CHƯƠNG I:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÂM
NHẬP THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
I.Thị trường xuất khẩu
1.Thị trường
Thị trường luôn gắn liền với quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát
triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Thị trường theo nghĩa nguyên thuỷ, thị trường gắn liền với
một địa điểm nhất định, đó là nơi diễn ra các hoạt động mua bán
hàng hoá. Thị trường có tính không gian và thời gian.
Thị trường theo nghĩa hiện đại, thị trường là lĩnh vực trao
đổi mua bán hàng hoá thông qua môi giới là tiền tệ. Tại đây người
bán, người mua tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và
lượng hàng hoá lưu thông.
Thị trường được cấu thành bởi các nhân tố cơ bản là:
hàng-tiền, người mua-người bán từ đó, hình thành mối quan hệ
hàng hoá-tiền tệ, mua-bán, cung cầu và giá cả hàng hoá.
2.Thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu là lĩnh vực trao đổi mua bán hàng
hoá xuất khẩu thông qua môi giới là tiền tệ.
Các nhân tố cơ bản cấu thành nên thị trường xuất khẩu là
hàng xuất khẩu- tiền, nhà xuất khẩu- nhà nhập khẩu.
II. Thâm nhập thị trường xuất khẩu
1.Thâm nhập thị trường
Thâm nhập thị trường là gia tăng thị phần của các sản
phẩm hiện thời thông qua gia tăng nỗ lực marketing.
Thâm nhập thị trường bao gồm việc gia tăng số người bán,
gia tăng chi phí quảng cáo, chào hàng rộng rãi các tên hàng xúc
tiến bán, hoặc gia tăng nỗ lực quan hệ công chúng.
Các trường hợp mà doanh nghiệp áp dụng chiến lược thâm
nhập thị trường:
- Khi các thị trường sản phẩm và dịch vụ hiện tại chưa bão
hoà
- Khi tỷ lệ sử dụng của khách hàng hiện tại có thể gia tăng
đáng kể
- Khi thị phần của các đối thủ cạnh tranh chủ yếu đã giảm do
doanh số toàn nghành hàng đang gia tăng.
- Khi trong quá khứ có mối tương quan giữa một đồng doanh
thu và một đồng chi tiêu.
- Khi gia tăng tính kinh tế theo qui mô cung cấp các lợi thế
cạnh tranh chủ yếu
2.Thâm nhập thị trường xuất khẩu
Thâm nhập thị trường xuất khẩu là gia tăng
thị phần của sản phẩm xuất khẩu hiện thời trên thị trường xuất
khẩu thông qua các nỗ lực Marketing.
3.Marketing và vai trò của các hoạt động Marketing đối với
việc thâm nhập thị trường xuất khẩu
Theo Philip Kotler: Marketing là một dạng hoạt động của
con người nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của họ
thông qua trao đổi.
Quá trình trao đổi đòi hỏi phải làm việc. Ai muốn bán thì cần
phải tìm người mua. Ai muốn mua thì phải tìm người bán. Nền
tảng của hoạt động Marketing là: việc tạo ra hàng hoá, khảo sát,
thiết lập quan hệ giao dich, tổ chức phân phối, xác định giá cả,
triển khai dịch vụ…
Vai trò của Marketing đối với việc thâm nhập thị trường
xuất khẩu:
-
Các hoạt động Marketing là nền tảng để tiến hành phân
khúc thị trường, xác định vị trí sản phẩm của mình, lựa chọn thị
trường mục tiêu, vạch ra chiến lược cụ thể để thâm nhập thị trường
xuất khẩu
-
Các hoạt động Marketing có thể giúp các doanh nghiệp
thiết kế, đổi mới hàng hoá: sản phẩm, nhãn hiệu, bao bì, dịch vụ
cho phù hợp với thị trường dự kiến thâm nhập
-
Thông qua hoạt động phân tích Marketing, các doanh
nghiệp có thể ra được các quyết định hợp lý về giá cả
-
Kết quả thu được từ các hoạt động Marketing sẽ giúp
cho các nhà quản trị lựa chọn được cách thức xuất khẩu, phương
thức phân phối hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất.
-
Nếu các doanh nghiệp muốn tăng lượng bán xuất khẩu,
đẩy mạnh tiêu thụ thì các hoạt động truyên thông, khuyến mãi,
quảng cáo tuyên truyền và bán hàng trực tiếp của hoạt động
Marketing là các công cụ mạnh để họ lựa chọn.
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT
MAY SANG THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG
I Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường
Mỹ
1.Tình hình chung
Mỹ có thị trường may mặc lớn nhất thế giới: Hàng năm
nước này xuất khẩu trên 12 tỷ USD quần áo thủ công, hàng dệt
may bán thành phẩm, vải sợi bông và thô, nhập khẩu trên 60 tỷ
USD hàng may mặc dệt từ vải quần áo đồ cắm trại đồ gia dụng từ
vải khác…Các doanh nghiệp may mặc của chúng ta đều rất coi
trọng thị trường này. Hiện nay dệt may là nghành hàng đứng thứ 4
về doanh số xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ.Nhưng
trong thời gian vừa qua khả năng xuất khẩu vào thị trường này còn
gặp nhiều trở ngại do chưa được hưởng Quy chế tối huệ quốc MFN
của Mỹ, trong khi chúng ta chưa phải là thành viên của Hiệp định
đa sợi MFA của WTO. Sau đây là một vài nét điển hình về tình
hình này (các nguyên nhân sẽ được trình bày rõ ở phần: Các nhân
tố ảnh hưởng).
2.Về tốc độ xuất khẩu
Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
vào thị trường Mỹ
Mặt
1
1
1
1
1
1
hàng
994
995
996
997
998
999
2
000
Hàng
dệt
0
.11
Hàng
may
1
.78
2
.45
Cộng
2
Tăng
6
7
0.01
1.35 1.35 4.50 2.20
2
2
2
3
4
3.60
5.93 6.40 0.02 0.00
+
+
+
+
+
+
giảm (%)
5
.326 .053 .50
.80
2
2
2
2
5
1
6.87
5
.59
1
5.09
.56
3
558.9
38.8
8
9
9.86 1.82 13.6
29.7
5
5
Tỷ trọng so
với tổng trị giá
xuất khẩu của hàng
dệt
may
Việt .46
0
2
.25
2
.15
1
.99
1
.82
1
.78
1
.56
Nam(%)
Nguồn: Hải quan Mỹ và báo cáo của Bộ Thương Mại Việt
Nam
Đơn vị: Triệu USD
Qua bảng số liệu thống kê trên chúng ta thấy giá trị xuất
khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ tăng . Tuy nhiên mức tăng
này thấp hơn so với mức tăng trong xuất khẩu của toàn nghành dệt
may nên tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ giảm dần.
Trong năm 1995 có sự tăng đột biến phần lớn là nhờ có sự
chuyển biến tích cực về quan hệ đối ngoại giữa hai nước. Năm
1999 xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ đạt 30 triệu USD tăng
13.65% so với năm 1998. Trong năm 2000 đạt xấp xỉ 40 triệu USD
tăng 29.75% so với năm 1999 nhưng theo báo cáo của Bộ Thương
Mại Việt Nam con số này chỉ chiếm 0.062% thị phần nhập khẩu
hàng dệt may của Mỹ trong năm.
3.Mặt hàng xuất khẩu
Hiện nay, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ
mới chỉ có 10 Cat (category-chủng loại) phần lớn là hàng may
mặc, chia ra làm hai loại chủ yếu là hàng dệt thường và hàng dệt
kim mang ký hiệu: 41,161,331, 338, 340, 435, 438, 444, 636, 644.
Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang
Mỹ
199
M 8
Ki
m
Ki
m
ngạch
D
2000
9
Ki
ặt hàng
ệt
199
%
8
1.22
m
ngạch
2
0.45
%
8
3.74
ngạch
2
8.63
%
7
1.25
thường
2
0.58
D
ệt kim
T
3
.82
1
8.78
2
7
.55
1
1
6.26
2
1
0.91
1
2
8.75
3
1
ổng
4.40
00
8.00
00
9.54
00
cộng
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Báo cáo của Tổng công ty Vinatex
Số liệu trên cho ta thấy hàng dệt thường chiếm tỷ trọng
cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Điều
này một phần do thị hiếu một phần do trình độ công nghệ của ta
còn yếu.
Cũng theo báo cáo của Tổng công ty Vinatex, các mặt
hàng dệt may cụ thể của Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ trong
năm 1999 là:
-
Găng tay sợi bông
19,86% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ.
-
áo
dệt
kim
7,55 %
-
áo sơ mi vải bông
33,80 %
-
Quần sợi nhân tạo
6,80 %
-
Thảm len và thảm từ xơ dừa
26,82 %
4.Công nghệ-chất lượng
Theo thống kê của các chuyên gia thì thiết bị nghành Dệt
đã được đổi mới khoảng 40-50% và nghành May là 90-95%, trình
độ tự động hoá chỉ đạt mức trung bình, không ít công đoạn còn có
sự can thiệp trực tiếp của con người làm cho chất lượng sản phẩm
không ổn định.
Trình độ công nghệ của nghành Dệt Việt Nam còn lạc hậu
hơn so với các nước tiên tiến trong khu vực khoảng 10-15 năm, và
5 năm đối với nghành May. Ví dụ: Mặt hàng dệt kim cotton OE,
mặt hàng xuất khẩu lớn của Mỹ, Việt Nam chưa có sản phẩm đáp
ứng nhu cầu này bởi hiện tại chưa có nhà máy dệt kim nào của Việt
Nam đi từ sợi cotton OE, mà toàn bộ dệt kim đi từ sợi cotton kéo từ
thiết bị nồi khuyên có chải kỹ, chải thô hoặc từ sợi PE/CO. Các nhà
máy làm hàng dệt kim tròn 30 inch, áo ráp sườn. Trong khi đó, đặc
trưng sản phẩm dệt kim áo Polo-shirt, T-shirt ở thị trường Mỹ là áo
liền sườn, độ co tối thiểu khoảng 2-3% và sản phẩm đại trà đi từ
sợi cotton OE, có thuê hoa hoặc in hình nổi.
Chúng ta sẽ nhận thấy rõ hơn những nhận xét trên qua hai
bảng số liệu thống kê ở Thành phố Hồ Chí Minh (Trung tâm may
mặc lớn nhất Việt Nam-chiếm trên 60% năng lực sản xuất hàng
may mặc của cả nước) như sau:
Tình hình thiết bị máy móc ngành may mặc thành phố
HCM
(Đến 5/1998)
Phân loại theo
Khu vực kinh
doanh
Tổng trình độ
Ti
Trun
L
số máy
ên tiến g bình
ạc hậu
1. Khối quốc
doanh T/P
a. Máy may CN
5698
34
%
66%
0
%
b. Thiết bị phụ
2388
trợ
68
32%
%
2.Khối
%
QD
quận, huyện
a. Máy may CN
949
2
8%
%
b. Thiết bị phụ
trợ
0
75
1
7%
3
8%
%
Nguồn: Sở Công nghiệp TP.HCM
1
7%
Đánh giá trình độ công nghệ, máy móc của các đơn vị
may mặc trung ương đóng trên địa bàn thành phố HCM so với
các nước ASEAN
(đến hết năm 1999)
T
So sánh trình độ công
Loại thiết ổng số nghệ
bị
Hiện
%
đại hơn
10
0
1. Máy cắt
Nga
ng bằng
75
Lạ
c hậu
25
0
2. Máy may
10
5
85
10
10
14
83
3
0
3. Máy phụ
trợ (ép cổ, thêu, 0
ủi…)
Nguồn: Đề án quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp
trên điạ bàn TP. HCM
Qua bảng đánh giá này, chúng ta đều thấy rõ sự thua kém
về công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam. Sự thua kém lại
tăng thêm nếu chúng ta tính cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
và các trung tâm may mặc khác trên phạm vi cả nước.
5.Về nguyên vật liệu
Phần lớn nguyên vật liệu ngành may mặc nhập khẩu từ các
nước trong khu vực nhất là nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hàng chất lượng cao. Điều này sẽ ảnh hưởng đến giá cả và
sự chủ động trong kinh doanh.
6.Mức độ am hiểu về thị trường Mỹ
Mức độ am hiểu
Số doanh
Tỷ lệ
nghiệp
%
26
16.05
58
41.98
1. Am hiểu nhiều
2. Am hiểu có mức độ
3. Am hiểu ít
50
30.86
4. Không biết về thị
trưòng Mỹ
5. Không trả lời
9
5.56
9
5.56
Tổng cộng
162
100
Nguồn: Sở Công nghiệp TP.HCM(1999)
Trên đây là kết quả khảo sát 162 doanh nghiệp may mặc(bao
gồm cả doanh nghiệp đang xuất khẩu và đang chuẩn bị xuất khẩu
sang Mỹ) trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 1999. Qua đó
ta thấy mức độ hiểu biết về thông tin, luật lệ kinh doanh còn rất
khiêm tốn.
7. Quy mô- cách thức xuất khẩu
Đa số các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ không đủ sức thực hiện
những hợp đồng giao dịch lớn trong thời hạn ngắn.
Cách thức xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ
Cách thức xuất khẩu
Số
nghiệp khảo sát
1. Ký hợp đồng xuất khảu
3
trực tiếp
9
2. Gia công xuất khẩu
0
3. Có đại lý phân phối trực
1
doanh
T
ỷ lệ %
23
.08
69
.23
tiếp
0
4. Bán qua một nước thứ
8.
ba
69
Tổng cộng
100
13
Lưu ý: Có doanh nghiệp sử dụng nhiều hình thức xuất khẩu
Nguồn: Đề án quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp
trên điạ bàn TP. HCM
Trước đây, phần lớn các sản phẩm may mặc Việt Nam
không xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ được, mà phải đi qua một
nược thứ 3 khiến giá bị đội lên rất nhiều nên chưa tạo được chỗ
đững vững chắc trên thị trường này.Hiện nay, số doanh nghiệp xuất
khẩu trực tiếp đã tăng lên nhưng phần vẫn còn rất nhiều doanh
nghiệp (gần 70%) chỉ dừng lại ở hợp đồng gia công cho nước
ngoài, lợi nhuận thu về thấp. Chưa có một doanh nghiệp nào đặt
đại lý phân phối trực tiếp sản phẩm của mình tại thị trường Mỹ.
8. Khả năng cạnh tranh
Do chưa được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc của Mỹ, hàng
dệt may của Việt Nam phải chịu mức thuế 40-70% nên giá bán các
sản phẩm cùng loại của chúng ta thường cao hơn Trung Quốc, Thái
Lan, Indonexia…Cộng với trình độ công ngệ và chất lượng thấp
hơn, chúng ta có thể khẳng định: hàng dệt may Việt Nam chưa có
tính cạnh tranh cao ở thị trường Mỹ.
9. Tổng kết tình hình
Mặc dù các số liệu mới chỉ tập trung khảo sát các doanh
nghiệp may mặc ở Thành phố Hồ Chí Minh nhưng đây là trung tâm
may mặc lớn nhất cả nước, nên chúng ta có thể tổng kết về tình
hình xuất khẩu sang thị trưòng Mỹ như sau:
Các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện được việc xuất
khẩu mặt hàng may mặc sang Mỹ có tốc độ tăng khá nhưng còn
hạn chế cả về quy mô lẫn chủng loại. Trình độ công nghệ đã có
bước chuyển biến nhưng vẫn còn lạc hậu so với các đối thủ cạnh
tranh. Mức độ hiểu biết về thị trường hạn hẹp dẫn đến cách thức
hoạt động chưa mang lại hiệu quả cao.
II Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng may mặc
sang thị trường Mỹ
1.Những nhân tố tác động thuận lợi
Đường lối đúng đắn của Đảng và Chính phủ tạo mọi
cơ hội thuận lợi cho mọi doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế
phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường
thế giới. Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn
2001-2005: mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động
xuất nhập khẩu, tiến tới xoá bỏ những rào cản pháp lý, thủ tục gây
trở ngại cho hoạt động xuất nhập khẩu. Cơ chế này cũng sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường quốc tế trong đó có
thị trường Mỹ.
Sắp tới, Hiệp định thương mại Việt-Mỹ sẽ có hiệu
lực, hàng hoá của Việt Nam sẽ được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc
khi đưa vào thị trường Mỹ, tính cạnh tranh về giá của sản phẩm
Việt Nam sẽ được gia tăng đáng kể vì thuế nhập khẩu sẽ giảm bình
quân từ 40-70% xuống còn 3-7%. Bên cạnh đó, Hiệp định sẽ tạo
điều kiện cho việc cải thiện môi trường đầu tư, thu hút vốn đầu tư
của các doanh nghiệp Mỹ và các doanh nghiệp ở nước khác, các
rào cản thương mại quốc tế sẽ được giảm bớt.
Nguồn lao động dồi dào, khéo léo và rẻ là lợi thế khá
lớn cho nghành may mặc Việt Nam
Máy móc trang thiết bị của nghành dệt may đã được
nâng lên đáng kể (trong giai đoạn 1996-2000), đặc biệt là ở các
doanh nghiệp Nhà nước, nhiều sản phẩm xuất khẩu có chất lượng
cao đáp ứng được yêu cầu của các thị trường cao cấp: EU, Nhật
Bản.
Các bên có thẩm quyền của Việt Nam và Mỹ rất quan
tâm chuẩn bị đàm phán Hiệp định về may mặc khi có điều kiện.
Sau gần10 năm thực hiện gia các hợp đồng gia công
xuất khấu sang các thị trường cao mang tính cạnh tranh lớn như:
EU, Nhật bản, Ca-na-da…các doanh nghiệp dệt may đã tích luỹ
được những kinh nghiệm tổ chức sản xuất, tổ chức xuất hàng may,
tiếp thị, giành khách hàng…
Hiện nay, ở Mỹ có khoảng 1,5 triệu Việt kiều sinh
sống. Phần lớn họ là những người có kiến thức, am hiểu thị trường
Mỹ. Nếu có các giải pháp hợp lý, họ sẽ là cầu nối cho các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ.
Gần 200 dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dệt
may cũng là tiềm lực mạnh để có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang thị
trường Mỹ.
2.Những nhân tố tác động xấu
a) Những nhân tố khách quan
Nước Mỹ, rộng lớn, hệ thống luật pháp rất phức tạp.
Trong khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
lại mới tiếp cận với thị trường này, kinh nghiệm và sự hiểu biết
chưa nhiều.
Việt Nam chưa gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
WTO nên không được hưởng các lợi ích từ Hiệp định ATC
(Agreement on Textile and Clothing) nằm trong Hiệp định đa sợi
MFA (Multifibre Agreement), mà Hiệp định này dự kiến bỏ hạn
nghạch nghành hàng dệt may vào năm 2005 cho nên, xuất khẩu
hàng dệt may sang Mỹ trong tương lai sẽ gặp nhiều khó khăn khi
mà các nước thành viên của MFA thực hiện tự do hoá mậu dịch
lĩnh vực này.
Thị trường Mỹ xa xôi , chi phí vận tải và bảo hiểm
chuyên chở hàng hoá xuất khẩu lớn, điều này làm cho chi phí kinh
doanh hàng hoá từ Việt Nam sang Mỹ tăng lên.
Tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất cao. Trước hết,
chúng ta phải cạnh tranh với các doanh nghiệp may mặc của nước
chủ nhà. Bên cạnh đó, rất nhiều nước coi Mỹ là thị trường chiến
lược trong hoạt động xuất khẩu, trong đó có cả các nước có cơ cấu
xuất khẩu và lợi thế tương tự Việt Nam, cho nên Chính phủ và các
doanh nghiệp của các nước này đều quan tâm và hỗ trợ thâm nhập
giành thị phần trên thị trường Mỹ, trong đó đối thủ lớn nhất là các
doanh nghiệp của Trung Quốc với ưu thế phong phú về chủng loại
hàng hoá, giá rẻ. Ngoài ra, một số nước ASEAN như Phi-líp-pin,
Thái lan, In-đô-nê-xi-a… là những nước xuất khẩu lớn, có sẵn thị
trường tiêu thụ. Tuy giá nhân công cao hơn Việt Nam nhưng họ tự
túc được nguyên liệu vải và các phụ kiện may chất lượng cao nên
đã góp phần hạ giá thành sản phẩm. Họ có nhiều nhãn hiệu nổi
tiếng như: áo thun “cá sấu” của Thái lan, quần lót “Soel” của Phi-
líp-pin…Chưa hết, Mê-hi-cô, Ca-na-da và các nước vùng Ca-ri-bê
là những đối thủ có nhiều lợi thế trong cung cấp mặt hàng này cho
thị trường Mỹ.
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
bước vào thị trường Mỹ chậm hơn so với các tác, khi mà thị trường
đã ổn định về: người mua, mối bán, thói quen sở thích sản phẩm thì
đây cũng được coi là thách đố không nhỏ.
Giá điện, nước, dịch vụ điện thoại, Fax, telex, Internet
của Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, điều này đã
làm cho chí phí sản xuất tăng.
Sau sự kiện ngày 11/9, tình hình nước Mỹ có nhiều biến
động lớn, sức mua của dân Mỹ sút giảm đáng kể cũng sẽ là nhân tố
ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam.
b) Những nhân tố chủ quan
Giá thành sản phẩm may mặc cao do(chủ quan): năng
suất lao động thấp hơn một số nước trong khu vực, nguyên liệu
nghành may chủ yếu còn phụ thuộc vào nhập khẩu làm giá thành
nguyên vật liệu cao, xuất khẩu phải qua trung gian...
70% trị giá xuất khẩu hàng may mặc thực hiện qua
phương thức gia công, trong khi đó thị trường Mỹ chủ yếu thực
hiện nhập khẩu trực tiếp (mua đứt bán đoạn sản phẩm).
Công nghệ thiết bị máy móc vẫn còn lạc hậu so với các
đối thủ cạnh tranh.
Sản phẩm may của Việt Nam chưa có thương hiệu nổi
tiếng thế giới.
Tiêu chuẩn hoá chất lượng chưa được các doanh nghiệp
coi trọng.
Tay nghề công nhân chưa cao, vì đây được coi là
nghành có sự dịch chuyển lao động lớn (hậu quả của chế độ tiền
lương thấp)
Các doanh nghiệp đã quen xuất khẩu gia công nên công
tác thiết kế mẩu mã chưa được chú ý. Phần lớn trong số họ là
những doanh nghiệp vừa và nhỏ, thời gian cung cấp thường dài.
Am hiểu về thị trường Mỹ còn quá ít.
Tóm lại, tiềm năng xuất khẩu hàng dệt may của của Việt
Nam là rất lớn nhưng nguy cơ và thách thức lại nhiều hơn. Vì vậy,
các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ
phải có các giải pháp Marketing phù hợp với tình hình khó khăn
này.
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP MARKETING
NHẰM THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU SANG
THỊ TRƯỜNG MỸ
I Mục tiêu của các giải pháp
Việc thâm nhập thị trường Mỹ của Việt Nam, theo các nhà
nghiên cứu, có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn 1 (2001-2005)
và Giai đoạn 2 (2006-2010) vì những lý do sau:
- 2005 là năm cuối cùng để Việt Nam thực hiện xong giảm
việc thuế nhập khẩu hàng loạt theo chương trình CEPT của AFTA
- Năm 2005, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn
2001-2005 của Nhà nước đã thực hiện xong
- Dự kiến đầu giai đoạn 2001-2005, Hiệp định thương mại
Việt-Mỹ sẽ có hiệu lực và đầu giai đoạn 2005-2010 Việt Nam sẽ là
thành viên chính thức của WTO.
- Năm 2005, WTO xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch nhập khẩu
hàng dệt may giữa các thành viên của tổ chức này.
Căn cứ vào tình hình thị trường Mỹ, sự ảnh hưởng của
Hiệp địnhh thương mại Việt Mỹ và thực trạng xuất của nghành
may mặc Việt Nam, chúng ta có căn cứ để đặt ra mục tiêu của hai
giai đoạn như sau:
- Giai đoạn1: Doanh số xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt
500-600 triệu USD. Sau khi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có
hiệu lực tốc độ tăng phải đạt trên 100%.
- Giai đoạn 2: Doanh số xuất khẩu đạt 1,2 tỷ USD, tốc độ
tăng bình quân mỗi năm 15%.
II Các giải pháp
1. Giải pháp tăng khả năng hiểu biết thị trường Mỹ
Muốn đề xuất giải pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu sang
thị trường Mỹ, trước hết các doanh nghiệp phải nắm vững về thị
trường Mỹ về:
-
Luật pháp của Mỹ có liên quan đến hoạt động nhập
khẩu và kinh doanh trên toàn thị trường Mỹ và các bang dự kiến
thâm nhập (vì ngoài luật liên bang thì hoạt động thương mại trên
thị trường Mỹ còn bị chi phối bởi luật của từng bang)
-
Thông tin về thuế nhập khẩu của Mỹ(thuế này thay đổi
từng năm) từ các nguồn: Phòng Bắc Mỹ- Vụ Âu Mỹ, Bộ Thương
mại Việt Nam hoặc trên mạng.
-
Thông tin về đối thủ cạnh tranh từ các nguồn: Ngân
hàng dữ liệu thương mại Liên bang, Bộ Thương mại Mỹ hoặc trên
mạng.
-
Nắm bắt thông tin cụ thể về từng nghành hàng xuất
khẩu qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hội thảo,
hội chợ, trên các trang Web của Mỹ
2.Phương thức thâm nhập
Trong Luật Thương mại Mỹ có điểm quy định: Khi Mỹ ký
Hiệp định Thương mại song phương về hàng dệt với xuất khẩu thì
mức hạn nghạch nhập khẩu hàng dệt vào thị trường Mỹ sẽ được
xác định trên cơ sở trị giá hoặc số lượng hàng dệt đã đưa vào thị
trường Mỹ ở thời điểm đàm phán.
Theo Bộ Thương mại cho biết khi khối lượng hàng dệt đưa
vào thị trường Mỹ đạt 100.000 tá sản phẩm thì Hải quan của Mỹ
bắt đầu theo dõi và khi khối lượng này tăng lên 200.000 tá sản
phẩm Mỹ chính thức để nghị đàm phán để xác định hạn ngạch
nhập khẩu.
Vì vậy, để được nhận hạn nghạch lớn, trong 1-2 năm đầu
kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực các doanh
nghiệp dệt may phải nỗ lực tối đa để đưa khối lượng hàng hoá lớn
sang thị trường này
-Từ nay cho đến khi Hiệp định có hiệu lực, các doanh nghiệp
vẫn nên duy trì gia công và phân phối qua trung gian để đưa
hàng vào Mỹ:
+ Gia công cho các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Xinh-ga-po… để qua họ đưa hàng vào Mỹ.
+ Gia công cho các công ty may của Mỹ có uy tín
+ Xuất khẩu sang các thị trường trung gian để họ bán sang
Mỹ.
-Khi Hiệp định có hiệu lực, tiến hành xuất khẩu trực tiếp sang
thị trường Mỹ:
+ Tìm kiếm khách hàng, đối tác nhập khẩu
+ Đầu tư vào công nghệ thiết kế thời trang, tạo ra những sản
phẩm may có mẫu mã phù hợp với nhu cầu thị hiếu của thị trường
Mỹ
+ Đăng ký nhãn hiệu bản quyền từng bước tạo lập thương
hiệu có uy tín.
- Xem thêm -