Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Tích cực hóa các phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn đ...

Tài liệu Tích cực hóa các phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn địa lí lớp 4 ở trường tiểu học nga trung, huyện nga sơn, tỉnh thanh hóa.

.PDF
26
11
110

Mô tả:

A. MỞ ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết, chương trình giảng dạy ở tiểu học được chia làm hai giai đoạn. Và ngay ở đầu giai đoạn hai, các en học sinh lớp 4 đã bắt đầu được làm quen với môn học Lịch sử và địa lý. Phân môn Lịch sử có sự lôgic, hệ thống theo trục thời gian giúp các em dễ ghi nhớ, dễ hiểu mang đến cho các em niềm đam mê và thích tìm tòi sáng tạo. Còn phân môn Địa lý thì sao? Đây là môn học mới mẻ và nó được tách ra từ môn TNXH lớp 1,2,3. Hệ thống kênh chữ nhiều hơn kênh hình, ở phân môn này có nhiều từ ngữ các em mới bắt đầu làm quen như: địa hình, nét văn hóa, đồng bằng châu thổ,…Hơn nữa mục tiêu của môn học này yêu cầu học sinh phải nắm được các sự vật hiện tượng và các mối quan hệ Địa lý ở các vùng miền chính trên đất nước Việt Nam. Sự cần thiết học sinh phải tìm hiểu thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người ở các vùng miền khác nhau, học sinh cần có kỹ năng phân tích bản đồ, lược đồ, khai thác triệt để các kênh hình, kênh chữ trong SGK nhằm khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng dẫn của giáo viên), tiếp nhận kiến thức cho mình để từ đó vận dụng vào thực tế cuộc sống. Qua đó bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, con người và đất nước Việt Nam ta. Đó chính là những kỹ năng sống cơ bản mà một con người cần có: chủ động, tích cực và sáng tạo. Điều này sẽ giúp ngành Giáo dục đạt được mục tiêu mà nhà nước đã đặt ra là: “Đào tạo ra những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo,có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu CNXH, sống lành mạnh (có kiến thức toàn diện) đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước và chuẩn bị cho tương lai”.[6] Các kiến thức địa lý được trình bày trong sách giáo khoa thông qua kênh chữ, kênh hình là các lượt đồ, bản đồ, tranh ảnh. Tuy nhiên nếu ngày nào giáo viên cũng lên lớp giảng bài cho học sinh với những tranh ảnh tĩnh cùng với bảng đen phấn trắng thì sẽ gây nhàm chán cho học sinh và ngày càng làm cho học sinh uể oải hơn và học sinh sẽ có cảm giác sợ môn Địa lí và sẽ có tâm lý học đối phó. Hiện nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một điều tất yếu. Khi các em vừa tìm hiểu kiến thức thông qua sách giáo khoa vừa kết hợp với xem những tranh ảnh những đoạn phim sinh động thì các em sẽ hứng thú hơn. Do vậy để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Địa lý lớp 4, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu song vẫn đảm bảo được mục tiêu, nội dung chương trình của môn học tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và “Tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm nâng cao chất lượng phân môn Địa lý lớp 4 ở trường Tiểu học Nga Trung - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa” để ứng dụng hiệu quả nhất trong quá trình dạy học. 2/ Mục đích nghiên cứu: Do đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học còn non yếu, chưa đầy đủ, sâu sắc và chưa đạt tới trình độ tư duy khái quát.Vì thế tôi nghiên cứu kinh nghiệm này nhằm đạt được mục đích sau: 1 + Tìm hiểu thực trạng dạy học phân môn Địa lý lớp 4 tại trường Tiểu học Nga Trung, Nga Sơn,Thanh Hóa. + Đề xuất một số biện pháp nhằm tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học khi dạy phân môn Địa lý lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Địa lý ở Tiểu học. 3/ Đối tượng nghiên cứu: + Nội dung, chương trình phần Địa lý - môn Lịch sử và địa lý lớp 4. + Một số phương pháp dạy học phân môn Địa lý ở Tiểu học. 4/Phương pháp nghiên cứu: a/ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Để tìm hiểu rõ vấn đề tôi đã nghiên cứu kỹ những tài liệu, giáo trình có liên quan để phân tích, tổng hợp, so sánh và rút ra những vấn đề lý luận có tính định hướng. b/ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: + Nghiên cứu, điều tra qua thực tế dự giờ, phỏng vấn học sinh, giáo viên tại trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa để làm nền cho quá trình nghiên cứu, đề ra những giải pháp mang tính khả thi nhất. + Trao đổi, bàn bạc với giáo viên, học sinh khối 4,5 để nắm bắt thông tin về tình hình thực tế có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. + Tìm hiểu thực trạng về đổi mới phương pháp dạy học khi dạy phân môn Địa lý lớp 4 tại trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa từ đó phát hiện vấn đề nghiên cứu và chuẩn bị cho các bước nghiên cứu tiếp theo. + Trao đổi với đông nghiệp về những thuận lợi, khó khăn trong việc dạy học và nâng cao chất lượng dạy học phân môn Địa lý lớp 4. c/ Phương pháp thông kê, xử lý số liệu: Sau khi thu thập những số liệu điều tra thực tế về đổi mới phương pháp dạy học phân môn Địa lý lớp 4 tại trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa, tôi có những căn cứ để xây dựng cho mình những phương pháp, hình thức và giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Địa lý và rút ra những kết luận khách quan. B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1/ Cơ sở lý luận: Đặc điểm của học sinh Tiểu học là tiềm tàng khả năng phát triển nên người giáo viên cần sáng tạo, sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp, hình thức tổ chức dạy học khác nhau để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức mới và ôn tập kiến thức cũ. Giáo viên cần giúp học sinh trải nghiệm và thử thách cộng với việc học tập tích cực, chủ động, tự giác trên nhu cầu hứng thú, tương tác lẫn nhau, từ đó hình thành kỹ năng, kỹ xảo để học kiến thức mới và ôn tập kiến thức cũ một cách có hiệu quả. Để học sinh tìm hiểu, phát hiện kiến thức và tự giác chiếm lĩnh kiến thức đó người giáo viên phải là người năng động, sáng tạo và có vốn kiến thức vững, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, chuẩn bị bài và đồ dùng dạy 2 học chu đáo, tránh việc giáo viên cung cấp thông tin và học sinh thụ động tiếp nhận thông tin. Vận dụng đổi mới phương pháp dạy học là hoàn toàn có cơ sở lý luận. Trong giờ học Địa lý đối tượng môn học làm cho giờ học không chỉ mang tính chất khoa học mà nó còn mang đậm tính chất nghệ thuật tổng hợp. Bởi vậy mà những vấn đề mà giáo viên đưa ra phải được tổ chức một cách nghệ thuật và là vấn đề càng gắn bó với nội dung thẩm mỹ của bài dạy thì càng động viên học sinh tham gia tìm hiểu vấn đề sâu sắc hơn. Môn Địa lý có điều kiện thuận lợi để tiến hành đổi mới phương pháp giảng dạy bởi lẽ các phương tiện dạy học Địa lý rất đa dạng. Ngoài sách giáo khoa chúng ta còn cả hệ thống các thiết bị khác như: bản đồ treo tường, tranh ảnh, phim, băng hình, máy chiếu,…Từ những thiết bị đó các em có công cụ để quan sát, phân tích, so sánh, nhận xét ngay trên lớp học. Vì vậy phương pháp mới là quan trọng và đạt hiệu quả cao trong giảng dạy. Đổi mới phương pháp giảng dạy để học sinh tự khám phá ra chân lý thì đó là cả một quá trình. Quá trình đó chi phối mọi hoạt động của giáo viên từ khâu chuẩn bị bài dạy, đến các hình thức tổ chức dạy học trên lớp và cả việc đánh giá kết quả học tập của học sinh. Nếu làm tốt cả 3 khâu trên nghĩa là giáo viên đã thành công trong tiết dạy. Vì lẽ đó tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Địa lý lớp 4 ở trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa. 2/ Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: a/ Thực trạng của giáo viên: + Trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn, ban giám hiệu nhà trường có bề dầy kinh nghiệm về quản lý, chỉ đạo chuyên môn. Nhiều giáo viên có trình độ chuyên môn tốt, luôn có tinh thần học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhiều đồng chí đã đạt giáo viên giỏi cấp huyện, cấp tỉnh có những sáng kiến kinh nghiệm xếp loại cấp huyện, cấp tỉnh nhiều năm và luôn là cán bộ cốt cán của trường, của phòng giáo dục. + Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy một số ít các đồng chí ngại đổi mới phương pháp, ngại ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy vì cho rằng mất thời gian, một số ít giáo viên hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh kiến thức với nội dung còn sơ sài, mang tính hình thức nên hiệu quả chưa cao. + Việc đổi mới các phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh còn hạn chế và chưa mạnh dạn, chưa tuyên truyền sâu rộng đến tận các bậc phụ huynh và các em học sinh nên chưa làm cho các em thực sự yêu thích phân môn Địa lý. b/Thực trạng của học sinh: + Nga Trung là vùng nông thôn, học sinh có ít điều kiện tiếp xúc với công nghệ thông tin tại gia đình. + Học sinh chưa hứng thú khi học phân môn Địa lý nên các em không thấy được cái hay và sự thú vị của phân môn này. 3 + Các em thiếu sự quan tâm của gia đình và điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Một số gia đình đã quan tâm chăm lo cho con em nhưng chỉ đầu tư cho con em học môn Toán, Tiếng việt, Tiếng anh và coi phân môn Địa lý là môn phụ. + Chất lượng học sinh không đồng đều, một số em nhận thức chưa cao, tiếp thu chậm. Học sinh lớp 4 lần đầu tiên được tiếp thu kiến thức mới đối với phân môn Địa lý và được làm việc với bản đồ, lược đồ, tranh ảnh để tìm hiểu nội dung của bài. Do vậy các em phân tích bảng số liệu, đọc và chỉ bản đồ, lược đồ còn lúng túng, thậm chí học sinh chưa biết chỉ đúng bản đồ, lược đồ, kỹ năng chỉ bản đồ, lược đồ còn hạn chế. + Việc quan sát các sự vật, hiện tượng địa lý, tìm tòi tư liệu, cách trình bày kết quả bằng lời nói và cách diễn đạt còn hạn chế. + Một số học sinh chỉ học đối phó với thầy cô giáo khi kiểm tra bài cũ hoặc khi thi cuối kỳ. + Các em chưa có ý thức tự tìm hiểu, khám phá về những điều kiện tự nhiên của đất nước ta để sau này biết ứng dụng những điều kiện đã học được từ sách vở đưa vào thực tiễn lao động sáng tạo làm giàu đẹp cho quê hương. c/ Kết quả khảo sát: Kết quả khảo sát học sinh lớp 4A cuối năm học 2017 – 2018 tại trường Tiểu học Nga Trung Nga Sơn Thanh Hóa do tôi phụ trách như sau: Môn học Lịch sử Địa lý LS&ĐL Sĩ số HS 28 28 28 Hoàn thành tốt SL % 15 53,6 08 28,6 10 35,7 Hoàn thành SL % 13 46,4 17 60,7 15 53,6 Chưa hoàn thành SL % 0 03 10,7 03 10,7 Từ kết quả trên tôi nhận thấy rằng với hai phân môn đều do tôi trực tiếp giảng dạy nhưng kết quả phân môn Địa lý rất thấp dẫn đến kết quả đánh giá chung cho môn Lịch sử và địa lý là chưa đạt yêu cầu. Một phần cũng là do các em chưa yêu thích môn học Địa lý nên kết quả thấp. Do đó tôi luôn trăn trở là làm thế nào để học sinh thực sự yêu thích phân môn Địa lý. Để khơi dậy niềm yêu thích môn học và nâng cao chất lượng học tập phân môn Địa lý. Năm học 2018 – 2019, khi tôi được phân công chủ nhiện lớp 4B, tôi đã tiến hành điều tra cụ thể về sự hiểu biết và sự ham thích môn học. Nhằm giúp học sinh yêu thích môn học và chiếm lĩnh kiến một cách tự nhiên, hứng thú, bản thân tôi suy nghĩ cần nắm vững nội dung, phương pháp và chuẩn bị bài giảng của mình thật chu đáo, lời giảng hấp dẫn, phương pháp và hình thức tổ chức sinh động, tạo hứng thú học tập cho học sinh trong từng hoạt động và suy nghĩ phải làm gì để học sinh tiếp thu được kiến thức một cách hiệu quả nhất. Do vậy việc tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phải được áp dụng thường xuyên và có hiệu quả trong từng bài học, từng tiết dạy. 3/ Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Tích cực hóa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học không chỉ mang đến cho học sinh những kiến thức cơ bản trong SGK mà còn cung cấp cho các em những kiến thức phong phú, những hình ảnh sống động, những kiến thức thực tế sâu rộng, từ đó phát huy tính tích cực, say mê và hứng thú học tập. Đó là 4 bước đột phá trong việc cải tiến và đổi mới phương pháp dạy học, tránh lối học theo kiểu truyền thống: thầy đọc, trò chép một cách thụ động. Để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Địa lý lớp 4 và tổ chức thành công các phương pháp và hình thức dạy học bản thân tôi đã thực hiện một số giải pháp sau: 3.1/ Làm sống động các bản đồ, lược đồ trong SGK, khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ: Trong chương trình Địa lý lớp 4 có tất cả 20 lược đồ. Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học bản đồ, lược đồ và bảng số liệu được sử dụng như một nguồn cung cấp kiến thức giúp học sinh tự tìm tòi, phát hiện những kiến thức và hình thành, rèn luyện kỹ năng bộ môn chứ không phải chỉ để minh họa cho lời dạy của giáo viên. Như vậy bản đồ, lược đồ và bảng số liệu là những đối tượng để học sinh chủ động, tự lực đển mức tối đa, khai thác kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Các bản đồ, lược đồ trong SGK đều có màu sắc rất đẹp, phong phú về chủng loại. Tuy nhiên các bản đồ, lược đồ này đều là các tranh tĩnh, rất nhỏ, khi khai thác và tìm hiểu kiến thức các em đều rất khó, trừu tượng dẫn đến việc tiếp thu kiến thức rất hời hợt, không khắc sâu. Nhưng khi các bản đồ, lược đồ này được đưa vào giáo án điện tử, lập các hiệu ứng phù hợp với trình tự tìm hiểu nội dung kiến thức sẽ trở thành các bản đồ, lược đồ sống động, tạo sự hứng thú, sinh động, hấp dẫn học sinh và học sinh sẽ tiếp thu kiến thức một cánh nhẹ nhàng, tự nhiên, chủ động và nhớ kiến thức lâu hơn. Ví dụ 1: Khi dạy bài 17: Đồng bằng Nam Bộ – SGK trang 116, 117: Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đặc điểm tiêu biểu về mạng lưới sông ngòi ở đồng bằng Nam Bộ. Trong SGK yêu cầu các em quan sát hình 2: Lược đồ tự nhiên đồng bằng Nam Bộ và trả lời các câu hỏi: + Tìm và kể tên một số sông lớn, kênh rạch của đồng bằng Nam Bộ. + Nêu nhận xét về mạng lưới sông ngòi, kênh rạch của đồng bằng Nam Bộ. Học sinh rất khó tiếp cận lĩnh hội kiến thức vì chữ quá nhỏ và rất trừu tượng đối với các em. Nhưng khi tôi làm sống động lược đồ này được trình chiếu trên máy, yêu cầu học sinh quan sát và thảo luận nhóm đôi để tìm hiểu thì lại khác. Khi học sinh báo cáo kết quả thảo luận, giáo viên trình chiếu để chốt kiến thức: Khi các hiệu ứng chạy, học sinh sẽ nhìn thấy dòng chảy của sông Mê Công, về đến Việt Nam thì chia thành hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, sau đó đến sông Đồng Nai, Kênh Vĩnh Tế, Kênh Rạch Sòi, Kênh Phụng Hiệp. Từ đó 5 học sinh dễ dàng nhận ra: Đồng bằng Nam Bộ có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch dày đặc và chằng chịt. Để mở rộng và khắc sâu kiến thức về tên sông Cửu Long (chín con rồng), tôi cho học sinh quan sát lược đồ, sau đó khi trình chiếu và cho chạy các hiệu ứng học sinh dễ dàng nhận ra dòng chảy của sông Mê Công về đến Việt Nam thì chia thành hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, hai nhánh sông này đổ ra biển bằng chín cửa sông nên có tên gọi là Cửu Long (chín con rồng). Ví dụ 2: Khi dạy bài 11: Đồng bằng Bắc Bộ – SGK trang 98: Ở hoạt động 1: Sau khi học sinh tìm hiểu về đặc điểm tiêu biểu về vị trí địa lý, địa hình của đồng bằng Bắc Bộ giáo viên cho học sinh quan sát lược đồ và kể tên các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ để mở rộng và khắc sâu kiến thức cho học sinh. Học sinh có năng khiếu có thể lên chỉ vị trí giới hạn của các tỉnh từ đó rèn thêm kỹ năng chỉ bản đồ cho học sinh. Ví dụ 3: Khi dạy bài 31,32: Ôn tập – SGK trang 155, 156: Giáo viên sử dụng bản đồ sau để ôn lại các đặc điểm, vị trí, giới hạn của các vùng địa lý đã học: Vùng đồng bằng Bắc Bộ (màu đỏ); đồng bằng Nam Bộ (màu xanh dương); đồng bằng duyên hải Miền Trung (màu xanh lá); các cao nguyên ở Tây Nguyên; dãy Hoàng Liên Sơn;… 6 Với hình thức dạy học này có thể sử dụng để dạy các bài: + Bài 1: Dãy Hoàng Liên Sơn. + Bài 5: Tây Nguyên. + Bài 11: Đồng bằng Bắc Bộ. + Bài 15: Thủ đô Hà Nội. + Bài 21: Thành phố Hồ Chí Minh. + Bài 23: Ôn tập. + Bài 24: Đồng bằng duyên hải Miền Trung. + Bài 29: Biển, đảo và quần đảo. Để hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ đạt hiệu quả, giáo viên cần: + Xác định kiến thức trong bài mà học sinh cần nắm qua bản đồ, lược đồ sao cho phù hợp để học sinh có thể sử dụng kiến thức kỹ năng đã học tự phát hiện ra kiến thức mới. + Soạn một hệ thống câu hỏi dựa trên lược đồ và trình độ học sinh để dẫn dắt học sinh tự khám phá kiến thức. Các câu hỏi thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: tự luận, trắc nghiệm (câu đúng sai, câu nhiều lựa chọn,…). Ngoài ra, Địa lý là một phân môn mới mẻ đối với học sinh lớp 4 nên học sinh phải được trang bị một số kiến thức tối thiểu, cần thiết để biết cách làm việc với bản đồ, lược đồ như: xác định phương hướng trên bản đồ, lược đồ; nắm được ký hiệu trong bảng chú giải và có biểu tượng về những sự vật và đối tượng địa lý trên bản đồ, lược đồ. Từ đó các em xác lập mối liên hệ địa lý đơn giản giữa các yếu tố và các thành phần như địa hình và khí hậu; sông ngòi, thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người. Trên cơ sở học sinh biết kết hợp những kiến thức bản đồ, lược đồ và kiến thức địa lý để so sánh, phân tích, tổng hợp. Như vậy, khi các em tìm hiểu kiến thức qua những hình ảnh sống động không những các em sẽ nhớ rất lâu kiến thức mà còn nâng cao kỹ năng sử dụng 7 bản đồ, lược đồ, giúp các em tự tin hơn, kích thích hứng thú học tập cho học sinh và trong lớp ai ai cũng muốn thể hiện khả năng học tập của mình, rèn kỹ năng ứng xử mạnh dạn, trình bày lưu loát trước đám đông. 3.2/ Sưu tầm các tư liệu thực tế, tạo dựng các đoạn phim ngắn: Trong chương trình Địa lý lớp 4, ngoài việc tìm hiểu những kiến thức về địa hình, khí hậu, đặc điểm tự nhiên tiêu biểu của vùng miền núi, trung du, đồng bằng, miền duyên hải trên đất nước Việt Nam các em còn được tìm hiểu những phong tục tập quán của các vùng đó, các điều kiện phát triển kinh tế, thương mại du lịch. Nếu chỉ được quan sát những hình ảnh trong SGK và tìm hiểu qua kênh chữ thì không thể thu hút trì tò mò, óc tìm tòi khám phá đất nước Việt Nam của học sinh. Vì vậy tôi thiết nghĩ bằng những tư liệu thực tế sống động về đất nước, con người, phong tục tập quán,…của những vùng đang học được đưa vào bài giảng điện tử sẽ khiến giờ học trở nên hấp dẫn, các em như đang được đi du lịch, tham quan những nơi đó. Như vậy các em sẽ rất hứng khởi, hồi hộp chờ đợi được đến tiết học Địa lý để được tham gia vào quá trình tìm hiểu nội dung bài. Ví dụ 1: Khi dạy bài 4: Trung du Bắc Bộ – SGK trang 79, 80: Ở hoạt động1: Giáo viên cho học sinh quan sát tranh trên máy chiếu để mô tả vùng Trung du Bắc Bộ và những loại cây trồng thích hợp được trồng ở vùng trung du Bắc Bộ: Trung du Bắc Bộ là vùng đồi với các đỉnh tròn, sườn thoải. Thế mạnh ở đây là trồng cây ăn quả và cây công nghiệp, đặc biệt là trồng chè. + Ở hoạt động này giáo viên cũng có thể tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi: Em là hướng dẫn viên du lịch để nêu những hiểu biết của em về vùng Trung du Bắc Bộ.Trong quá trình học sinh nêu giáo viên kết hợp trình chiếu đoạn video khớp với lời nói của học sinh tạo hứng thú, thu hút học sinh vào học tập. Ví dụ 2: Khi dạy bài 1: Dãy Hoàng Liên Sơn – SGK trang 70,71: Giáo viên cho học sinh quan sát các bức tranh sau để nêu đặc điểm của dãy núi Hoàng Liên Sơn: Là dãy núi cao, đồ sộ nhất nước ta, có nhiều đỉnh nhọn, sườn dốc, thung lũng hẹp và sâu. Có đỉnh Phan – xi – păng cao nhất nước ta (cao 3143m) và được gọi là “nóc nhà” của Tổ quốc. 8 Ví dụ 3: Khi dạy bài 1: Dãy Hoàng Liên Sơn – SGK trang 70,71: Sau khi được quan sát những hình ảnh thực tế này học sinh sẽ nêu được đặc điểm khí hậu ở Hoàng Liên Sơn: Những nơi cao khí hậu lạnh quanh năm, mùa đông đôi khi có tuyết rơi, nhưng lại là nơi du lịch nổi tiếng với đỉnh Phan - xi păng rất lý tưởng ở vùng núi phía Bắc. Ví dụ 4: Khi dạy bài 20: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Nam Bộ (tiếp theo) – SGK trang 124, 125: Học sinh sẽ được quan sát hình ảnh chợ nổi trên sông – nét văn hóa của dân Nam Bộ. Sau đó học sinh sẽ được nghe một đoạn Video giới thiệu về hoạt động của chợ nổi Cái Răng – Cần Thơ: 9 “Chợ nổi Cái Răng nằm trên sông Cái Răng, gần cầu Cái Răng, cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 6km đường bộ và mất 30 phút nếu đi bằng thuyền từ bến Ninh Kiều (thành phố Cần Thơ - thủ phủ của Tây Đô cũ). Đay là một nét văn hóa rất đặc sắc ở vùng đồng bằng sông nước Cửu Long, thu hút rất nhiều du khách, đặc biệt là khách nước ngoài. Nét độc đáo và đặc điểm chính của chợ nổi Cái Răng là chuyên buôn bán các loại trái cây, đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chợ hoạt động tấp nập từ tờ mớ sáng với nhiều lọai thuyền bè lớn nhỏ. Các cửa hàng hay các ghe thuyền thường không có bảng hiệu, chợ bán sản vật gì người ta treo sản vật đó lên cây sào hoặc trên mũi thuyền. Chợ Cái Răng thường họp khá sớm, thường từ lúc mờ sáng và đến khoảng 8;9 giờ thì vãn. Những ghe bầu lớn thường chuyên thu mua trái cây để chở đi các nơi, kể cả sang Campuchia và Trung Quốc. Lại cũng có những chiếc ghe bầu chở các mặt hàng khác cung cấp cho bà con miệt vườn như: Xăng dầu, mắm muối, thuốc tây, bánh kẹo và nhu yếu phẩm. Ai bán gì thì treo thứ ấy lên ngọn sào cắm ở mũi thuyền, khách mua hàng từ xa trông thấy sẽ bơi xuồng đế hỏi. Cũng như nhxng chợ nổi khác ở Đồng bằng sông Cửu Long, chợ được hình thành để đáp \sng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa khi đường bộ và các phương tiện lưu thông đường bộ chưa phát triển. Ngày nay, dù mạng lưới giao thông đường bộ đã phát triển rộng khắp nhưng chợ nổi vẫn tồn tại và phát triển ngày một sầm uất hơn mang lại tiềm năng về kinh tế lẫn du lịch miền Tây sông nước này.” Khi các em được ngắm nhìn những hình ảnh thực tế phong cảnh tuyệt đẹp về những con người, về thiên nhiên của những vùng đang học thông qua những hình ảnh sinh động sẽ khiến giờ học trở nên sống động hơn, các em chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Các em mạnh dạn, tự tin, thích thú hơn khi tham gia vào quá trình tìm hiểu kiến thức mới. Tạo môi trường học tập thân thiện giữa giáo viên và học sinh.Tạo sự chờ đợi, hứng khởi cho các em khi sắp được học phân môn Địa lý. 10 3.3/ Tăng cường kết hợp nội dung kiến thức của hai phân môn Lịch sử và Địa lý: Thiên nhiên ở mỗi nơi trên đất nước ta đều có nét riêng. Con người sống ở đó cũng có những đặc điểm riêng trong đời sống sản xuất, trong cách ăn mặc, phong tục tập quán. Song dù ở nơi nào, thuộc dân tộc nào, người dân đã sống trên dải đất này đều chung một Tổ quốc Việt Nam, chung một lịch sử, một truyền thống Việt Nam. Để có Tổ quốc tươi đẹp như hôm nay, ông cha ta đã trải qua hàng ngàn năm lao động đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Môn Lịch sử và địa lý giúp các em biết những điều trên và từ đó các em thêm yêu thiên nhiên, yêu con người và yêu Tổ quốc ta. Đó chính là nội dung và mục tiêu môn Lịch sử và địa lý lớp 4 mà các em cần đạt. Trước năm 2000, cùng với khoa học, lịch sử và địa lý là hai môn học độc lập. Trong chương trình 2000, Lịch sử và địa lý là hai phân môn của môn Lịch sử và địa lý nhằm tăng cường sự kết hợp nội dung gần nhau của hai phân môn này. + Trước khi dạy từng phần riêng, cần dạy tốt những kiến thức dùng chung như: Bản đồ, cách sử dụng bản đồ. Đó là những kiến thức thiết yếu để sử dụng cho cả hai phân môn này. + Sau đó liên hệ những kiến thức gần nhau giữa hai phần Lịch sử và Địa lý: Ví dụ 1: Khi dạy Địa lý bài 11: Đồng bằng Bắc Bộ - SGK trang 98, 99: Ở hoạt động 1: Sau khi học sinh nêu được đặc điểm địa hình của đông bằng Bắc Bộ: Đây là đồng bằng lớn thứ hai của nước ta, có địa hình thấp, bề mặt khá bằng phẳng. */ Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh ôn lại kiến thức của bài Lịch sử bài 9: Nhà Lý dời đô ra Thăng Long - SGK trang 30, 31: Vì sao Lý Thái Tổ chọn vùng đất Đại La làm kinh đô? (Vua thấy đây là vùng trung tâm đất nước, đất rộng lại bằng phẳng, sông chảy ở đồng bằng uốn lượn quanh co, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi.) Ví dụ 2: Khi dạy bài Lịch sử bài 13: Nhà Trần và việc đắp đê. - SGK trang 39, 40: Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời: Nhà Trần thu được kết quả như thế nào trong việc đắp đê? (Đến thời nhà Trần, hệ thống đê đã hình thành dọc theo sông Hồng và các con sông lớn khác ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hệ thống đê điều này đã góp phần giúp cho nông nghiệp phát triển và sử sách đã ghi lại rằng, nhà Trần là “Triều đại đắp đê”.) */ Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh ôn lại kiến thức ở tiết dạy Địa lý bài 11: Đồng bằng Bắc Bộ - SGK trang 98, 99: 11 Giáo viên yêu cầu học sinh củng cố lại kiến thức về tác dụng của hệ thống đê ngăn lũ ở đồng bằng Bắc Bộ: Đồng bằng Bắc Bộ có nhiều sông ngòi. Vào mùa hạ mưa nhiều, nước các sông dâng cao thường gây ngập lụt ở Đồng bằng. Do vậy người dân nơi đây đã đắp đê dọc 2 bên bờ sông để ngăn lũ lụt với tổng chiều dài hệ thống đê lên tới hàng nghìn ki - lô - mét. Đó là một công trình vĩ đại của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ. Cùng với thời gian hệ thống đê ngày càng được đắp cao và vững chắc hơn. Ngày nay, kế tục nền tảng cha ông, hệ thống đê điều được củng cố, kiên cố hóa bằng nhiều kênh, mương để tưới tiêu nước cho đông ruộng. MỘT ĐOẠN ĐÊ SÔNG HỒNG Cảnh đắp đê dưới thời Trần (tranh vẽ) Ví dụ 3: Khi dạy Lịch sử bài 28 : Kinh thành Huế – SGK trang 67, 68 và yêu cầu học sinh mô tả kiến trúc độc đáo của quần thể kinh thành Huế: Là một tòa thành rộng lớn, dài hơn 2km, nằm bên bờ sông Hương. Đây là tòa thành đồ sộ, một công trình lao động sáng tạo và tài hoa của nhân dân ta và đẹp nhất nước ta thời nhà Nguyễn. + Giáo viên sẽ kết hợp liên hệ với nội dung bài Địa lý bài 27: Thành phố Huế – SGK trang 145, 146: Ở ngay hoạt động 1: Khi học sinh nêu được đặc điểm tự nhiên: Huế là thành phố có nhiều cảnh thiên nhiên đẹp, nhiều công trình kiến trúc cổ có giá trị nghệ thuật cao nên thu hút rất nhiều khách du lịch. Sau đó giáo viên cho học sinh xem một đoạn video về Huế xưa và nay để học sinh thấy sự khác nhau. + Còn đối với các bài Lịch sử, Địa lý có nội dung phản ánh những đặc trưng của địa phương, tôi dành thời gian, tạo điều kiện cho học sinh đi tham quan để học sinh có thể thu được những thông tin cần thiết cho bài học. 12 Như vậy được học kết hợp nội dung hai phần Lịch sử và Địa lý nhằm bồi dưỡng cho học sinh khả năng hợp tác, rèn kỹ năng vận dụng vào thực tế, thường xuyên được củng cố kiến thức, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh trong học tập. Gợi cho học sinh lòng yêu thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam, có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và hành động bảo vệ môi trường. Các em thấy những điều đã học rất cần thiết và bổ ích cho bản thân mình và sự phát triển của xã hội. Từ đó giáo dục các em lòng say mê, yêu thích môn Lịch sử và địa lý nói chung và phân môn Địa lý nói riêng. 3.4/ Vận dụng linh hoạt, lồng ghép các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học khi dạy học phân môn Địa lý lớp 4: Đối với phân môn Địa lý phương pháp quan sát, vấn đáp, dạy học hợp tác theo nhóm, trò chơi học tập thường được sử dụng thường xuyên, linh hoạt trong một tiết dạy để tránh sự nhàm chán khi tiếp thu kiến thức. Ở từng phần của một tiết học giáo viên cần vận dụng linh hoạt, thay đổi nhằm nâng cao hiệu quả của tiết dạy. Phương pháp quan sát và dạy học hợp tác theo nhóm thường được sử dụng đan xen, lồng ghép với nhau. Khi cho học sinh quan sát đối tượng để thu thập thông tin tôi thường lồng ghép tổ chức học tập theo nhóm. Trước hết nó cho phép học sinh có nhiều cơ hội để diễn đạt và khám phá ý tưởng, mở rộng suy nghĩ, hiểu biết và rèn luyện kỹ năng nói. Nó cũng cho phép học sinh có cơ hội để học hỏi từ bạn,pháp huy vai trò trách nhiệm, điều đó làm phát triển kỹ năng xã hội và tính cách của học sinh, đặc biệt là kỹ năng phối hợp và hợp tác với các bạn khác. Sau khi đã quan sát xong học sinh sẽ xử lý thông tin đã thu thập được, đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp, nhận xét, khái quát hóa và trình bày kết quả. Giáo viên sẽ quan tâm, nêu câu hỏi để cùng học sinh trao đổi nhằm khẳng định và hoàn thiện kết quả quan sát. Ví dụ 1: Khi dạy bài: Dãy núi Hoàng Liên Sơn – SGK trang 70, 71: Giáo viên cho học sinh quan sát các bức tranh sau, thảo luận nhóm đôi chỉ và nêu đặc điểm về đỉnh, sườn, thung lũng của dãy núi Hoàng Liên Sơn: Là dãy núi cao, đồ sộ nhất nước ta, có nhiều đỉnh nhọn, sườn dốc, thung lũng hẹp và sâu. Có đỉnh Phan - xi - păng cao nhất nước ta (cao 3143m) và được gọi là “nóc nhà” của Tổ quốc. 13 Ví dụ 2: Khi dạy bài 29: Biển, đảo và quần đảo. – SGK trang 149, 150: Để hình thành khái niệm về đảo và quần đảo: Giáo viên cho học sinh quan sát một hòn đảo, quần đảo bằng tranh ảnh, băng hình trả lời một số câu hỏi: + Trong lớp ta em nào đã thấy đảo? Ở đâu? Khi nào? + Em hãy mô tả cho bạn ngồi bên cạnh nghe hoặc vẽ về một hòn đảo mà em đã nhìn thấy? Sau khi khai thác kinh nghiệm sống của các em, giáo viên cùng học sinh đưa ra nhận định chung về các dấu hiệu chung và bản chất của đảo: Đất nổi, có nước bao bọc xung quanh. Học sinh nêu khái niệm: Đảo là bộ phận đất nổi xung quanh có nước biển và đại dương bao bọc. Và nơi tập trung nhiều đảo gọi là quần đảo. ĐẢO MUN – NHA TRANG QUẦN ĐẢO THỔ CHU 14 Tích hợp lồng ghép vấn đề chủ quyền biển đảo vào dạy học Địa lý Việt Nam ở Tiểu học không phải là vấn đề mới nhưng lại là một vấn đề khó. Giáo viên cần phải nghiên cứu và thực nghiệm để có kết quả tốt hơn. Để lồng ghép thành công đòi hỏi giáo viên phải có sự hiểu biết sâu rộng về vấn đề và đánh giá thật khách quan, nắm bắt tâm lý của học sinh trước, trong và sau khi lồng ghép vấn đề biển đảo để nội dung không quá nhiều khiến học sinh thấy nặng nề, trùng lặp và nhàm chán. Ví dụ 3: Khi dạy bài 2; 3: Làm quen với bản đồ. SGK trang 4; 7: Giáo viên cho học sinh quan sát bản đồ hành chính Việt Nam. Yêu cầu học sinh xác định vị trí của Việt Nam trên bản đồ và chỉ rõ phần đất liền, phần biển và hai quần đảo xa nhất là Trường Sa và Hoàng Sa. Sau đó giáo viên khẳng định: Việt Nam là một quốc gia ven biển, là nước độc lập,có chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ bao gồm: đất liền, các đảo, vùng biển và vùng trời. Và theo bản đồ cổ Việt Nam: khẳng định chủ quyền của nước ta trên vùng biển Đông, đặc biệt là khẳng định hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ví dụ 4: Khi dạy bài 29: Biển, đảo và quần đảo. - SGK trang 149, 150: Ở hoạt động 2: Đảo và quần đảo: Tôi dùng máy chiếu cho các em được ngắm nhìn biển qua các hình ảnh và video, đặc biệt là hình ảnh về Trường Sa và Hoàng Sa, hình ảnh những người chiến sỹ đang ngày đêm canh giữ ngoài đảo xa và nêu câu hỏi: + Em biết gì về tình hình an ninh quốc phòng ở Trường Sa và Hoàng Sa? (Hiện nay đang có sự tranh chấp giữa 6 quốc gia có chung vùng biển Đông này vì nhiều mục đích khác nhau.Gay gắt nhất là sự tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trung Quốc lộ rõ tham vọng của mình về biển Đông bằng yêu sách Đường lưỡi bò trong đó bao gồm cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.) Sau đó giáo viên chốt: Từ xưa đến nay trong bản đồ Việt Nam cũng như trong lịch sử nước nhà hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Vậy mà nay Trung Quốc coi hai quần đảo này và hầu hết diện tích biển trong khu vực này là của mình.Việc làm đó của Trung Quốc là không có căn cứ và đi ngược với lịch sử. Chúng ta phải khẳng định rằng: Trong lịch sử nước nhà từ xưa đến nay và mãi mãi về sau hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là thuộc chủ quyền Việt Nam. Trong các tư liệu cổ và các bản đồ cổ Việt Nam và Trung Quốc đều khẳng định hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam. + Với tư cách là người chủ tương lai đất nước, với tình yêu biển em sẽ làm gì cho biển đảo quê hương? (Chúng em sẽ trân trọng, giữ gìn môi trường, chủ quyền biển đảo, học tập tốt để xây dựng các huyện đảo của ta ngày càng phát triển hơn. Bảo vệ chủ quyền quốc gia là trách nhiệm của tất cả mọi người dân Việt Nam.) Ngoài ra tôi còn tổ chức các hoạt động khác như: Vẽ tranh: Em yêu biển đảo quê hương; Hoàng Sa - Trường Sa trong trái tim em; viết bài với chủ đề: Vì Trường Sa thân yêu, biển đảo quê hương. 15 Học sinh lớp 4B tham gia cuộc thi vẽ tranh: Em yêu biển đảo quê hương Việt Nam Học sinh lớp 4B tham gia viết bài với chủ đề: Vì Trường Sa thân yêu, biển đảo quê hương Dưới hình thức tổ chức dạy học này, các em học sinh sẽ có dịp nói lên tâm tư tình cảm của mình đối với biển đảo; thể hiện tình yêu quê hương đất nước, sự trân trọng và biết ơn những người chiến sỹ đã hi sinh và cả những chiến sỹ đang ngày đêm canh giữ biên cương nơi đầu sóng ngọn gió. Khi các em sưu tầm tư 16 liệu, hình ảnh để viết bài sẽ bổ sung và làm phong phú thêm kiến thức về biển đảo của các em. Củng cố thêm tình yêu Tổ quốc, yêu dân tộc; biết ơn các chiến sỹ đảo xa. Ngoài ra, qua hình thức tổ chức này sẽ giúp các em củng cố và nâng cao kiến thức, chất lượng dạy học môn Mỹ thuật, phát triển kỹ năng viết văn trong phân môn Tập làm văn, phát triển toàn diện: Văn - trí - thể - mỹ.Từ đó thôi thúc các em hăng say, vươn lên trong học tập xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước, để sau này cống hiến được nhiều hơn cho đất nước. Từ những học sinh rụt rè, nhút nhát, thụ động giờ đây các em đã chủ động tìm tòi, khám phá, tự phát hiện, rèn luyện và xử lý thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực phẩm chất phát huy tính chủ động và sáng tạo của học sinh đáp ứng yêu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai. 3.5/ Sử dụng các trò chơi học tập đa dạng, phong phú: Để tạo cho học sinh hứng thú học tập, tôi thường xuyên tổ chức các tiết học dưới hình thức: Vừa học vừa chơi. Những trò chơi học tập giúp các em thích thú hơn những câu hỏi, những phiếu học tập. Hình thức chơi cũng luôn đổi mới để lần nào các em cũng hào hứng tham gia như: Rung chuông vàng, ô chữ kỳ diệu, hướng dẫn viên du lịch,… Ví dụ1: Khi dạy bài 29: Biển, đảo và quần đảo - SGK trang 149, 150: Cuối tiết học tôi sẽ tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Ô chữ kỳ diệu để củng cố và khắc sâu kiến thức. Hệ thống các câu hỏi để tìm ra từ khóa ở từng ô chữ: + Câu 1: Ô số 1: Có 5 chữ cái, tên một đảo lớn nằm ở vùng biển phía Bắc nước ta? + Câu 2: Ô số2: Có 9 chữ cái, biển, đảo, quần đảo nước ta có nhiều.......cần được bảo vệ và khai thác hợp lý. + Câu 3: Ô số 3: Có 6 chữ cái, đảo Phú Quốc nổi tiếng trồng loại cây này? + Câu 4: Ô số 4: Có 7 chữ cái, đây là một quần đảo lớn ở ngoài khơi miền Trung và thuộc thành phố Đà Nẵng? + Câu 5: Ô số 5: Có 3 chữ cái, một bộ phận đất nổi, xung quanh có nước biển và đại dương bao bọc gọi là gì? + Câu 6: Ô số 6: Có 6 chữ cái, đây là địa danh ghi dấu các chiến sỹ cách mạng thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu? 17 + Câu 7: Ô số 7: Có 7 chữ cái, nơi tập trung nhiều đảo gọi là gì? + Câu 8: Ô số 8: Có 8 chữ cái, tên một quần đảo nổi tiếng ở ngoài khơi miền Trung và thuộc tỉnh Khánh Hòa? Ví dụ 2: Khi dạy bài 5: Tây Nguyên - SGK trang 82, 83: Tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi: Em là hướng dẫn viên du lịch. Học sinh sẽ chọn và dựa vào tranh minh họa cùng với kinh nghiệm sống của mình để tự mình giới thiệu về cao nguyên mà em lựa chọn được. Ví dụ: Khi học sinh giới thiệu về cao nguyên Đắc Lắc, cao nguyên Lâm Viên: Học sinh dựa vào tranh, viết bài sau đó thuyết minh: CAO NGUYÊN ĐẮK LẮK NGÃ 6 BUÔN MA THUỘT LỄ HỘI CÀ PHÊ BUÔN MA THUỘT CAO NGUYÊN LÂM VIÊN 18 Bài thuyết minh của em Trịnh Phương Chi lớp 4B về cao nguyên Đắk Lắk Bài thuyết minh của em Phạm Thị Thu Huyền lớp 4B về cao nguyên Lâm Viên Cùng với việc thực hiện mục tiêu và nội dung bài học, sau khi học sinh giới thiệu về vùng đất Tây Nguyên tôi tiến hành dạy lồng ghép nội dung giáo dục quốc phòng an ninh một cách truyền cảm, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu, tự nhiên phù hợp với đặc điểm và trình độ học sinh. Tôi cho học sinh quan sát tranh và đoạn video để biết được: Đắc Lắc - nơi mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp trên địa bàn Tây Nguyên và người anh hùng đất Tây Nguyên kiên trung để giới thiệu về anh hùng Núp. Từ đó sẽ giúp học sinh thấy được tinh thần đoàn kết, đồng cam cộng khổ của các dân tộc Tây Nguyên cùng với bộ đội trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Quân ta tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột mở đầu chiến dịch Tây Nguyên (11/03/1975) [5] Sau khi học sinh xem xong đoạn video giáo viên chốt: Tây Nguyên được ví như “mái nhà của Đông Dương”. Nếu ai chiếm được Tây Nguyên thì có quyền 19 làm chủ miền Nam Việt Nam. Vì thế trên địa bàn Tây Nguyên diễn ra nhiều trận đọ sức quyết liệt giữa ta và địch với mục tiêu giành lấy cao nguyên này. Thuận lợp của ta là người dân các dân tộc Tây Nguyên một lòng đi theo Đảng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng bào nơi đây đã phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, nêu cao tinh thần đoàn kết, anh dũng, kiên cường, bất khuất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Tiêu biểu như anh hùng Núp, con người của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ đã làm nên một huyền thoại về người dân đánh giặc giữ nước. Noi gương anh hùng Núp đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã góp sức người, sức của cùng bộ đội làm nên nhiều chiến công vang dội. Với không khí học tập thoải mái, tự nhiên giáo viên trở thành người bạn của học sinh và học sinh sẽ rất hào hứng xung phong làm hướng dẫn viên du lịch, người dẫn chương trình hay tự tin tham gia vào các chương trình rung chuông vàng. Tất nhiên những bài đầu học sinh còn lúng túng, nói chưa lưu loát, giáo viên cần hướng dẫn giúp đỡ. Nhưng đến những bài sau, các em sẽ tiến bộ hơn, thêm nhiều kinh nghiệm khi trình bày trước đám đông. Do đó tiết học sẽ giảm áp lực căng thẳng cho học sinh, học sinh sẽ được ôn tập, củng cố, hệ thống lại kiến thức một cách nhẹ nhàng và tự nhiên. 4/ Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Như vậy việc sử dụng phương pháp dạy học cho học sinh đối với phân môn Địa lý cũng quan trọng không kém các môn học khác. Giáo viên phải hình thành cụ thể, rõ ràng, có lôgic, không được đưa các em vào thế áp đặt, phải để các em làm chủ bài học, làm chủ kiến thức của mình để từ đó các em chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng một cách hiệu quả nhất. Đây là cơ hội để học sinh tiếp tục phát triển năng lực, kỹ năng quan sát, sử dụng, nhận xét, so sánh, phân tích, tiếp tục phát triển khả năng diễn đạt và tập suy luận theo mục tiêu môn học, chất lượng dạy học ngày càng vững chắc và ổn định. Từ đó bồi dưỡng cho các em tình yêu thiên nhiên đất nước, yêu con người Việt Nam và có ý thức bảo vệ môi trường. Học sinh tự chủ động chiếm lĩnh kiến thức, tự tìm tòi để phát hiện kiến thức mới. Từ đó các em dễ dàng rút ra khái niệm, nội dung chính của bài học, giúp các em hiểu, nhớ và vận dụng tốt hơn. Qua thực tế giảng dạy bản thân đã tiếp cận được phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy học, tổ chức giờ học nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả, được ban giám hiệu và đồng nghiệp đánh giá cao. Kết quả kiểm tra môn Lịch sử - Địa lý cuối tháng 3 năm học 2018 – 2019 của lớp 4B như sau: Môn học Sĩ số HS Lịch sử Địa lý LS&ĐL 35 35 35 Hoàn thành tốt SL % 19 54,3 22 62,9 21 60 Hoàn thành SL % 16 45,7 13 37,1 14 40 Chưa hoàn thành SL % C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan