Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
Mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài.
Thành tựu to lớn của CNTT trong những thập kỷ qua đã tạo
ra nhiều ứng dụng mới, là tiền đề "số hóa" cho các hoạt động kinh
tế - xã hội của thế kỷ XXI. Từ khi mạng Internet được đưa vào sử
dụng, thương mại điện tử (e-commerce) đã phát triển với tốc độ
rất nhanh trên phạm vi toàn cầu, dù ở các hình thức, các mức độ
khác nhau tuỳ theo từng quốc gia, từng khu vực. Thương mại điện
tử được ứng dụng khá phổ biến ở các nước công nghiệp phát
triển. Nhiều nước đang phát triển đã và đang chú trọng ứng dụng
và phát triển thương mại điện tử. Thương mại điện tử đã thực sự
trở thành một chủ đề mang tính thời sự trong đời sống kinh tế trên
phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, thương mại điện tử là một loại hình
hoạt động mới trong nền kinh tế thị trường, hàm chứa nhiều đặc
thù và đang từng bước định hình và hoàn thiện trên mọi quy mô quốc tế, quốc gia và đối với từng doanh nghiệp. Thương mại điện
tử vẫn là một chủ đề còn rất mới mẻ đối với giới nghiên cứu trong
và ngoài nước. Nhiều vấn đề trong thương mại điện tử đòi hỏi sự
thống nhất về mặt lý luận, nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên
cứu, làm sáng tỏ.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế, đối với Việt Nam, phát triển thương mại điện tử
- 1 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
là một xu thế tất yếu. Việt Nam cũng đã bắt đầu từng bước tiếp
cận thương mại điện tử. Trong định hướng phát triển các ngành
kinh tế, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã khẳng định
chủ trương “phát triển thương mại điện tử”[22, 178] và đẩy mạnh
“nghiên cứu đề xuất những biện pháp xúc tiến thương mại điện
tử”[22, 334]. Qua hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn
là một nước đang phát triển, trình độ sản xuất thấp; thể chế kinh
tế và nhiều yếu tố thị trường vẫn đang trong quá trình tạo lập. Cho
nên, để có thể tiếp cận và từng bước phát triển thương mại điện tử
ở Việt Nam, cần phải xác định rõ những vấn đề đặt ra, nhất là đối
với các nhân tố quyết định sự phát triển thương mại điện tử.
Vì vậy, “Thương mại điện tử và những vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam” là một đề tài nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn, góp phần tìm hiểu một số vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu.
Thương mại điện tử đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều tổ chức quốc tế, như: Liên hợp quốc (UN), Tổ chức hợp tác
và phát triển kinh tế (OECD), Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Ngân hàng Thế giới (WB),... Trên thế giới, đông đảo các
nhà nghiên cứu, các viện nghiên cứu, các trường đại học rất chú ý
quan tâm tới thương mại điện tử. Nhiều quốc gia đã thành lập các
cơ quan chuyên nghiên cứu về thương mại điện tử. Trên thế giới
- 2 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
hiện có một số tạp chí và Web site chuyên khảo về thương mại
điện tử. Trong vài năm gần đây, nhiều diễn đàn, hội nghị, hội thảo
quốc tế về thương mại điện tử liên tục được tổ chức.
Ở Việt Nam, thương mại điện tử đã và đang được quan tâm
nghiên cứu. Đảng và Nhà nước đã xác định đường lối, chủ
trương từng bước ứng dụng và phát triển thương mại điện tử.
Hiện nay, thương mại điện tử cũng thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của nhiều ngành như bưu chính viễn thông, thương mại,...,
nhiều tổ chức Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội
Tin học Việt Nam,... Bộ Thương mại cũng đã thành lập Ban chỉ
đạo ứng dụng và phát triển thương mại điện tử do Thứ trưởng Lê
Danh Vĩnh làm Trưởng ban. Bộ Thương mại cũng đang triển
khai dự án nghiên cứu ứng dụng và phát triển thương mại điện tử
ở Việt Nam. Nhiều hội nghị, hội thảo về thương mại điện tử đã
được tổ chức. Thương mại điện tử đã được đề cập khá nhiều trên
các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo chí.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về thương mại điện tử ở Việt
Nam mới chỉ mang tính tiếp cận ban đầu, hoặc mới chỉ đề cập tới
một vài khía cạnh nhất định của thương mại điện tử. Nhiều vấn đề
trong thương mại điện tử vẫn còn rất mới mẻ, cần đi sâu nghiên
cứu. Cho tới nay, “Thương mại điện tử và những vấn đề đặt ra
đối với Việt Nam” là một đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận
và thực tiễn đối với sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam,
nhưng chưa được tiến hành nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu.
- 3 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
Qua sự khái quát những nhận thức cơ bản về thương mại
điện tử và bước đầu tổng kết thực tiễn hình thành, phát triển
thương mại điện tử trên phạm vi quốc tế, luận văn sẽ phân tích
thực trạng tiếp cận thương mại điện tử ở Việt Nam, đi sâu phân
tích các nhân tố quyết định sự phát triển thương mại điện tử ở
Việt Nam. Từ đó, bước đầu xác định những vấn đề đặt ra đối với
sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
Dựa trên những phân tích về tình hình tiếp cận và thực trạng
các nhân tố quyết định sự phát triển thương mại điện tử ở Việt
Nam, luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm tạo lập cơ sở cho sự
tiếp cận và từng bước phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nhìn chung, các nghiên cứu về thương mại điện tử tập trung
trên hai phương diện. Phương diện vi mô chú trọng nghiên cứu
thương mại điện tử trong phạm vi doanh nghiệp, từ việc xây dựng
chiến lược thương mại điện tử tới những tác nghiệp thương mại
điện tử trong doanh nghiệp... Phương diện vĩ mô nghiên cứu
thương mại điện tử trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc gia và
quốc tế, nghiên cứu thương mại điện tử trong mối tương quan với
các vấn đề kinh tế vĩ mô, nghiên cứu môi trường vĩ mô cho sự
phát triển thương mại điện tử.
Dước góc nhìn của khoa học kinh tế - chính trị, luận văn
nghiên cứu những vấn đề lý thuyết và thực tiễn hoạt động thương
mại điện tử trên phạm vi quốc tế và Việt Nam. Qua đó, phân tích
- 4 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
những biến chuyển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong xu thế "số hóa". Dựa trên cơ sở đó, phân tích môi trường vĩ
mô và những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển thương mại điện
tử ở Việt Nam. Từ đó, bước đầu xác định, đề xuất một số kiến
nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
Do giới hạn về khuôn khổ của bản luận văn cao học, về kinh
nghiệm quốc tế, bài viết chỉ nghiên cứu sự phát triển TMĐT ở
một nước cụ thể là Trung Quốc - một nước có nhiều điểm tương
đồng với Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, tác giả ứng dụng đồng thời và hài hòa
những phương pháp nghiên cứu chủ đạo trong kinh tế chính trị
như:
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp duy vật.
Trong đó, chú trọng sử dụng các phương pháp như:
+ Phương pháp trừu tượng hóa.
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp so sánh.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Dự kiến những đóng góp mới của đề tài:
- Hệ thống hóa dưới góc độ lý thuyết những vấn đề cơ bản
về thương mại điện tử.
- 5 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
- Phân tích, đánh giá quá trình hình thành và phát triển
thương mại điện tử trên phạm vi quốc tế và Việt Nam, chỉ ra các
nhân tố và điều kiện cần thiết cho sự phát triển thương mại điện
tử ở Việt Nam. Từ đó, bước đầu xác định những vấn đề đặt ra đối
với sự phát triển TMĐT ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tạo lập cơ sở cho sự tiếp cận
và từng bước phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn:
Luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Thương mại điện tử - cơ sở lý luận và thực tiễn,
gồm 3 tiết.
Chương 2: Thực trạng phát triển thương mại điện tử ở Việt
Nam, gồm 2 tiết.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh sự phát triển
thương mại điện tử ở Việt Nam, gồm 2 tiết.
- 6 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
CHƯƠNG 1
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ - KHÍA CẠNH LÝ THUYẾT.
1.1.1. Định nghĩa Thương mại điện tử.
Trải qua gần một thập kỷ hình thành và phát triển, thương
mại điện tử (electronic commerce hay e-commerce) đã từng có
nhiều tên gọi như: "thương mại trực tuyến" (online trade),
"thương mại điều khiển học" (cybertrade), "kinh doanh điện tử"
(electronic business hay e-business), "thương mại không giấy tờ"
(paperless commerce hoặc paperless trade)... Gần đây, cách gọi
"thương mại điện tử" (e-commerce) được sử dụng phổ biến, rồi
trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản pháp luật quốc tế, dù
rằng các tên gọi khác vẫn có thể được sử dụng và được hiểu
tương tự [2, 5].
Tới nay, quan niệm về “thương mại điện tử” cũng rất khác
nhau trên phạm vi quốc tế, rất nhiều tổ chức và cá nhân đã đưa
ra nhiều định nghĩa khác nhau về “thương mại điện tử” (ecommerce). Các định nghĩa về thương mại điện tử rất đa dạng và
có khá nhiều điểm khác biệt. Sự khác biệt chủ yếu trên 2 khía
cạnh: phương tiện thực hiện (qua Internet hay qua các phương
tiện điện tử nói chung,...) và nội dung của hoạt động thương mại
(bao gồm nhiều lĩnh vực hay chỉ bó hẹp trong một số lĩnh vực).
- 7 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
Một số định nghĩa xác định nội dung hoạt động là các hoạt
động thương mại và phương tiện thực hiện là các phương tiện
điện tử hay các mạng viễn thông nói chung. "Thương mại điện tử,
định nghĩa một cách đơn giản, là những giao dịch thương mại
trong lĩnh vực dịch vụ bằng các phương tiện điện tử”.
(Transatlantic Business Dialogue Electronic Commerce White
Paper, 1997) [28]. “Thương mại điện tử gồm tất cả các hình thức
giao dịch thương mại, với chủ thể tham gia gồm cả các tổ chức
và các cá nhân, dựa trên sự xử lý và truyền các dữ liệu số hóa,
bao gồm văn bản, âm thanh, hình ảnh” (OECD, 1997) [30].
“Thương mại điện tử là sự tiến hành các hoạt động thương mại,
mà các hoạt động đó dẫn tới sự trao đổi giá trị thông qua các
mạng viễn thông” (European Information Technology Obervatory
1997) [24]. "Thương mại điện tử là việc sử dụng công nghệ có
liên quan đến Internet để cải tiến và chuyển hỡnh thỏi của cỏc
hoạt động kinh doanh quan trọng. Thương mại điện tử là bất kỳ
hoạt động nào có thể nối các hệ thống kinh doanh trực tiếp tới
khách hàng, nhân viên, người bán hàng và các nhà cung cấp
thông qua các mạng nhỏ (nội bộ bên trong và bên ngoài) và trên
mạng toàn thế giới"[1].
Một số định nghĩa xác định phương tiện thực hiện hẹp hơn,
chỉ bao gồm Internet. “Thương mại điện tử là thuật ngữ dùng để
chỉ mua bán hàng hóa và các dịch vụ trên mạng Internet, đặc biệt
là qua dịch vụ World Wide Web”[21, 334]. Việc giới hạn hẹp
- 8 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
phương tiện hoạt động chỉ qua Internet có ưu điểm là xác định cụ
thể phương tiện thực hiện, thuận lợi cho việc đánh giá, đo lường
nhưng không bao quát được toàn bộ môi trường hoạt động
TMĐT, nhất là trong xu thế hiện nay CNTT dang phát triển
không ngừng, các phương tiện thực hiện TMĐT ngày càng mở
rộng và phát triển.
Theo UNCTAD, rất nhiều định nghĩa về TMĐT chủ yếu dựa
trên những kinh nghiệm thực tế và thường không đánh giá hết sự
quan trọng thực sự của TMĐT cũng như những ảnh hưởng của nó
tới nền kinh tế. UNCTAD cho rằng đó là những định nghĩa mang
tính mô tả (descriptive definitions) và đã đưa ra hai định nghĩa
mang tính hành động (operational definitions) về TMĐT, với
quan niệm định nghĩa mang tính hành động sẽ là cơ sở thực tiễn
cho hành động. Định nghĩa thứ nhất (định nghĩa theo chiều ngang
- horizontal definition), dưới góc độ quan tâm của doanh nghiệp,
chủ yếu đề cập tới các khía cạnh giao dịch của TMĐT, còn định
nghĩa thứ hai (định nghĩa theo chiều dọc - vertical definition),
dưới góc độ quan tâm của chính phủ, chủ yếu đề cập tới các yêu
cầu cần thiết đề có thể thực thi một chiến lược TMĐT [25, 14-16].
Định nghĩa trên phương diện doanh nghiệp:
Nếu một doanh nghiệp có ý định bước vào lĩnh vực TMĐT,
doanh nghiệp đó cần xem xét có thể đáp ứng các yêu cầu cần thiết
để có thể thực hiện TMĐT hay không. Những nhà quản lý của các
- 9 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
doanh nghiệp sẽ so sánh "chuỗi cung ứng thông thường" với
"chuỗi cung ứng TMĐT" họ có thể thiết lập. Khi làm việc đó, họ
sẽ phải xem xét tới khả năng thực hiện và cơ sở thực tiễn qua các
chức năng kinh doanh theo thứ tự nối tiếp như sau: Tiếp thị - Bán
hàng - Giao hàng - Thanh toán (Marketing - Sales - Delivery Payment). Có thể tóm tắt mô hình MSDP như đồ hình dưới đây :
Hình 1. MSDP: mô hình TMĐT theo chiều ngang
Định nghĩa thứ nhất có giá trị cả trên phương diện thực tiễn và
trong việc phân tích. Trên phương diện thực tiễn, định nghĩa này có
thể giúp doanh nghiệp dễ dàng nhận diện những cơ hội và những
khó khăn, cản trở khi bắt đầu chiến lược TMĐT. Trên góc độ phân
tích (và thống kê), định nghĩa này cũng gợi mở một sự lựa chọn
giữa rất nhiều định nghĩa mang tính mô tả. Có thể xác định rằng nếu
tối thiểu 2 trong 3 công đoạn cuối cùng của mô hình trên (ký kết
- 10 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
hợp đồng, giao nhận và thanh toán) được thực hiện qua Internet thì
đó là một giao dịch TMĐT.
Định nghĩa trên phương diện quốc gia:
Thay vì chú trọng tới các bước của một giao dịch TMĐT,
định nghĩa TMĐT theo chiều dọc nhấn mạnh tới vai trò của các
đối tượng tham dự khác nhau trong TMĐT (ví dụ như: chính phủ,
các thể chế luật pháp, các doanh nghiệp...). Hiểu theo cách thông
thường, định nghĩa này rất gần với những quan tâm của chính phủ
trong việc đưa ra những sự lựa chọn mang tính chiến lược để tạo
môi trường thích hợp cho sự phát triển TMĐT.
Mô hình thứ hai (mô hình IMBSA) có thể được diễn tả
theo cách thức sau:
1. I viết tắt của hạ tầng (Infrastructure) - điều kiện đầu tiên
cho sự phát triển TMĐT và sử dụng Internet là hạ tầng viễn thông
- lớp đầu tiên của mô hình này.
2. M viết tắt của thư tín (Messages) - Một trong những điều
kiện cần thiết đầu tiên là phát triển các công cụ nhằm tiêu chuẩn
hóa và làm tương thích các thư tín điện tử - những thứ sẽ được
trao đổi trong quá trình giao dịch TMĐT. Mặc dù về cơ bản thư
tín mang một “chức năng quốc tế” (thư tín cần được trao đổi trên
phạm vi toàn cầu) nhưng chính phủ đóng vai trò quan trọng trong
việc chấp thuận và phổ biến.
- 11 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
3. B là các cơ sở pháp lý căn bản (Basic Rules) - những đạo
luật cơ bản và mang tính quốc tế, bao gồm những lĩnh vực liên
quan tới TMĐT. Ví dụ như luật thương mại (WTO), luật sở hữu
trí tuệ (WIPO), cũng như các qui định liên quan đến việc trao đổi
thư tín điện tử,...
4. S là các cơ sở pháp lý trong từng lĩnh vực (Sectoral
Rules). Các hoạt động trong mỗi lĩnh vực liên quan tới giao dịch
TMĐT (như các hoạt động thuộc ngân hàng, các mặt hàng cụ thể
có thể mua bán qua mạng thông tin, hay thậm chí những hoạt
động cụ thể chịu ảnh hưởng của TMĐT như giáo dục, y tế,...) cần
phải dựa trên một hệ thống pháp luật và qui định nhất quán, có thể
đoán định.
5. A là các ứng dụng (Applications). Khi các điều kiện trên
đã được đảm bảo, sự thành công của một chiến lược TMĐT cần
được đảm bảo rằng các doanh nghiệp tham gia TMĐT có thể thực
sự thu lợi từ môi trường đã được tạo ra. Thiết kế các trang web
hiệu quả, thiết kế và thực thi các chiến lược liên minh thích hợp
(gồm thông qua liên doanh hoặc liên minh) sẽ là một trong những
điều kiện đảm bảo thành công trong TMĐT.
Hình 2. IMBSA: một sự mô tả mang tính cấu trúc hóa
TMĐT toàn cầu
- 12 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
Mô hình theo chiều ngang có hai điều đáng quan tâm. Thứ
nhất, mô hình này là cơ sở để các chính phủ có thể xác định các
nội dung cần có nhằm tạo ra một môi trường thích hợp cho sự
phát triển của TMĐT. Thứ hai, dựa trên mô hình này, các tổ chức
quốc tế có thể xác định phương hướng góp phần xây dựng hệ
thống các hướng dẫn, các điều luật, các tiêu chuẩn, các qui định
để TMĐT toàn cầu có thể trở thành hiện thực.
Nhìn chung, khái niệm “thương mại điện tử” vẫn đang trong
quá trình định hình. Các tổ chức, các doanh nghiệp, các cá nhân,
các chính phủ thường đưa ra định nghĩa về TMĐT căn cứ theo
từng mục tiêu cụ thể như: tiến hành TMĐT, đo lường giá trị
TMĐT hay xây dựng chiến lược TMĐT, ban hành chính sách
phát triển TMĐT,...
Từ những quan niệm khác nhau về thương mại điện tử, có
thể hiểu khái niệm này với những đặc trưng cơ bản sau:
- Thương mại điện tử là loại hình thương mại hiện đại, đánh
dấu bước phát triển vượt bậc của hoạt động thương mại. Thương
- 13 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
mại điện tử hình thành trên cơ sở sự phát triển cao của lực lượng
sản xuất, đặc biệt nhờ sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông
tin và mạng Internet.
- Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường và sự phát
triển không ngừng của công nghệ thông tin, TMĐT ngày càng
được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực và ngày càng phát triển các
hình thức TMĐT mới.
- Hoạt động thương mại điện tử thu hút sự tham gia của mọi
đối tượng xã hội, đặc biệt cần có sự phối hợp và thống nhất trên
phạm vi quốc tế.
1.1.2. Các loại hình hoạt động chủ yếu trong thương mại điện
tử.
- Thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp (B2B)
Thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp (Business to
Business - B2B) là loại hình hoạt động thương mại điện tử giữa các
doanh nghiệp. Đặc trưng quan trọng của loại hình hoạt động này là
các hàng hóa, dịch vụ trong giao dịch sẽ được sử dụng làm đầu vào
để sản xuất các hàng hóa, dịch vụ khác.
B2B thường bao gồm các hoạt động giao dịch thương mại,
trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), giao gửi số hóa các dung liệu...
- Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với người tiêu
dùng (B2C)
- 14 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
B2C là loại hình hoạt động TMĐT giữa doanh nghiệp với
người tiêu dùng. Đặc trưng quan trọng của loại hình hoạt động
này là các hàng hóa, dịch vụ trong giao dịch sẽ được sử dụng để
phục vụ các nhu cầu của người tiêu dùng.
Một trong những hoạt động chính của loại hình B2C là bán lẻ
các sản phẩm, dịch vụ (hữu hình và vô hình).
- Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và chính phủ
(B2G)
Trên mạng thông tin quốc tế Internet, B2G (Business-toGovernment) là thuật ngữ chung chỉ việc các cơ quan của chính
phủ và doanh nghiệp có thể sử dụng các Web site trung ương để
trao đổi thông tin và làm việc với nhau có hiệu quả hơn. Chẳng
hạn, các Web site của chính phủ có thể cung cấp cho doanh
nghiệp các thông tin về thuế, thủ tục hải quan, thông tin về các
mối quan hệ hợp tác, trả lời các câu hỏi và yêu cầu... Các doanh
nghiệp và các cơ quan chính phủ cũng có thể trao đổi thông tin và
hợp tác với nhau khi thực hiện các dự án được ký kết bằng cách
sử dụng một Web site chung để tổ chức các cuộc họp trên mạng,
đánh giá các kế hoạch và tổng kết các kết quả đạt được qua mạng.
Hình 3: Các loại hình hoạt động chủ yếu trong TMĐT
- 15 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
1.1.3. Những điều kiện phát triển thương mại điện tử.
1.1.3.1. Kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin.
Thương mại điện tử không phải là một sáng kiến ngẫu hứng,
mà là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hoá của công
nghê thông tin, mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vỡ thế,
chỉ cú thể tiến hành thương mại điện tử với nội dung và hiệu quả
đích thực khi đó cú một kết cấu hạ tầng cụng nghệ thụng tin vững
chắc (bao gồm hai lĩnh vực: tin học và truyền thụng) trên qui mô
quốc gia, cùng vói sự tham gia của toàn xã hội. Trong đó, hai yếu
tố quan trọng nhất là khả năng kết nối Internet (bao gồm tốc độ
đường truyền, số cổng kết nối, số người sử dụng Internet, số
lượng tên miền và web site,...) và hạ tầng viễn thông. Chi phí truy
cập và kết nối, thuê cổng Internet là một vấn đề không mang tính
kỹ thuật, công nghệ, nhưng có mối quan hệ mật thiết đối với trình
độ khoa học - công nghệ và quản lý của mỗi quốc gia. Theo quy
- 16 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
luật cung - cầu, mức chi phí đó sẽ tác động tới số lượng người sử
dụng Internet, hay tác động tới tiềm năng thị trường của TMĐT.
Hạ tầng cơ sở công nghệ không chỉ cần sự hiện hữu (availability)
mà cũn cần cú tớnh khả dụng (affordability), nghĩa là chi phí
trang bị các phương tiện công nghệ thông tin (điện thoại, máy
tính, modem v.v.) và chi phí dịch vụ truyền thông (phí điện thoại,
phí nối mạng và truy cập mạng) phải đủ rẻ để đông đảo người sử
dụng có thể tiếp cận được. éiều này cú ý nghĩa đặc biệt to lớn đối
với các nước đang phát triển, mức sống nói chung cũn thấp.
Cũng cần lưu ý rằng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin chỉ
có thể có và hoạt động đáng tin cậy trên nền tảng một nền công
nghiệp điện năng vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ,
ổn định, và với mức giá hợp lý.
Thiết lập và củng cố được một hạ tầng công nghệ trên nền
tảng công nghiệp điện năng như vậy đũi hỏi thời gian, hơn nữa
phải đầu tư rất lớn. Đây là điều đặc biệt khó khăn đối với các
nước đang phát triển.
1.1.3.2. Nguồn lực con người.
Thương mại trong khái niệm "thương mại điện tử" liên quan
tới mọi người, từ người tiêu thụ tới người sản xuất phân phối, tới
các cơ quan chính phủ, tới cả các nhà công nghệ và phát triển.
Áp dụng thương mại điện tử tất yếu làm nảy sinh hai yêu
cầu: một là mọi người đều cần quen thuộc và có khả năng thành
thạo hoạt động trên Internet, hai là có một đội ngũ chuyên gia tin
học nhanh, thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới
- 17 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
phát triển ra để phục vụ cho kinh tế số hoá nói chung và thương
mại điện tử nói riêng, cũng như có khả năng thiết kế các công cụ
phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế
số hoá, tránh bị động lệ thuộc hoàn toàn vào nước khác.
Ngoài ra, nếu sử dụng Internet/Web, thỡ một yờn cầu tự
nhiờn nữa của kinh doanh trực tuyến là tất cả những người tham
gia đều phải thành thạo Anh ngữ, vỡ tới nay (và cú lẽ cũn tới một
thời điểm rất xa nữa) ngôn ngữ chủ yếu sử dụng trong thương mại
nói chung và thương mại điện tử qua mạng Internet nói riêng vẫn
là tiếng Anh. Đây cũng sẽ là một khó khăn không nhỏ đối với các
nước đang phát triển như Việt Nam. Yêu cầu này của thương mại
điện tử sẽ dẫn tới sự thay đổi hệ thống giáo dục và đào tạo.
1.1.3.3. Khuôn khổ pháp lý.
Để thúc đẩy TMĐT, nhất thiết cần phải xây dựng một khuôn
khổ pháp lý cụ thể. Khung pháp luật này sẽ được áp dụng để điều
chỉnh các hoạt động thương mại nói chung và giao dịch TMĐT
nói riêng, không phân biệt mục đích tiêu dùng hay kinh doanh.
Trước hết, chính phủ từng nước phải thiết lập khuôn khổ phỏp lý
đối với các vấn đề được coi là trở ngại và khó khăn về pháp lý
cho sự phát triển của TMĐT như:
- Thừa nhận tớnh phỏp lý của giao dịch thương mại điện tử
và xác định cơ sở pháp lý để có thể giải quyết những vấn đề phát
sinh trong giao dịch TMĐT. Từ đó, nhất thiết phải có Luật
Thương mại điện tử.
- 18 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
- Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử (electronic
signature - tức chữ ký dưới dạng số đặt vào một thông điệp dữ
liệu, data message) và chữ ký số hoỏ (digital signature - tức biện
pháp biến đổi nội dung thông điệp dữ liệu khi dùng mó khoỏ để
giải mới thu được nội dung thật của thông điệp dữ liệu). Đồng
thời, cần có cỏc thiết chế phỏp lý, cỏc cơ quan pháp lý thích hợp
cho việc xác thực (authentication/certification) chữ ký điện tử và
chữ ký số hoỏ.
- Bảo vệ phỏp lý cỏc hợp đồng thương mại điện tử. Quan hệ
giữa các chủ thể trong giao dịch TMĐT là sự gặp gỡ từ xa, có thể
đã biết nhau hoặc chưa bao giờ gặp nhau. Đặc điểm này của
TMĐT có thể mang đến những rủi ro cho các chủ thể tham gia
giao dịch. Luật hợp đồng là một trong những vấn đề vướng mắc
và gây nhiều trở ngại cho sự phát triển của TMĐT. Có rất nhiều
vấn đề đặt ra liên quan tới Luật hợp đồng khi áp dụng đối với các
giao dịch TMĐT như: hình thức văn bản, bản gốc, thời gian và
địa điểm giao kết hợp đồng, giá trị hiệu lực của hợp đồng... Theo
pháp luật, hợp đồng được xác lập khi các bên đạt được sự nhất trí
về các điều kiện với nhau, trừ một số loại hợp đồng cần được thực
hiện thông qua một số thủ tục mà pháp luật yêu cầu, ví dụ như:
hợp đồng viết, công chứng, đăng ký... Các hợp đồng được giao
kết qua các phương tiện thông tin điện tử cũng phải được công
nhận về mặt giá trị pháp lý.
- Cần có cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp, trách
nhiệm của bên thứ ba trong giao dịch (nhà cung cấp dịch vụ
- 19 -
Ch¬ng 1: Th¬ng m¹i ®iÖn tö - c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn
Internet, dịch vụ kết nối, dịch vụ chứng thực, xác nhận...). Các
nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực (bên thứ ba)
đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của một giao dịch
TMĐT vì họ chính là người chuyển đi hoặc lưu giữ các thông tin,
các tệp dữ liệu, đồng thời họ có thể cấp các chứng thực xác nhận
độ tin cậy và chính xác của người gửi cũng như của dữ liệu. Vì
vậy, trách nhiệm và quyền hạn đối với các thông tin chuyển đi và
lưu giữ của các nhà cung cấp dịch vụ cũng phải được quy định
trong khuôn khổ pháp lý của TMĐT.
- Bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử (bao gồm cả việc
pháp chế hoá các cơ quan phát hành các thẻ thanh toán).
- Quy định pháp lý đối với các dữ liệu có xuất xứ từ Nhà
nước, nhằm vừa có thể đảm bảo tính công khai hóa, vừa đảm bảo
bảo mật.
- Bảo vệ phỏp lý đối với sở hữu trí tuệ (bao gồm cả bản
quyền tác giả) liên quan đến mọi hỡnh thức giao dịch điện tử.
Càng ngày, giỏ trị sản phẩm càng cao ở khớa cạnh "chất xỏm"
của nú mà khụng phải là bản thõn nú. Vỡ lẽ đó, nổi lên vấn đề
bảo vệ sở hữu trí tuệ và bản quyền của cỏc thụng tin trờn Web
(cỏc hỡnh thức quảng cỏo, cỏc nhón hiệu thương mại, các cơ sở
dữ liệu, các dung liệu truyền gửi qua mạng v.v.) và hệ thống pháp
luật điều chỉnh các mối quan hệ về sở hữu trí tuệ sẽ phải được
điều chỉnh.
- Thông tin riêng về cá nhân, về doanh nghiệp phải được
đảm bảo bí mật. Khi thực hiện các giao dịch trên mạng, các chủ
- 20 -
- Xem thêm -