TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - TIN HỌC
THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
BÀI TIỂU LUẬN
KẾT THÚC HỌC PHẦN HỌC KỲ II
NĂM HỌC 2020-2021
MÔN THI: LUẬT THƯƠNG MẠI
Sinh viên thực hiện - MSSV:
- Nguyễn Phương Duy – 18DH380472
- Lê Thành Đạt – 18DH380448
- Lê Hoàng Đức – 18DH380095
- Nguyễn Phú Quý – 18DH380439
Thành phố Hồ Chí Minh
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
STT
TÊN
MSSV
1
NGUYỄN PHƯƠNG DUY
18DH380472
2
LÊ THÀNH ĐẠT
18DH380448
3
LÊ HOÀNG ĐỨC
18DH380095
4
NGUYỄN PHÚ QUÝ
18DH380439
CHUYÊN ĐỀ:
Hoạt động đại lý thương mại trong hoạt động trung gian thương mại :
Quy định pháp luật
Bất cập
Thực tiễn xét xử
Pháp luật nước ngoài
Quan điểm các tác giả trong khoa học pháp lý
Quan điểm cá nhân
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
I. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
1. Khái niệm hoạt động trung gian thương mại:
- Căn cứ khoản 11 Điều 3 Luật thương mại năm 2005: “Các hoạt động trung gian
thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho
một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương
nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại.”
2. Các hoạt động trung gian thương mại:
- Có 4 hình thức:
Đại diện cho thương nhân
Môi giới thương mại
Ủy thác mua bán hàng hóa
Đại lý thương mại
3. Khái niệm dại lý thương mại:
- Căn cứ Điều 166 Luật thương mại năm 2005: “Đại lý thương mại là hoạt động
thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh
chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao
đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.”
4. Đặc điểm đại lý thương mại:
Chủ thể: Bên giao đại lý và bên đại lý.
Điều kiện: Cả hai bên đều phải là thương nhân.
Trong quan hệ thương mại này, bên đại lý sẽ nhân danh chính mình để giao
dịch với khách hàng.
Phạm vi: Bên đại lý sẽ theo thỏa thuận, thực hiện bán hàng cho bên giao đại lý
hoặc mua hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ giao đại lý cho
khách hàng.
Hình thức pháp lý: Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
5. Bên giao đại lý và bên đại lý (Chủ thể):
- Căn cứ Điều 167 Luật thương mại năm 2005:
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
1. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua
hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý
cung ứng dịch vụ.
2. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng
để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ.
6. Hợp đồng đại lý:
- Căn cứ Điều 168 Luật thương mại năm 2005: “Hợp đồng đại lý phải được lập thành
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.”
7. Các hình thức đại lý:
- Căn cứ Điều 169 Luật thương mại năm 2005:
1. Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn
vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao
đại lý.
2. Đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên
giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc
cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định.
3. Tổng đại lý mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ là hình thức đại lý mà bên đại
lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý
trực thuộc. Các đại lý trực thuộc hoạt động dưới sự quản lý của tổng đại lý và
với danh nghĩa của tổng đại lý.
8. Quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý và bên đại lý:
- Căn cứ Điều 170, 172, 173, 174, 175 Luật thương mại năm 2005:
Điều 170. Quyền sở hữu trong đại lý thương mại
Bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hoá hoặc tiền giao cho bên đại lý.
Điều 172. Quyền của bên giao đại lý
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên giao đại lý có các quyền sau đây:
1. Án định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách
hàng;
2. Ấn định giá giao đại lý;
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
3. Yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật;
4. Yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng đại lý;
5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý.
Điều 173. Nghĩa vụ của bên giao đại lý
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên giao đại lý có các nghĩa vụ sau đây:
1. Hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý thực hiện hợp đồng
đại lý;
2. Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất
lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ;
3. Trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý;
4. Hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết
thúc hợp đồng đại lý;
5. Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý, nếu
nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây
ra.
Điều 174. Quyền của bên đại lý:
Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên đại lý có các quyền sau đây:
1. Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp
quy định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này;
2. Yêu cầu bên giao đại lý giao hàng hoặc tiền theo hợp đồng đại lý; nhận lại
tài sản dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý;
3. Yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện
khác có liên quan để thực hiện hợp đồng đại lý;
4. Quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng đối với đại
lý bao tiêu;
5. Hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý
mang lại.
Điều 175. Nghĩa vụ của bên đại lý
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên đại lý có các nghĩa vụ sau đây:
1. Mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng theo giá hàng hóa, giá
cung ứng dịch vụ do bên giao đại lý ấn định;
2. Thực hiện đúng các thỏa thuận về giao nhận tiền, hàng với bên giao đại lý;
3. Thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của
pháp luật;
4. Thanh toán cho bên giao đại lý tiền bán hàng đối với đại lý bán; giao hàng mua
đối với đại lý mua; tiền cung ứng dịch vụ đối với đại lý cung ứng dịch vụ;
5. Bảo quản hàng hoá sau khi nhận đối với đại lý bán hoặc trước khi giao đối với
đại lý mua; liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua
bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ trong trường hợp
có lỗi do mình gây ra;
6. Chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý và báo cáo tình hình hoạt động
đại lý với bên giao đại lý;
7. Trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết
hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ
nhất định thì phải tuân thủ quy định của pháp luật đó.
9. Thù lao đại lý:
- Căn cứ Điều 168 Luật thương mại năm 2005:
1. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, thù lao đại lý được trả cho bên đại lý dưới
hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá.
2. Trường hợp bên giao đại lý ấn định giá mua, giá bán hàng hóa hoặc giá cung
ứng dịch vụ cho khách hàng thì bên đại lý được hưởng hoa hồng tính theo tỷ lệ
phần trăm trên giá mua, giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ.
3. Trường hợp bên giao đại lý không ấn định giá mua, giá bán hàng hoá hoặc giá
cung ứng dịch vụ cho khách hàng mà chỉ ấn định giá giao đại lý cho bên đại lý
thì bên đại lý được hưởng chênh lệch giá. Mức chênh lệch giá được xác định là
mức chênh lệch giữa giá mua, giá bán, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng so
với giá do bên giao đại lý ấn định cho bên đại lý.
4. Trường hợp các bên không có thoả thuận về mức thù lao đại lý thì mức thù lao
được tính như sau:
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
a) Mức thù lao thực tế mà các bên đã được trả trước đó;
b) Trường hợp không áp dụng được điểm a khoản này thì mức thù lao đại lý là
mức thù lao trung bình được áp dụng cho cùng loại hàng hoá, dịch vụ mà bên
giao đại lý đã trả cho các đại lý khác;
c) Trường hợp không áp dụng được điểm a và điểm b khoản này thì mức thù lao
đại lý là mức thù lao thông thường được áp dụng cho cùng loại hàng hoá, dịch
vụ trên thị trường.
10. Thanh toán trong đại lý:
- Căn cứ Điều 176 Luật thương mại năm 2005: “ Trừ trường hợp có thoả thuận khác,
việc thanh toán tiền hàng, tiền cung ứng dịch vụ và thù lao đại lý được thực hiện theo
từng đợt sau khi bên đại lý hoàn thành việc mua, bán một khối lượng hàng hoá hoặc
cung ứng một khối lượng dịch vụ nhất định.”
11. Thời hạn đại lý:
- Căn cứ Điều 177 Luật thương mại năm 2005:
1. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, thời hạn đại lý chỉ chấm dứt sau một thời
gian hợp lý nhưng không sớm hơn sáu mươi ngày, kể từ ngày một trong hai bên
thông báo bằng văn bản cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng đại lý.
2. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu bên giao đại lý thông báo chấm dứt hợp
đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì bên đại lý có quyền yêu cầu bên
giao đại lý bồi thường một khoản tiền cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho
bên giao đại lý đó.
- Giá trị của khoản bồi thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian
nhận đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý. Trong trường
hợp thời gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được tính là một tháng thù lao
đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý.
3. Trường hợp hợp đồng đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của bên đại lý
thì bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian
mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý.
II.BẤT CẬP
Mặc dù có những điểm tiến bộ so với Luật thương mại 1997, nhưng sau nhiều năm
tồn tại, quy định về thời hạn đại lý tại điều 177 đã bộc lội nhiều hạn chế. Là hoạt động
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
trung gian thương mại, đại lý thương mại có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, pháp luật
quy định về hoạt động này vẫn còn chưa đáp ứng được những nhu cầu phát triển trên
thực tế mặc dù hoạt động đại lý được quy định trong Luật thương mại 2005 cũng như
nhiều luật chuyên ngành như hoạt động đại lý xăng dầu, hoạt động đại lý tàu biển, đại
lý lữ hành du lịch.
Thứ nhất, việc tự do, mở rộng thêm các trường hợp đơn phương chấm dứt mà
không có hình thức bảo vệ phù hợp thì lợi ích các bên dễ dàng bị ảnh hưởng .
Luật thương mại 2005 quy định mở rộng các trường hợp đơn phương chấm dứt
hợp đồng đại lý thương mại. Theo đó, nếu không có thỏa thuận khác, các bên có
quyền chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại mà chỉ cần thông báo cho bên kia
bằng văn bản trong thời hạn quy định. Cụ thể, pháp luật quy định thời hạn báo
trước việc đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý ít nhất sáu mươi ngày để bên
kia có thời gian chuẩn bị, điều chỉnh lại hoạt động đại lý của mình trước khi
chấm dứt hoàn toàn quan hệ đại lý. Quy định cụ thể thời hạn báo trước cũng
như hình thức thông báo nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm khi
một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn đại lý. Có thể thấy, quy
định tự do đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý của các bên trong nhiều
trường hợp sẽ làm ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của bên kia, đồng thời quy định
này cũng khiến cho quan hệ đại lý không còn được vững chắc, gắn bó đúng như
bản chất của nó, thương nhân cũng thiếu sự tin tưởng khiến cho việc thúc đẩy
hoạt động thương mại thông qua đại lý thương mại cũng bị ảnh hưởng phần
nào.
Thứ hai, về quyền lợi của bên giao đại lý khi thông báo chấm dứt thời hạn đại
lý đúng pháp luật : Khoản 2 Điều 177 quy định về hậu quả pháp lý trong trường
hợp bên giao đại lý thông báo chấm dứt thời hạn đại lý đúng thời hạn báo trước
tại khoản 1. Tuy nhiên, về việc đòi bồi thường của bên đại lý khi bên giao đại
lý thông báo chấm dứt hợp đồng quy định chưa hợp lý, chưa bao quát được tất
cả các trường hợp. Trường hợp này bên giao đại lý khi đơn phương chấm dứt
hợp đồng đai lý chưa được quy định cụ thể. Dễ sinh nhầm lần rằng trong mọi
trường hợp bên giao đại lý đơn phương chấm dứt hợp đông đại lý đều phải bồi
thường cho bên đại lý. Trên thực tế, không phải trong bất cứ trường hợp nào
bên giao đại lý yêu cầu chấm dứt hợp đồng cũng là vi phạm hợp đồng đã kí. Có
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
trường hợp đồng đại lý không xác định thời hạn, trong trường hợp không có vi
phạm nhưng muốn đơn phương chấm dứt, trong trường hợp bên giao đại lý
chấm dứt thời hạn đại lý không vi phạm hợp đồng đã ký như ví dụ trên, rõ ràng
là quyền lợi của bên giao đại lý cũng cần được bảo vệ, tạo nên sự công bằng
giữa các chủ thể tron quan hệ thương mại hay đơnphương chấm dứt vì vi phạm
của bên đại lý thì bên đại lý phải bồi thường cho bên giao đại lý ( bên có lỗi
phải trách nhiệm do lỗi của mình gây ra)… Như vậy, với mỗi trường hợp cần
quy định rõ rằng , cụ thể hơn về mức bồi thường thiệt hại để đảm bảo tính
khách quan, công bằng.
Thứ ba, về quyền lợi của bên đại lý khi thông báo chấm dứt thời hạn đại lý
đúng pháp luật: Khoản 3 Điều 177 Luật thương mại năm 2005 quy định:
“ Trường hợp hợp đồng đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của bên đại lý
thì bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian
mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý”. Quy định như vậy chưa thực sự
hợp lý, chưa bảo vệ được quyền lợi của bên đại lý trong trường hợp bên giao
đại lý không thực hiện, thực hiện không đủ, thực hiện không đúng nghĩa vụ
buộc bên đại lý phải chấm dứt hợp đồng. Xét thấy với một bên đại lý so với bên
giao đại lý thì khi bên đại lý đưa ra quyết định chấm dứt đại lý có thể sẽ không
ảnh hưởng đến bên giao đại lý nhưng sẽ ảnh hưởng do quyết định của chính bên
đại lý đưa ra. Vì vậy, quy định này vẫn chưa quy định rõ về các trường hợp hay
quyền và nghĩa vụ của bên đại lý trong trường hợp này.
Thư tư, về mức bồi thường khi bên giao đại lý đơn phương chấm dứt hợp
đồng : Điều 177 Luật thương mại 2005 quy định “ Giá trị của khoản bồi
thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý cho
mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý. Trong trường hợp thời
gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được tính là một tháng thù lao
đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý”. Cách quy định giá trị khoản bồi
thường như vậy mang tính chủ quan, không phù hợp với nguyên tắc tính bồi
thường thiệt hại. Hơn nữa, trên thực tế quan hệ đại lý thường được thực hiện
trong thời gian dài và để thực hiện dịch vụ đại lý cho bên giao đại lý, bên đại lý
có thể phải bỏ khá nhiều chi phí. Nếu bên giao đại lý đơn phương chấm dứt hợp
đồng đại lý sẽ gây thiệt hại cho bên đại lý. Ngoài ra, với từng hợp đồng đại lý
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
khác nhau thì quy mô đại lý khác nhau sẽ dẫn đến quyền lợi của các bên bị xâm
phạm sẽ khác nhau; nên việc quy định khoản bồi thường như trên khi gắn với
các trường hợp thực tế có thể chưa phù hợp.
Nguồn Bộ phận tư vấn pháp luật Doanh nghiệp - Công ty luật Minh Khuê
III. THỰC TIỄN XÉT XỬ
1. Nhầm lẫn giữa hợp đồng đại lý với hợp đồng phân phối hàng hóa trên thực tế
Về bản chất, hợp đồng đại lý là hợp đồng cung ứng dịch vụ trung gian thương mại,
theo đó bên trung gian là bên đại lý nhân danh mình thực hiện việc mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý nhằm hưởng thù lao, quyền sở hữu hàng hóa vẫn
thuộc về bên giao đại lý. LTM 2005 không quy định về hoạt động phân phối, nhưng
trên thực tiễn kinh doanh của thương nhân thì xuất hiện loại hợp đồng này. Trong loại
hợp đồng này, nhà phân phối hoạt động độc lập, mua hàng hóa từ nhà sản xuất và nhân
danh chính mình bán lại hàng hóa đó trong phạm vi hợp đồng dài hạn được ký kết giữa
nhà phân phối và nhà sản xuất. Nhà phân phối trong trường hợp này là chủ sở hữu của
hàng hóa, chịu trách nhiệm về mọi rủi ro đối với hàng hóa đó. Việc phân định giữa
hợp đồng đại lý và hợp đồng phân phối phụ thuộc vào các điều khoản cụ thể mà các
bên thỏa thuận có tính quyết định bản chất của hai loại hợp đồng này. Trong hợp đồng
phân phối chứa đựng các điều khoản xác lập quyền và nghĩa vụ của bên mua và bên
bán, cơ bản phản ánh tính độc lập về mặt pháp lý của các bên, sự độc lập này vẫn tồn
tại ngay cả trong trường hợp các bên có những thỏa thuận mà theo đó nhà phân phối
có nghĩa vụ tuân thủ một số chỉ dẫn nhất định của nhà sản xuất liên quan tới phương
thức hoạt động nhưng không ảnh hưởng đến quyền định đoạt hàng hóa của nhà phân
phối. Có lẽ chính những thỏa thuận này làm cho các bên nhầm lẫn giữa hợp đồng phân
phối hàng hóa với hợp đồng đại lý trong quá trình giao kết hợp đồng.
Bản chất của hợp đồng phân phối chính là hợp đồng mua bán có điều kiện, thế nên,
nó có dấu hiệu của quan hệ đại lý, nhưng đó là mua đứt bán đoạn. Tranh chấp hợp
đồng đại lý thể hiện trong quyết định giám đốc thẩm số 05/2011/KDTM-GĐT ngày
20/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là một ví dụ về sự nhầm
lẫn giữa hợp đồng phân phối hàng hóa với hợp đồng đại lý. Hợp đồng có nội dung như
sau: Công ty Cổ phần (CTCP) Chữ thập đỏ Việt Nam có quan hệ hợp đồng đại lý
thuốc tân dược (Reamberin, Cycloferon viên và ống) với các công ty: Công ty Trách
nhiệm hữu hạn (TNHH) Thương mại dược phẩm Thống Nhất, CTCP Dược phẩm Y
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
Phương, CTCP Dược phẩm Thanh Phương, CTCP Dược Hòa Bình. Mặc dù hình thức
các bên ghi trong hợp đồng là đại lý nhưng các điều khoản trong hợp đồng lại trái với
bản chất của hoạt động đại lý như chứa đựng thỏa thuận bên đại lý là chủ sở hữu hàng
hóa, bên đại lý phải chịu rủi ro do hàng hóa mất mát, hư hỏng… Bên cạnh đó, một số
thỏa thuận khác mang tính chất là các chỉ dẫn của nhà sản xuất đã làm các bên lầm lẫn
mà xác định đây là hợp đồng đại lý. Các bên thỏa thuận cụ thể về mức chiết khấu, tiền
thưởng khi bán hàng vượt doanh số, mức phạt khi không đạt 100% giá trị hợp đồng…
Sở dĩ có sự nhầm lẫn đó vì những thỏa thuận này thường có trong hợp đồng đại lý
nhằm khuyến khích nỗ lực bán hàng của bên đại lý. Nếu đây chỉ là hợp đồng mua bán
thông thường thì các bên không nhất thiết phải đặt ra các điều khoản mang tính chất
chỉ dẫn nghiêm ngặt giống như trên. Tuy nhiên, vì đây là hợp đồng phân phối – hợp
đồng mua bán có điều kiện nên bên phân phối phải tuân thủ những chỉ dẫn nhất định
của nhà sản xuất liên quan đến phương thức hoạt động. Thực tế xét xử vụ án này các
tòa sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm đều giải quyết theo hướng xác định đây là
tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.
Tranh chấp thể hiện trong bản án số 80/2008/DSPT ngày 17/3/2008của Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao cũng là một ví dụ khác. Nội dung bản án thể hiện ông
Trần Văn Dũng đã ký kết hợp đồng đại lý độc quyền với Công ty TNHH nước giải
khát Coca-Cola Việt Nam. Theo hợp đồng đại lý này, ông Dũng được Công ty CocaCola chỉ định là đại lý độc quyền tiếp thị và phân phối các sản phẩm cho Công ty
Coca-Cola Việt Nam, ngược lại ông Dũng được hưởng hoa hồng cùng các quyền lợi
khác, đồng thời ông Dũng phải có các nghĩa vụ mua hàng và thanh toán các khoản tiền
hàng theo đúng quy định. Dựa vào những nội dung trên, đây là hợp đồng phân phối
hàng hóa (hợp đồng mua bán có điều kiện) chứ không phải là hợp đồng đại lý như các
bên ghi trong hợp đồng. Ban đầu, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là tranh chấp mua
bán hàng hóa . Sau đó, tại cấp phúc thẩm tuyên rằng :
Cấp sơ thẩm đã xác định quan hệ tranh chấp trong vụ kiện này là “Tranh chấp
hợp đồng mua bán” và áp dụng Khoản 3 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự để xét
xử là không đúng, bởi lẽ ông Trần Văn Dũng với Công ty nước giải khát CocaCola Việt Nam có ký hợp đồng kinh tế đại lý độc quyền. Theo hợp đồng đại lý
này, ông Dũng được Công ty Coca-Cola Việt Nam chỉ định là đại lý độc quyền
tiếp thị và phân phối các sản phẩm cho Công ty Coca-Cola Việt Nam sản xuất,
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
ngược lại ông Dũng được hưởng hoa hồng phân phối cùng các quyền lợi khác.
Tại phiên tòa phúc thẩm hai bên đều thừa nhận đây là hợp đồng đại lý không
phải hợp đồng mua bán.
Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã dựa vào tên gọi của hợp đồng và lời khai của các
bên giao kết hợp đồng để xác định loại hợp đồng. Trong trường hợp này, cụ thể là lời
khai của đương sự thống nhất với nhau nhưng lại khác với thỏa thuận trong hợp đồng
thì ngoài xem xét hai vấn đề trên, Tòa án còn phải xem xét cả quá trình thực hiện hợp
đồng để xác định đây là hợp đồng đại lý hay mua bán hàng hóa. Theo đó cần xác định
trong quá trình thực hiện hợp đồng có sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa hay
không. Tuy nhiên, Tòa án đã không xem xét đến vấn đề này.
Qua thực tiễn hai vụ việc trên cho thấy không chỉ các bên trong hợp đồng nhầm lẫn
hình thức của hoạt động mình đang thực hiện mà chính các cơ quan tài phán – được
mặc định là phải am hiểu các quy định của pháp luật hơn cũng chưa rõ ràng trong việc
xác định. Thiết nghĩ, khi xét xử, Tòa án phải dựa vào bản chất của các thỏa thuận cũng
như cả quá trình thực hiện hợp đồng để xác định cho đúng loại tranh chấp. Một khi các
bên đã có các thỏa thuận mua bán và thực hiện chuyển quyền sở hữu trên thực tế thì
phải xác định quyền và nghĩa vụ của các bên như là giữa bên mua và bên bán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thực ra, nếu phải thực hiện hợp đồng đại lý theo đúng với các đặc điểm của nó, bên
giao đại lý là bên có nhiều nguy cơ rủi ro hơn cả do tính chất của việc sở hữu hàng
hóa . Bên giao đại lý có thể đối mặt với các rủi ro sau:
Thứ nhất, bên đại lý bán xong hàng hóa nhưng không thanh toán lại tiền cho
bên giao. Nguy cơ này hoàn toàn có thể xảy ra nếu bên đại lý có hành vi bội tín,
không tôn trọng đạo đức kinh doanh.
Thứ hai, bên giao đại lý phải gánh chịu những rủi ro về mất mát, hư hỏng của
hàng hóa. Bên giao là chủ sở hữu nhưng trên thực tế không phải là người chiếm
hữu thế nên bên giao đại lý không thể trực tiếp quản lý hàng hóa của mình.
Hàng hóa trong sự quản lý của bên đại lý có thể bị tổn thất nếu có những rủi ro
xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc do sự thiếu thiện chí của bên đại lý trong
bảo quản hàng hóa dẫn đến cháy nổ, quá hạn sử dụng…Và một khi có tổn thất,
về nguyên tắc bên giao đại lý phải gánh chịu vì hàng hóa vẫn thuộc sở hữu của
bên giao đại lý.
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
Trên đây là hai lý do mà các thương nhân e ngại khi giao kết loại hợp đồng
này. Do đó, khi soạn thảo hợp đồng thương nhân giao đại lý đã đưa ra các
điều khoản có mục đích đẩy rủi ro sang cho bên đại lý. Vậy, việc các bên
thỏa thuận các điều khoản mang bản chất mua bán đứt đoạn trong hợp đồng
đại lý không hẳn là nhầm lẫn do thiếu hiểu biết mà là sự nhầm lẫn một cách
có chủ đích của thương nhân giao đại lý. Bên đại lý có thể không biết bất lợi
này, hoặc biết nhưng vẫn chấp nhận vì họ không có quá nhiều lựa chọn: hoặc
tiếp tục làm đại lý để nhận thù lao hoặc không tiếp tục giao kết với bên giao
đại lý nữa.
Mỗi hoạt động thương mại đều tồn tại những ưu và nhược điểm riêng. Đại lý thương
mại cũng không phải là ngoại lệ. Một khi lựa chọn kênh phân phối nào thì thương
nhân phải cân nhắc các yếu tố như đặc tính hàng hóa, chiến lược kinh doanh, hệ thống
cửa hàng sẵn có… chứ không nên dùng các ưu thế của doanh nghiệp dồn ép bên đại lý
nhằm có lợi cho mình. Hơn nữa, trong hình thức đại lý thương mại, bên giao đại lý đã
có lợi khi không phải trực tiếp thiết lập cơ sở vật chất để phân phối hàng hóa mà vẫn
thực hiện được mục tiêu bán hàng, mở rộng thị trường. Đây gọi là “được” và “mất”
trong kinh doanh, thương nhân chiến lược phải biết cách dung hòa hai mặt này để đạt
lợi nhuận tối đa. Pháp luật không cấm việc các bên thỏa thuận khác bản chất đại lý
trong hợp đồng đại lý nên việc các bên thỏa thuận như vậy là không vi phạm pháp luật
ngoại trừ trường hợp pháp luật có quy định bắt buộc các bên phải giao kết với nhau
dưới hình thức hợp đồng đại lý. Tuy nhiên, vai trò của pháp luật là đem lại sự công
bằng cho tất cả chủ thể nên cần có những quy định có tính chất thu hẹp một số quyền
của bên giao đại lý để việc thực hiện hoạt động này đi vào khuôn khổ.
2. Vấn đề xác định tư cách chủ thể của các bên trong hợp đồng đại lý
Về nguyên tắc, tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng đại lý là tranh chấp kinh
doanh thương mại vì cả hai bên đều là thương nhân. Tuy nhiên, người làm đại lý bảo
hiểm không có tư cách thương nhân, do đó tranh chấp giữa công ty bảo hiểm và người
làm đại lý bảo hiểm không thể xác định là tranh chấp kinh doanh thương mại.
Mặt khác, nếu xét vai trò, chức năng của người làm đại lý bảo hiểm cũng như theo
quy định của pháp luật lao động thì cũng không đủ cơ sở cho rằng cá nhân hoạt động
trung gian bảo hiểm này có tư cách là người lao động của của doanh nghiệp bảo hiểm
theo quan hệ lao động làm công ăn lương. Chính vì điều này mà trên thực tế chế độ
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
đãi ngộ của doanh nghiệp bảo hiểm đối với người trung gian bảo hiểm này không
thống nhất, có doanh nghiệp áp dụng chế độ đãi ngộ như trong quan hệ lao động, có
bảo hiểm xã hội, lương cơ bản và phần trăm hoa hồng trên doanh thu, có doanh nghiệp
đơn thuần chỉ trả thù lao đại lý, theo đó dẫn đến quyền lợi chính đáng của cá nhân hoạt
động trung gian bảo hiểm không được đảm bảo, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà
nước, dẫn đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm lộn xộn và không theo một trật tự nhất
định.
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án đã mất rất nhiều thời gian để xác định loại tranh chấp
vì gặp phải nhiều vướng mắc trong việc xác định tư cách của đại lý bảo hiểm trong
hợp đồng đại lý bảo hiểm nhưng vẫn chưa giải quyết được một cách triệt để. Việc Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định loại tranh chấp trong bản án số
540/2006/DS-ST về hợp đồng bảo hiểm là một ví dụ điển hình. Tranh chấp xảy ra giữa
nguyên đơn là ông Lâm Văn Vẽ và bị đơn là công ty TNHH Manulife. Theo hợp đồng
đại lý ký ngày 2/1/2002, các bên thỏa thuận ông Lâm Văn Vẽ là đại lý của công ty
TNHH Manulife. Ngày 18/5/2005 Công ty thông báo chấm dứt hợp đồng đại lý với lí
do ông vi phạm nghiêm trọng quy định của công ty khi tham gia một số hoạt động với
công ty bảo hiểm nhân thọ khác trong lúc vẫn là đại lý của công ty, đồng thời báo cáo
trường hợp của ông lên Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, hiệp hội đã thông báo cho các
doanh nghiệp khác không được ký hợp đồng đại lý bảo hiểm với ông trong thời hạn ba
tháng. Không đồng ý, ông Lâm Văn Vẽ khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án ,
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định đây là tranh chấp dân sự.
Mặc dù xác định đây là tranh chấp dân sự nhưng Tòa án không nêu rõ căn cứ
trong khi loại hợp đồng này vẫn còn nhập nhằng giữa bản chất là tranh chấp dân
sự hay thương mại hay lao động. Xác định loại tranh chấp có vai trò quan trọng
trong giải quyết vụ án từ xác định tòa có thẩm quyền đến luật áp dụng và các
thủ tục tố tụng… Do đó, khi có tranh chấp liên quan đến hợp đồng này, cần xác
định chính xác tư cách của đại lý bảo hiểm để có đường hướng xét xử chính xác
và triệt để.
NGUỒN: Luật sư Phạm Tuấn Anh - Giám đốc Công ty Luật B.N.C và Cộng sự
IV.PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
Theo pháp luật các nước trên thế giới, có khá nhiều hình thức hoạt động trung gian
thương mại được pháp luật thừa nhận phù hợp với đặc điểm nền kinh tế, truyền thống
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
lập pháp của mỗi nước. Dưới góc độ lý luận khó có thể tổng kết thành các hình thức
pháp lý chung của hoạt động trung gian thương mại áp dụng cho mọi nước. ở mức độ
tương đối, có thể so sánh các hình thức hoạt động trung gian thương mại theo một số
hệ thống pháp luật sau: Trong số các hệ thống pháp luật cơ bản, hệ thống pháp luật
châu Âu lục địa là hệ thống pháp luật có nhiều thành viên nhất, chiếm 48% số quốc gia
trên thế giới. Căn cứ vào nội dung cụ thể của từng loại hoạt động và tư cách của bên
trung gian trong quan hệ với bên thứ ba, pháp luật châu Âu lục địa chia các hình thức
hoạt động trung gian thương mại thành 3 loại cơ bản là : Đại diện thương mại, uỷ thác
thương mại và môi giới thương mại
Đại diện thương mại Hiện nay, ở các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục
địa, đại diện thương mại là hình thức hoạt động trung gian thương mại phổ biến
nhất và được pháp luật của nhiều nước ghi nhận. Các quy định về đại diện
thương mại xuất hiện đầu tiên trong hệ thống pháp luật Đức và Nhật Bản.
Chúng được quy định trong BLTM Đức ban hành ngày 0/5/1897 và trong
BLTM Nhật Bản ngày 9/3/1899. Sau đó, các nước Châu Âu lục địa khác như
Hà Lan, Bỉ, Lúcxămbua, Liên bang Nga đã dùng luật của Đức làm cơ sở xây
dựng luật của nước mình về đại diện thương mại. Bản chất của hoạt động đại
diện thương mại là bên giao đại diện (bên thuê dịch vụ) ủy quyền cho bên đại
diện (bên trung gian thực hiện dịch vụ) hay mặt và nhân danh bên giao đại diện
thực hiện một số giao dịch thương mại. Trong hoạt động đại diện thương mại,
sự đại diện là yếu tố cơ bản. Bên đại diện, trong phạm vi được uỷ quyền không
hành động cho mình, không nhân danh mình mà nhân danh và vì lợi ích của bên
giao đại diện. Do đó, về mặt pháp lý các giao dịch giữa bên đại diện với bên thứ
ba (trong phạm vi uỷ quyền) được coi như chính bên giao đại diện giao dịch với
bên thứ ba. Bên giao đại diện phải chịu trách nhiệm đối với các giao dịch mà
bên đại diện thực hiện nhân danh mình. Lĩnh vực mà bên giao đại diện có thể
uỷ quyền cho bên đại diện thực hiện trong hoạt động thương mại được thay đổi
theo thời gian. Các văn bản pháp luật đầu tiên trên thế giới quy định về đại diện
thương mại (BLTM Đức, BLTM Nhật Bản) đều giới hạn hoạt động mà bên đại
diện thực hiện là trong lĩnh vực mua bán hàng hoá. Sau đó, phạm vi đại diện
của bên đại diện được mở rộng sang nhiều lĩnh vực của hoạt động thương mại.
Ví dụ, theo BLTM Pháp, đại diện thương mại được thực hiện trong mọi lĩnh
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
vực nhằm mục đích sinh lợi như: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại. Trong thực tiễn kinh doanh ở nhiều nước, hoạt động đại
diện thương mại chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực phân phối hàng tiêu dùng và
phân phối các trang thiết bị, hiếm khi tham gia vào lĩnh vực dịch vụ. Nội dung
của hoạt động đại diện rất đa dạng, có thể là giao dịch để tìm kiếm cơ hội kinh
doanh (bao gồm nhiều loại công việc như: nghiên cứu thị trường, lựa chọn bên
thứ ba hoặc tác động vào ý chí muốn giao kết hợp đồng của các bạn hàng trong
tương lai); thay mặt bên giao đại diện ký kết hợp đồng với bên thứ ba; thay mặt
bên giao đại diện thực hiện hợp đồng với bên thứ ba. Giống với các hoạt động
trung gian thương mại khác, khi thực hiện hoạt động đại diện thương mại, bên
đại diện hoàn toàn độc lập với bên giao đại diện và bên thứ ba. Bởi vậy, bên
giao đại diện chỉ phải thanh toán các chi phí hợp lý mà bên đại diện bỏ ra để
thực hiện các công việc mà bên giao đại diện uỷ quyền còn bên đại diện thương
mại phải chịu mọi rủi ro về chi phí cũng như các khoản thanh toán không hợp
lý.
Môi giới thương mại Môi giới thương mại là hoạt động trung gian thương mại
được pháp luật của nhiều nước quy định. Ví dụ: môi giới thương mại được quy
định từ Điều L131-1 đến Điều L131-11 thiên III quyển 1 BLTM Pháp năm
2005; từ Điều 543 đến Điều 550 BLTM Nhật Bản năm 1899; từ Điều 845 đến
Điều 849 BLDS và TM Thái Lan năm 1925, từ Điều 424 đến Điều 427 Luật
hợp đồng của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1999. Một đặc điểm nổi bật
của môi giới thương mại là khi thực hiện hoạt động này, bên môi giới không
phải là đại diện cho các bên được môi giới. Bên môi giới không có chức năng
thực hiện giao dịch có tính pháp lý mà chỉ là một thương nhân chuyên làm
trung gian cho các bên được môi giới tiếp xúc với nhau để giao kết hợp đồng.
Trong hoạt động môi giới thương mại, thông thường bên trung gian (bên môi
giới) chỉ có quan hệ với bên thuê dịch vụ mà không có quan hệ với bên thứ ba
(trừ trường hợp bên môi giới cũng ký hợp đồng môi giới với người này). Đây là
điểm giống cơ bản của hoạt động môi giới với hoạt động đại diện thương mại.
Khác với đại diện thương mại, bên môi giới không có một quan hệ uỷ quyền
liên tục đối với một trong các bên mà mình chắp nối. Trong hoạt động môi giới
thương mại, bên môi giới không nhân danh bên được môi giới để giao dịch
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
cũng như thực hiện bất cứ một giao dịch nào với bên thứ ba. Bên môi giới có
nhiệm vụ giới thiệu những người có công việc gì muốn thực hiện để họ giao kết
hợp đồng và thực hiện công việc ấy. Người môi giới không tham gia vào sự
thực hiện, chỉ làm thế nào cho các bên được môi giới tiếp xúc với nhau và sau
đó các bên được môi giới tự đi đến giao kết hợp đồng. Còn trong hoạt động đại
diện thương mại, bên đại diện nhân danh bên giao đại diện để giao dịch với bên
thứ ba và có thể giao kết hợp đồng với bên thứ ba nhân danh bên giao đại diện.
Uỷ thác thương mại Uỷ thác thương mại cũng là một hoạt động trung gian
thương mại được pháp luật của nhiều nước quy định. BLTM Pháp năm 2005
quy định từ Điều L132-1 đến Điều 132-9; Luật hợp đồng của Trung Quốc năm
1999 quy định từ Điều 414 đến Điều 418; BLTM Đức quy định tại Điều 383.
Một đặc điểm quan trọng của hoạt động uỷ thác thương mại là bên nhận uỷ thác
(bên trung gian) nhân danh chính mình để giao dịch với bên thứ ba vì lợi ích
của bên uỷ thác. Trong trường hợp này, quan hệ giữa bên thuê dịch vụ của
người trung gian và bên trung gian có thể được coi là quan hệ uỷ quyền không
đại diện (hoặc đại diện gián tiếp). So với hoạt động đại diện thương mại và hoạt
động môi giới thương mại, bên nhận uỷ thác khác với bên đại diện và bên môi
giới thương mại chính là ở tư cách và trách nhiệm của họ khi quan hệ với bên
thứ ba. Trong hoạt động uỷ thác thương mại, bên nhận uỷ thác được bên uỷ
thác tin cậy giao cho thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo
những chỉ dẫn rất cụ thể của bên giao uỷ thác nhưng với danh nghĩa của chính
mình chứ không phải với danh nghĩa của bên uỷ quyền như trong hoạt động đại
diện cho thương nhân. Do đó, những hành vi của bên nhận uỷ thác sẽ mang lại
hậu quả pháp lý cho chính họ chứ không phải cho bên uỷ thác. Uỷ thác thương
mại có phạm vi họat động rộng hẹp khác nhau tuỳ thuộc vào pháp luật của mỗi
nước. Theo pháp luật của một số nước châu Âu lục địa như Đức, ý, uỷ thác chỉ
thực hiện trong lĩnh vực mua bán hàng hoá, do đó bên nhận uỷ thác chỉ thực
hiện các hoạt động mua bán hàng hoá cho bên uỷ thác theo những điều kiện bên
ủy thác quy định. Trong khi đó BLDS và TM Thái Lan, BLTM Nhật Bản,
BLTM Pháp không giới hạn hoạt động của bên uỷ thác, theo đó bên nhận ủy
thác có thể thực hiện bất cứ giao dịch thương mại nào cho bên uỷ thác với danh
nghĩa của chính mình.
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
Từ những phân tích trên cho thấy, ở các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu
lục địa , người trung gian trong hoạt động thương mại có thể chỉ là người ở giữa
giúp các bên tìm đến với nhau để giao kết hợp đồng thực hiện công việc mà họ
mong muốn nhưng có thể thay mặt cho bên uỷ quyền xác lập, thực hiện giao
dịch thương mại với bên thứ ba.
V. QUAN ĐIỂM CÁC TÁC GIẢ TRONG KHOA HỌC PHÁP LÝ
Hoạt động trung gian thương mại được hình thành khá sớm và là kết quả tất yếu
trong quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội trong lĩnh vực phân
phối hàng hóa sản phẩm và dịch vụ tới người tiêu dùng. Hoạt động trung gian thương
mại nói chung và ĐLTM nói riêng là hoạt động mang lại lợi ích kinh tế cao cho các
chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
sử dụng dịch vụ này và để đồng thời đảm bảo cho công tác quản lý đạt hiệu quả, nhà
nước đã ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐLTM. Để có thể
hiểu rõ hơn các quy phạm này trước hết chúng ta cần hiểu một số vấn đề lý luận về
ĐLTM và pháp luật về ĐLTM.
Hiện nay, ở Việt nam hoạt động ĐLTM rất phát triển, đây là hình thức trung gian
thương mại có nhiều ưu điểm nổi bật và là hoạt động thương mại được nhiều thương
nhân sử dụng trong nền kinh tế. Pháp luật Việt Nam đã thừa nhận sự tồn tại của hoạt
động này đồng thời ban hành các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh, bảo vệ quyền
và lợi ích của các chủ thể kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội. Pháp luật Việt nam đã có
sự kế thừa và hoàn thiện trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội như ban hành
LTM 2005 thay thế cho LTM 1997, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật chuyên
ngành về ĐLTM tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động này. Tuy
nhiên trên thực tế các quy định pháp luật về ĐLTM vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế chưa
phù hợp vơi nhu cầu phát triển kinh tế, chưa điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động này. Đồng thời các quy định về ĐLTM trong các văn bản
pháp luật còn chưa thống nhất và đang bộc lộ nhiều bất cập chưa bảo đảm quyền tự do
kinh doanh của các bên trong quan hệ thương mại
Đại lý thương mại là một trong những dịch vụ trung gian thương mại có đóng góp
lớn cho nền kinh tế thị trường. Pháp luật Việt Nam đã thừa nhận và ban hành các quy
phạm điều chỉnh về hoạt động này. Sau khi được áp dụng trên thực tiễn các quy phạm
BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
pháp luật về ĐLTM đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên môi trường kinh doanh
thuận lợi cho các chủ thể, bảo vệ quyền và lợi ích các bên tham gia hoạt động này. Tuy
nhiên, để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về ĐLTM việc tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi bổ
sung những quy định hiện hành và ban hành ngay văn bản hướng dẫn về ĐLTM là đòi
hỏi cần thiết, khách quan. Trên cơ sở quan điểm và định hướng hoàn thiện pháp luật về
ĐLTM, chúng tôi đưa ra một số đề xuất về cách nhìn nhận bản chất pháp lý của chủ
thể tham gia quan hệ HĐĐL, về hình thức HĐĐL, về đơn phương chấm dứt hợp đồng
đại lý thương mại, về trách nhiệm pháp lý của các bên đối với bên thứ ba,... Bên cạnh
đó, tăng cường phổ biến pháp luật sâu rộng trong nhân dân, nâng cao năng lực nắm và
vận dụng pháp luật cũng như ý thức tuân thủ của thương nhân là yêu cầu bức thiết, góp
phần hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, hấp dẫn ở
Việt Nam.
Nguồn: ThS. Nguyễn Đình Tuấn
- Theo Điều 166 Luật Thương mại năm 2005:
Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại
lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên
giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng
thù lao.
- Theo điều 169 Luật thương mại 2005 thì hợp đồng đại lý gồm các loại:
Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn
vẹn một khối lượng hàng hóa hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao
đại lý. Trong trường hợp này mức thù lao được hưởng là mức chênh lệch giữa
giá mua, giá bán, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng so với giá do bên giao
đại lý ấn định cho bên đại lý.
Có thể nói hình thức này thì bên đại lý có thể ấn định quyền quyết định giá mua, giá
bán, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng trên cơ sở giá giao dịch đại lý mà bên giao
đại lý đã ấn định.
Đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực đại lý nhất định bên
giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc
cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định. Đây thường áp dụng cho
những mặt hàng có tính chất điạ lý ví dụ như nước mắm Phú Quốc…
- Xem thêm -