nghệ thông tin Tiểu luận môn lịch sử đảng cộng sản việt nam chủ trương và quá trình chỉ đạo th...

Tài liệu Tiểu luận môn lịch sử đảng cộng sản việt nam chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại của đảng thời kỳ đổi mới

.PDF
20
1
72

Mô tả:

lOMoARcPSD|18034504 TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC BỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ MÃ ĐỀ: 04 TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Tên đề tài: Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới. Vận dụng quan điểm: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển trong giai đoạn đại dịch Covid toàn cầu hiện nay. Họ và tên : Trần Xuân Đạt Mã sinh viên : 1781310088 Lớp : D12CNPM2 HÀ NỘI, 12/2021 lOMoARcPSD|18034504 MỤC LỤC A.MỞ BÀI ............................................................................................................................ 1 B.NỘI DUNG........................................................................................................................ 2 I.Cơ sở lí luận........................................................................................................................ 2 1.Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới......................................................................................................................................... 2 1.1 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và quá trình đổi mới (1986-1991)........................2 1.2 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và thực hiện đổi mới (1991-1996)................3 1.3 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và quá trình thực hiện (1996- 2001)...........4 1.4 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và quá trình thực hiện (2006-2011) 6 1.5 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và quá trình thực hiện (2011-2016) .......................................................................................................................................7 1.6 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và trên đường thực hiện Nghị quyết Đại hội XII (2016-2018)........................................................................................9 II. Vận dụng........................................................................................................................10 1.Tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong thời kỳ hội nhập..................................10 2.Một số kết quả đã đạt được trên mặt trận ngoại giao..................................................12 2.1 Về thành tựu...........................................................................................................12 2.2 Về thách thức.........................................................................................................13 2.3 Về phương hướng...................................................................................................14 C.KẾT BÀI.........................................................................................................................17 D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................18 lOMoARcPSD|18034504 A.MỞ BÀI Trên tính chủ động, tích cực nắm bắt và tạo dựng được thời cơ, kiên trì và linh hoạt vượt qua những thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài, đối ngoại trong nhiệm kỳ qua đã đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần tích cực vào củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thu hút các nguồn lực phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.Quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng chung biên giới, các nước trong khu vực, các nước lớn, các đối tác ưu tiên, chủ chốt tiếp tục được củng cố và đi vào chiều sâu, thực chất, tạo dựng được khuôn khổ quan hệ ổn định, bền vững. Các khuôn khổ quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện được mở rộng, trên tinh thần lựa chọn đối tác có trọng tâm, trọng điểm. Trong giai đoạn này, ta đã thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện với 5 nước, nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược với 2 nước (Australia năm 2018 và New Zealand năm 2020), từ Đối tác chiến lược lên Đối tác chiến lược toàn diện với một nước (Ấn Độ năm 2016), nâng tổng số quan hệ Đối tác chiến lược/Đối tác toàn diện lên 30 nước. Việt Nam đang trở thành nhân tố ngày càng quan trọng trong chiến lược khu vực và toàn cầu của các nước lớn. Trao đổi đoàn các cấp với các đối tác được duy trì đều đặn, thường xuyên, kể cả vào những thời điểm quan hệ nảy sinh vấn đề, cho thấy chiều sâu, tính thực chất trong quan hệ của ta với các đối tác. Đối ngoại song phương đã góp phần thiết thực vào phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ta cũng xử lý tốt các vấn đề tồn tại và phát sinh trong quan hệ với các đối tác chủ chốt, không để ảnh hưởng đến các lợi ích an ninh, phát triển cũng như cục diện quan hệ đối ngoại của ta. Ngay cả trong khó khăn của đại dịch COVID-19, đối ngoại vẫn điều chỉnh linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả với các hình thức ngoại giao trực tuyến, đồng thời ta đã đẩy mạnh ngoại giao y tế và hợp tác quốc tế phòng chống dịch, qua đó nâng cao hình ảnh một Việt Nam có khả năng thích ứng, chống chịu cao với các thách thức bên ngoài, và là thành viên tích cực, chủ động, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Vì muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này nên em đã chọn đề tài : “Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới. Vận dụng quan điểm: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển trong giai đoạn đại dịch Covid toàn cầu hiện nay”. lOMoARcPSD|18034504 B.NỘI DUNG I.Cơ sở lí luận 1.Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới. 1.1 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và quá trình đổi mới (1986-1991) Từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật lần thứ hai, đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ, cải cách. Khi đó, Việt Nam vẫn đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận và vẫn ở tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội. Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 1976-1980 chỉ đạt,6%. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng 300% năm 1985 lên 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. Đại hội VI thay mặt cho hơn hai triệu đảng viên cả nước đã họp tại Hà Nội (12-1986), thông qua các văn kiện chính trị quan trọng và bầu Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư Đảng. Báo cáo chính trị của Đại hội đã chỉ ra thành công, hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân, bài học của Đảng và chủ trương đổi mới toàn diện công cuộc xây dựng đất nước. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Nhiệm vụ đối ngoại là góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm,dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước. Đảng phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội và đặc trưng, quy luật, hình thức, bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong lOMoARcPSD|18034504 cách lãnh đạo và công tác. Xây dựng Đảng ngang tầm một đảng cầm quyền lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược. Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu ngoặt phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tình hình thế giới biến chuyển nhanh chóng. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng rơi vào khủng hoảng toàn diện và sụp đổ hoàn toàn (12-1991), gây tác động bất lợi nhiều mặt đối với thế giới và Việt Nam. Ở trong nước, những năm 1987-1988 khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn diễn ra nghiêm trọng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Trung ương Đảng đã họp nhiều lần và chỉ đạo thực hiện đổi mới các lĩnh vực chủ yếu sau: 1.2 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và thực hiện đổi mới (1991-1996) Cuối tháng 9-1991, Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động. Ngày 25-12-1991, Liên Xô giải tán. Sự kiện đó gây chấn động về chính trị, kinh tế và trật tự thế giới. Phong trào cách mạng thế giới đi vào thoái trào; các thế lực đế quốc và phản động đẩy mạnh tuyên truyền, tấn công quyết liệt nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa xã hội còn lại, trong đó Việt Nam được coi là trọng điểm. Sau hơn 4 năm đổi mới, đất nước cơ bản ổn định nhưng chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề kinh tế-xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết. Đại hội VII của Đảng thay mặt cho hơn hai triệu đảng viên cả nước đã họp tại Hà Nội (6-1991), thông quan các văn kiện chính trị và bầu Đỗ Mười là Tổng Bí thư Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã tổng kết những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam; những sai lầm, khuyết điểm của Đảng và nêu ra những bài học lớn; phân tích những biến đổi to lớn và sâu sắc của tình hình quốc tế. Cương lĩnh chỉ rõ đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.. Cương lĩnh đã nêu những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại. Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo hệ thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư lOMoARcPSD|18034504 tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Quan điểm chỉ đạo của Đảng: Phát triển kinh tế-xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Đại hội VII của Đảng là “Đại hội của trí tuệ-đổi mới, dân chủ-kỷ cương-đoàn kết” hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Chủ trương đổi mới về quốc phòng, an ninh, đối ngoại Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Chủ trương mới của Đảng là mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại, trên nguyên tắc tôn trọng độc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc. Những chủ trương trên đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận. Tháng 11-1991, hai Đảng, Nhà nước Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ. Tháng 7-1995, Việt Nam và Hoa Kỳ đặt quan hệ ngoại giao và Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). 1.3 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và quá trình thực hiện (1996- 2001) Sau 10 năm đổi mới, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi bước đầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ, phá được thế bị bao vây, cô lập, tham gia tích cực vào cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên Việt Nam vẫn là nước nghèo và kém phát triển, xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Báo cáo chính trị của Đại hội đánh giá công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986-1996) thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn. Đại hội tổng kết 10 năm đổi mới và nêu ra sáu bài học chủ yếu: Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới. Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức lOMoARcPSD|18034504 mạnh thời đại. Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Sau Đại hội VIII, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp nhiều lần, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ cụ thể, nổi bật là: Tăng cường quốc phòng, an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội lần thứ IX của Đảng là Đại hội tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đánh dấu bước trưởng thành về vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển và cụ thể hoá Cương lĩnh chính trị năm 1991của Đảng trong hoàn cảnh lịch sử mới. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế1 với quan điểm chỉ đạo: Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế ; bảo đảm độc lập, tự chủ và đinh hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. Kết hợp chặt chẽ hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ ,diễn biến hoà bình đối với nước ta. 1.4 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và quá trình thực hiện (2006-2011) Trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nổi bật là công nghệ thông tin có bước phát triển nhảy vọt. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục 1 lOMoARcPSD|18034504 hồi và phát triển nhưng tiềm ẩn những yếu tố khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng chứa đựng nhiều yếu tố gây khó khăn, thách thức lớn, nhất là với các quốc gia đang phát triển. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, hoạt động can thiệp, khủng bố, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo… tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp cùng giải quyết. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Đông Nam Á tiếp tục phát triển nhưng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thay đổi toàn diện với thế và lực, uy tín quốc tế tăng lên nhiều. Tuy nhiên, các nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng đã xác định vẫn là những thách thức lớn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng thay mặt cho 3,1 triệu đảng viên cả nước đã họp tại Hà Nội (4-2006). Đại hội đã thông qua các Văn kiện chính trị và tiếp tục bầu Nông Đức Mạnh làm Tổng Bí thư Đảng. Kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và nhìn lại 20 năm đổi mới (19862006) với những bài học lớn: Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu tổng quát là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực. Giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Phát triển văn hoá, nền tảng tinh thần của xã hội. Tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. lOMoARcPSD|18034504 Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội X của Đảng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các văn kiện được thông qua tại Đại hội X là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ, phát triển với tốc độ nhanh và bền vững hơn. Trong chương trình toàn khóa X, Trung ương Đảng đã họp và chỉ đạo và thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau: 1.5 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và quá trình thực hiện (2011-2016) Trong những năm này tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ diễn ra ở nhiều nơi, diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu xảy ra nghiêm trọng trên toàn thế giới. Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta (bổ sung, phát triển năm 2011) đã kế thừa và phát triển thành tựu lý luận, thực tiễn qua các Đại hội VIII, IX, X và XI của Đảng, bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa; phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011-2015). Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, coi trọng bảo vệ môi môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. lOMoARcPSD|18034504 Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng. Phát triển hệ thống thông tin đại chúng, Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá. Thực hiện có hiệu quả tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích dân tộc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu để thực hiện thắng lợi mục tiêu của Đảng. Đại hội XI thể hiện trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta, tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực hiện chương trình toàn khóa XI, trong 5 năm (2011-2016), Trung ương Đảng đã chỉ đạo quyết định đổi mới những vấn đề quan trọng, nổi bật: Qua 5 năm 2011-2015, chính trị-xã hội đất nước ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, giữ vững hòa bình,bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là những tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong thời kỳ mới. 1.6 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và trên đường thực hiện Nghị quyết Đại hội XII (2016-2018) Đại hội XII của Đảng thay mặt chó 4,5 triệu đảng viên trong toàn Đảng họp tại Hà Nội (1-2016) đã tổng kết 30 năm đổi mới; vạc ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2016-2020, bầu Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư. Báo cáo chính trị của Đại hội quyết định 15 vấn đề lớn: Đánh giá thành quả quan trọng và những hạn chế, yếu kém trong 5 năm (2011-2015) và nêu ra một số kinh nghiệm: Một là, trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai là, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát thực tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm lOMoARcPSD|18034504 bắt, dự báo những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp. Ba là, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Bốn là, kiên trì thực hiện các mục tiêu lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản, đồng thời tập trung các nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, giải quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tạo đột phá để giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ phát triển; phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi ích quốc gia-dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Xây dựng, phát triển văn hoá, con người. Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. II. Vận dụng 1.Tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong thời kỳ hội nhập Thực hiện Đề án số 08-ĐA/BĐNTW ngày 08/3/2021 của Ban Đối ngoại Trung ương về việc tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 06/7/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới, Ban Thường trực UBTƯ MTTQ Việt Nam tổ chức buổi Tọa đàm “Công tác đối ngoại nhân dân nhìn lại chặng đường 10 năm qua - Tầm nhìn cho giai đoạn mới”. lOMoARcPSD|18034504 Tọa đàm là cơ hội để các đại biểu trao đổi, thảo luận có tính chuyên sâu, tổng kết thực tiễn, cung cấp thông tin toàn diện và đa chiều hơn phục vụ cho việc xây dựng Báo cáo tổng kết 10 năm Chỉ thị 04 của Ban Bí thư; đồng thời nghiên cứu, đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp để triển khai thực hiện nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về lĩnh vực đối ngoại, trọng tâm là công tác đối ngoại nhân dân. Theo đó, Đại hội XIII của Đảng khẳng định tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Đại hội đã xác định "vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước" và nhiệm vụ "Triển khai nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân". Nhìn lại chặng đường 10 năm qua, MTTQ Việt Nam đã củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác đi vào chiều sâu với các nước láng giềng và các đối tác truyền thống như Lào, Campuchia, Trung Quốc, Cuba, Triều Tiên...chủ động mở rộng quan hệ và ký Bản Ghi nhớ với 5 đối tác mới có chức năng, nhiệm vụ tương đồng gồm Singapore, Đức, Nga, Pháp, Hàn Quốc, tích cực tham gia Diễn đàn Nhân dân ASEAN, duy trì quan hệ với các tổ chức quốc tế và đại sứ quán các nước tại Việt Nam. Bên cạnh đó, UBTƯ MTTQ Việt Nam đã hướng dẫn Mặt trận các cấp tích cực tham gia công tác vận động đấu tranh dư luận về các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, hòa bình, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, kêu gọi bạn bè quốc tế ủng hộ công cuộc đổi mới của Việt Nam, nhất là trước những diễn biến phức tạp ở biển Đông trong những năm gần đây. 10 năm qua, MTTQ Việt Nam đã đạt được nhiều dấu mốc quan trọng trong công tác đối ngoại nhân dân, song vẫn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục. Tại Tọa đàm, các đại biểu đã tham gia thảo luận các vấn đề và đề xuất nhiều giải pháp nhằm duy trì, phát huy những thành tựu đã đạt được, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác đối ngoại nhân dân.Ông Trần Đắc Lợi, Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Đối ngoại và Kiều bào UBTƯ MTTQ Việt Nam, MTTQ Việt Nam cần mở rộng, củng cố và tăng cường quan hệ đối ngoại, ưu tiên phát triển quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước láng giềng, ASEAN. Trong đó, tích cực ủng hộ xây dựng cộng đồng ASEAN hướng về nhân dân, đoàn kết, gắn bó, tương trợ lẫn nhau, hợp tác cùng phát triển, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước, giữ vững hòa bình, ổn định, tuân thủ luật pháp quốc tế và các thỏa thuận chung.Theo ông Nguyễn Phú Bình, Chủ nhiệm Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, các hoạt lOMoARcPSD|18034504 động đối ngoại nhân dân không những làm tăng cường quan hệ hữu nghị của Việt Nam với các nước mà còn góp phần củng cố tình cảm và sự gắn kết cộng đồng người Việt ở nước sở tại với quê hương, đất nước. Trên thực tế, công tác đối ngoại nhân dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài có mối liên quan mật thiết với nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Vì vậy, cần kết hợp và xây dựng mối quan hệ phối hợp thường xuyên giữa các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ tương đồng và trong đó, MTTQ Việt Nam từ Trung ương đến địa phương nên là cơ quan điều phối các hoạt động chung này. Phát biểu tại buổi Tọa đàm, Phó Chủ tịch Phùng Khánh Tài khẳng định, những ý kiến tâm huyết của các đại biểu có tính chuyên sâu, tổng kết thực tiễn cao và cung cấp thông tin toàn diện, đa chiều để phục vụ cho việc nghiên cứu, đề xuất nhiệm vụ, giải pháp triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về lĩnh vực đối ngoại, trọng tâm là đối ngoại nhân dân. Phó Chủ tịch Phùng Khánh Tài mong muốn, cán bộ Mặt trận các cấp cần tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm trong tuyên truyền, vận động thực hiện công tác đối ngoại nhân dân. Đồng thời, cần có định hướng, giải pháp, sản phẩm truyền thông để nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, khai thác tối đa chức năng, lợi thế của internet, các cơ quan truyền thông, báo chí cần vào cuộc mạnh mẽ, đẩy mạnh đăng tải các tin, bài liên quan đến đối ngoại và kiều bào. Từ đó, nêu cao vai trò, tầm quan trọng của đối ngoại nhân dân trong thời kỳ mới. Để tiếp tục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của đối ngoại nhân dân, Phó Chủ tịch Phùng Khánh Tài khẳng định, cần tiếp tục coi trọng việc nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về đối ngoại nhân dân và vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đối ngoại nhân dân trong tình hình mới. Thời gian qua, việc cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác đối ngoại nhân dân vẫn còn chưa đầy đủ, chưa cụ thể. Theo Phó Chủ tịch Phùng Khánh Tài, điều này làm hạn chế rất nhiều sức mạnh của kênh đối ngoại nhân dân, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tác động đến mọi lĩnh vực sản xuất, đời sống trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng cần tiếp tục tập trung triển khai một cách thực chất, có lộ trình cụ thể trong thời gian tới đây. Về tổng thể, theo Phó Chủ tịch Phùng Khánh Tài cần hình thành cơ chế để thống nhất nội dung, hình thức, phương pháp triển khai, phân công phối hợp công tác giữa kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.“Làm tốt việc này thì sức mạnh của mặt trận ngoại giao sẽ ngày càng lớn mạnh”, Phó Chủ tịch Phùng Khánh Tài nhấn mạnh và đề nghị Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Ngoại giao với phạm vi, lợi thế của mình nghiên lOMoARcPSD|18034504 cứu, giới thiệu các đối tác nước ngoài có vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ tương đồng với MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên để mở rộng quan hệ và thiết lập đối tác, đồng thời tham gia vào các cơ chế hợp tác đa phương trên thế giới và trong khu vực nhằm tránh chồng chéo hoặc bỏ trống những cơ chế quan trọng mà Việt Nam nhất thiết cần có đại diện tham gia. Phó Chủ tịch Phùng Khánh Tài cũng đề nghị, cán bộ Mặt trận các cấp cần tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm trong tuyên truyền, vận động thực hiện công tác đối ngoại nhân dân. Đồng thời, cần có định hướng, giải pháp, sản phẩm truyền thông để nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, khai thác tối đa chức năng, lợi thế của internet, các cơ quan truyền thông, báo chí cần vào cuộc mạnh mẽ, đẩy mạnh đăng tải các tin, bài liên quan đến đối ngoại và kiều bào. Từ đó, nêu cao vai trò, tầm quan trọng của đối ngoại nhân dân trong thời kỳ mới. Trên cơ sở các ý kiến, kiến nghị tại buổi toạ đàm, Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Phùng Khánh Tài thống nhất đề xuất Ban bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị mới về Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới. 2.Một số kết quả đã đạt được trên mặt trận ngoại giao 2.1 Về thành tựu Công tác đối ngoại, Đại hội đã đánh giá: “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khuôn khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ và toàn diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực thi có hiệu quả cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại; tăng cường công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Hội nhập quốc tế tiếp tục được triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh thủ được sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao”. Công tác đối ngoại đã sát cánh cùng cả hệ thống chính trị và toàn dân thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị lớn trong cả nhiệm kỳ qua. Tuy nhiên, công tác đối ngoại trong những năm tới sẽ diễn ra trong bối cảnh chiến lược mới. Văn kiện chỉ ra: Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, cả thách thức và cơ hội đều đan xen, trong đó thách thức lớn hơn. Những chuyến biến của cục diện thế giới và khu vực tác động nhiều mặt tới Việt Nam do chúng ta ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới và khu vực. Nhiệm vụ đối ngoại do đó cũng càng trở nên quan trọng và nặng nề, vừa nhằm thích ứng và ứng phó với lOMoARcPSD|18034504 bối cảnh thế giới và khu vực biến động mạnh, vừa phục vụ những mục tiêu phát triển chiến lược của đất nước giai đoạn tới. Trong bối cảnh đó, Đại hội đã khẳng định rõ Việt Nam cần tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Đây là nội dung hết sức quan trọng, xuyên suốt trong đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ Đổi mới. Độc lập tự chủ vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng của đối ngoại Việt Nam. Chỉ có độc lập tự chủ, chúng ta mới có thể hội nhập quốc tế thành công, phát huy đầy đủ thế mạnh, phục vụ lợi ích quốc gia-dân tộc, xử lý được các mối quan hệ quốc tế phức tạp trong môi trường đầy bất định, khó lường với nhiều cơ hội và thách thức đan xen như hiện nay. 2.2 Về thách thức Cạnh tranh nước lớn gia tăng: Các nước lớn ở khu vực như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ với quốc lực được cải thiện đều đề cao tinh thần nước lớn củng cố và mở rộng khu vực vùng ảnh hưởng của mình, từ đó làm cho cạnh tranh nước lớn trong khu vực tăng lên. Xu hướng gia tăng cạnh tranh quyền lực và ảnh hưởng giữa các nước lớn, kèm theo đó là sự tập hợp lực lượng xoay quanh trục quan hệ Mỹ - Trung sẽ đặt Việt Nam vào “thế kẹt,” theo đó chính trị cường quyền sẽ phát triển ở mức mới, đấu tranh và hợp tác nước lớn gây tác động trực tiếp đến nước ta (nhất là khả năng nước lớn mặc cả trên lưng nước ta), từ đó làm cho sức ép phải lựa chọn bên sẽ nhiều hơn, cả về thời điểm và lĩnh vực, nhu cầu duy trì thống nhất và đồng thuận nội bộ trong việc nhìn nhận các đối tượng/đối tác của ta cũng lớn hơn. Nguy cơ lệ thuộc vào Trung Quốc gia tăng: Sức ép trực tiếp từ sự trỗi dậy của Trung Quốc, đưa nước ta vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc về địa chiến lược, tăng sự lệ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc cũng như chịu sức ép lớn hơn từ việc Trung Quốc tăng cường phát huy sức mạnh mềm trong khu vực. Vai trò ASEAN có nguy cơ suy giảm: Dưới tác động của xu hướng dân túy, bảo hộ, nhiều nước ASEAN một mặt ủng hộ thương mại tự do và hội nhập kinh tế quốc tế nhưng có chủ trương quay về bên trong mạnh hơn, giảm cam kết với các cơ chế đa phương khu vực, từ đó góp phần làm suy giảm vai trò của ASEAN. Kết hợp với sự cạnh tranh ảnh hưởng và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn đang tăng lên, việc giữ vững đoàn kết và đồng thuận nội bộ và vai trò trung tâm của ASEAN cũng sẽ khó khăn hơn, theo đó thành viên ASEAN tiếp tục bị các nước lớn phân hóa, tổ chức ASEAN tiếp tục bị giảm vai trò và tính hiệu quả khi các nước lớn tăng cường đấu tranh và hợp tác trực tiếp với nhau và giảm cam kết vào các tiến trình đa phương, coi nhẹ vai trò của ASEAN trên tư cách là chủ thể “dẫn dắt” các tiến trình đa phương về chính trị và an ninh khu vực. Sản xuất, thương mại, đầu tư có khả năng bị ảnh hưởng; cải cách thể chế kinh tế và hội nhập quốc tế có nguy cơ chậm lại: Đối với kinh tế trong nước, các ngành hàng xuất lOMoARcPSD|18034504 khẩu chủ lực như dệt may, da giầy, nông-thủy sản có thể bị tác động nhiều nhất, bởi đây là nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn sang Mỹ và châu Âu (chiếm 40% thị phần), dễ bị áp đặt các biện pháp bảo hộ, rào cản kỹ thuật. Về đầu tư, xu hướng di chuyển sản xuất về nước của các tập đoàn hàng đầu, nhất là Mỹ, có thể hạn chế việc mở rộng đầu tư ở Việt Nam, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn, công nghệ của các tập đoàn hàng đầu. Trong khi đó, trì trệ trong một số liên kết kinh tế khu vực quan trọng như hiệp định TPP có thể khiến Việt Nam lỡ cơ hội mở rộng thị trường và tiếp cận công nghệ do giá trị của nền kinh tế Việt Nam gắn với TPP đã bị giảm đi. 2.3 Về phương hướng Một là, “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Đây là bước phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng ta, vừa là sự nhìn nhận vai trò quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm vụ rất nặng nề cho giai đoạn tới. “Vai trò tiên phong của đối ngoại” không chỉ có ngoại giao mà cả quốc phòng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự phối hợp liên ngành dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà nước. Như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28 (tháng 8/2013): Trong thời bình, công tác đối ngoại sẽ tiếp tục là một mặt trận quan trọng, cùng với quốc phòng an ninh đóng vai trò tiên phong, góp phần bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước. Hai là, đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Không những vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII còn xác định đây là một trong những quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng phát triển của đất nước. Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi mà thúc đẩy lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Ba là, Đại hội nêu rõ nhiệm vụ “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” nghĩa là hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực, các tầng nấc khác nhau với mức độ tham gia, đóng góp thực chất hơn, cam kết và đan xen lợi ích cao hơn. Hội nhập quốc tế cũng phải bám sát, gắn chặt và phục vụ trực tiếp nhiệm vụ phục vụ phát triển với việc “tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế-xã hội”. lOMoARcPSD|18034504 Bốn là, tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những bước phát triển mới. Về song phương, chúng ta cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy”. Đối ngoại đa phương cần “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế”, và “trong những vấn đề, các cơ chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể”. Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận và thực tiễn từ Đại hội XII và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư (8/8/2018). Điều này phù hợp với thế và lực mới của đất nước cũng như những đòi hỏi thực tiễn mới đối với công tác đối ngoại. Tư duy về không gian và các trọng điểm chiến lược của đất nước cũng được thể hiện rất rõ, đó là các nước láng giềng, khu vực tiểu vùng Mekong, ASEAN, châu Á – Thái Bình Dương, các nước lớn và các đối tác quan trọng… Năm là, đối ngoại được giao trọng trách tham gia cùng quốc phòng, an ninh và cả hệ thống chính trị vào việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa. Về an ninh quốc gia, văn kiện nêu rõ “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Về bảo vệ chủ quyền, biển đảo: “Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc và Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”. Đối ngoại cũng phải “tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu, chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ”. Sáu là, văn kiện khẳng định sự quan tâm và quan điểm của Đảng và Nhà nước về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Văn kiện nêu rõ “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh… Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia – dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đây sẽ là phương hướng để xây dựng những chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ, tạo thuận lợi cho bà con hội nhập với xã hội sở tại, đồng thời tiếp tục giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc và đóng góp vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảy là, văn kiện nêu: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Tính “toàn diện” thể hiện trên các chủ thể, địa bàn, cả song phương và đa phương, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn lOMoARcPSD|18034504 hóa, thông tin đối ngoại, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài, bảo hộ công dân…, qua đó phát huy hiệu quả sức mạnh của tất cả các binh chủng. Đặc biệt, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển của đất nước, ngoại giao sẽ không chỉ triển khai các nhiệm vụ chính trị lớn ở tầm vĩ mô, mà còn phục vụ trực tiếp các địa phương, doanh nghiệp, người dân, tranh thủ mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện để mở rộng địa bàn, thị trường, tranh thủ nguồn ngoại lực cho phát triển của đất nước. Đây sẽ là trọng tâm lớn của công tác đối ngoại những năm tới. Tính “hiện đại” của ngoại giao được thể hiện ở việc xây dựng ngành, phát triển và nâng tầm phương thức triển khai công tác đối ngoại, tổ chức bộ máy, cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang thiết bị… đạt trình độ khu vực và vươn tầm quốc tế, qua đó phục vụ tốt mục tiêu phát triển của đất nước. Tám là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Văn kiện Đại hội XIII đã nêu “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, tính chuyên nghiệp, hiện đại, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”. Qua đó nhấn mạnh phẩm chất, năng lực của cán bộ đối ngoại là yếu tố quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ ngày một cao hơn trong tình hình mới. Downloaded by vu ga ([email protected]) lOMoARcPSD|18034504 C.KẾT BÀI Hội nhập quốc tế, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, thu hút thêm nhiều nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. goại giao kinh tế phục vụ phát triển được tăng cường, tạo môi trường thuận lợi và trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội của các ngành, các địa phương và doanh nghiệp. Công tác tham mưu, nghiên cứu các vấn đề kinh tế, chiến lược phát triển được đẩy mạnh, với nhiều báo cáo tham mưu có chất lượng, đưa ra được nhiều khuyến nghị chính sách kịp thời, khả thi. Các hoạt động ngoại giao kinh tế được lồng ghép hiệu quả trong các hoạt động đối ngoại cấp cao; góp phần đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, lao động, du lịch, khoa học công nghệ, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp và địa phương, xử lý thỏa đáng một số vấn đề kinh tế-thương mại nảy sinh trong quan hệ với các nước. Việt Nam ngày càng nâng tầm hiệu quả và vai trò của đối ngoại đa phương, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương; từng bước phát huy vai trò hòa giải, góp phần vào hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Ta đã khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như ASEAN, ASEM, APEC, Liên Hợp Quốc, G20, WEF và các cơ chế tiểu vùng Mekong; để lại nhiều dấu ấn quan trọng với việc tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2017, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) năm 2018. Ngay cả trong bối cảnh đại dịch COVID19, ta đã chủ động, linh hoạt phát huy tốt vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc 2020-2021, vừa tổ chức thành công nhiều hoạt động dấu ấn, vừa đề xuất nhiều sáng kiến có ý nghĩa, kịp thời, đáp ứng quan tâm chung và được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Với việc chủ động thúc đẩy và đứng ra tổ chức cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ-Triều Tiên lần thứ 2 (2/2019) tại Hà Nội, ta đã quảng bá mạnh mẽ hình ảnh một đất nước Việt Nam khát vọng hòa bình, đổi mới, phát triển, chứng minh được năng lực đóng góp vào các vấn đề an ninh và hòa bình toàn cầu. Các hoạt động đối ngoại đa phương cũng góp phần thắt chặt thêm quan hệ của ta với các đối tác, đồng thời tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài, mở rộng không gian phát triển và nâng cao vị thế của đất nước. Downloaded by vu ga ([email protected]) lOMoARcPSD|18034504 D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Lịch sử Đảng 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, trang 20. 3. Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa XII (10-2017). 4. Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (5-2016). 5. Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII (10-2016). Downloaded by vu ga ([email protected])
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan