CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP
KHẨU
I . KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ XNK.
1. Khái niệm:
Theo qui định về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh
XNK thì hoạt độnh kinh doanh XNK phải nhằm phục vụ nền kinh tế
trong nước phát triển trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các
tiềm năng và thế mạnh sẵn có về lao động, đất đai và các tài nguyên
khác của nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao
động, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và qui trình công nghệ sản xuất,
thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá đất nước, đáp ứng các yêu
cầu cơ bản và cấp bách về sản xuất và đời sống, đồng thời góp phần
hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng và điều hoà cung cầu để ổn định thị
truờng trong nước.
XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó
không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các
quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm
mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân.
XNK là hoạt động dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt
hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài
mà các chủ thể trong nước tham gia XNK không dễ dàng khống chế
được.
XNK là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển
sản xuất kinh doanh đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng
phức tạp hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác
nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian
chiếm tỷ trọng lớn,đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá
vận chuyển qua biên giới cửa khẩu, cửa khẩu các quốc gia khác nhau
phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương.
Hoạt động XNK được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ,
nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá XNK,
thương nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết
hợp đồng tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển
đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các
thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy
đủ,kỹ lưỡng đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau,tranh thủ nắm bắt
những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp
thời cho sản xuất, tiêu dùng trong nước.
Đối với người tham gia hoạt động XNK trước khi bước vào
nghiên cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông
tin về nhu cầu hàng hoá thị hiếu, tập quán tiêu dùng khả năng mở rộng
sản xuất, tiêu dùng trong nước, xu hướng biến động của nó. Những
điều đó trở thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh
XNK để nắm bắt được .
Mặc dù XNK đem lại nhiều thuận lợi song vẫn còn tồn tại nhiều hạn
chế:
+ Cạnh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng XNK.
Nếu không có sự kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ kịp thời
sẽ gây các thiệt hại khi buôn bán với nước ngoài. Các hoạt động xấu
về kinh tế xã hội như buôn lậu, trốn thuế, ép cấp, ép giá dễ phát triển.
+ Cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh
tế bằng các biện pháp không lành mạnh như phá haoaị cản trở công
việc của nhau…việc quản lý không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu
quả kinh tế mà còn phải chú trọng tới văn hoá và đoạ đức xã hội.
2. Vai trò của XNK.
2.1 Đối với nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của TMQT, nhập khẩu tác
động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập
khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện
đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà sản xuất trong nước
không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập
khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong
nước sẽ không có lợi bằng xuất khẩu,làm được như vậy sẽ tác động
tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng,thế mạnh của
nền kinh tế quốc dân về sức lao động , vốn , cơ sở vật chất, tài nguyên
và khoa học kĩ thuật.
Chính vì vậy mà nhập khẩu có vai trò như sau:
- Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình sử dụng cơ sở vật chất kỹ
thuật chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá ,
hiện đại hoá đất nước
- Bổ xung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế , đảm
bảo một sự phát triển cân đối ổn định.khai thác đến mức tối đa tiềm
năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
- Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất tạo việc làm ổn định
cho người lao động góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân
dân.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng
cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu ,tạo môi trường thuận lợi cho
xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế đặc biệt là nước nhập khẩu.
Có thể thấy rằng vai trò của nhập khẩu là hết sức quan trọng đặc
biệt là đối với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) trong
việc cải thiện đời sống kinh tế,thay đổi một số lĩnh vực ,nhờ có nhập
khẩu mà tiếp thu được những kinh nghiệm quản lí ,công nghệ hiện đại
…thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Tuy nhiên, nhập khẩu phải vừa đảm bảo phù hợp với lợi ích của
xã hội vừa tạo ra lợi nhuận các doanh nghiệp ,chung và riêng phải hoà
với nhau. Để đạt được điều đó thì nhập khẩu phải đạt được yêu cầu
sau:
* Tiết kiệm và hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn nhập khẩu
:trong đIều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường việc kinh doanh
mua bán giữa các nước đều tính theo thời giá quốc tế và thanh toán với
nhau bằng ngoại tệ tự do . Do vậy,tấtcả các hợp đồng nhập khẩu phải
dựa trên vấn đề lợi ích và hiệu quả là vấn đề rất cơ bản của quốc gia ,
cũng như mỗi doanh nghiệp đòi hỏi các cơ quan quản lí cũng như mỗi
doanh nghiệp phải :
+ Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội ,khoa học kĩ thuật của đất nước và nhu cầu tiêu dùng của
nhân dân .
+ Giành ngoại tệ cho nhập khẩu vật tư để phụ sản xuất trong nước
xét thấy có lợi hơn nhập khẩu .
+ Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp
,với giá cả có lợi phục vụ cho sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
* Nhập khẩu thiết bị kĩ thuật tiên tiến hiện đại :
Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công
nghệ ,kể cả thiết bị theo con đường đầu tư hay viện trợ đều phải nắm
vững phương trâm đón đầu đi thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại
.Nhập phải chọn lọc ,tránh nhập những công nghệ lạc hậu các nước
đang tìm cách thải ra .Nhất thiết không vì mục tiêu “ tiết kiệm” mà
nhập các thiết bị cũ ,chưa dùng được bao lâu ,chưa đủ để sinh lợi đã
phải thay thế .Kinh nghiệm của hầu hết các nước đang phát triển là
đừng biến nước mình thành “bãi rác”của các nước tiên tiến.
* Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước ,tăng nhanh xuất khẩu
Nền sản xuất hiện đại của nhiều nước trên thế giới đầy ắp những
kho tồn trữ hàng hoá dư thừavà những nguyên nhiên vật liệu .Trong
hoàn cảnh đó,việc nhập khẩu dễ hơn là tự sản xuất trong nước.Trong
điều kiện ngành công nghiệp còn non kém của Việt Nam, giá hàng
nhập khẩu thường rẻ hơn, phẩm chất tốt hơn .Nhưng nếu chỉ nhập
khẩu không chú ý tới sản xuất sẽ “bóp chết”sản xuất trong nước .Vì
vậy ,cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước ta trong từng thời
kì để bảo hộ và mở mang sản xuất trong nước vừa đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng nội địa vừa tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị
trường ngoài nước.
2.2 Đối với xuất khẩu.
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh
để đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy kinh tế. Mở rộng
xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo đIều kiện cho nhập khẩu và phát
triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành
kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở
rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ.
Như vậy xuất khẩu có vai trò hết sức to lớn thể hiện qua việc:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập
khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn
như:
. Liên doanh đầu tư với nước ngoài
. Vay nợ, viện trợ, tài trợ.
. Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ
. Xuất khẩu sức lao động
Trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện
trợ…cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn
vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và
tốc độ tăng của nhập khẩu.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế
hướng ngoại.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát
triển thuận lợi
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp
đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới
thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu
là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến thế giới từ bên
ngoài
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh
trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi
hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
+ Xuất khẩu cồn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và
hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng
sản phẩm, hạ giá thành.
- Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân.
Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động,
tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ
đời sống của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đối ngoại của đất nước.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế
gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động
xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó
thúc đẩy các quan hệ này phát triển.
Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan
hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế…
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước.
3. Tình hình XNK của Việt Nam thời gian qua.
3.1 Những thành tựu đạt được:
Từ khi đổi mới cơ chế thị trường, nền kinh tế của nước ta đã có sự
chuyển đổi sâu sắc và toàn diện đặc biệt là trong lĩnh vực XNK. Trước
đây ngoại thương Việt Nam do Nhà nước độc quyền quản lý và điều
hành và chủ yếu được thực hiện việc trao đổi hàng hoá theo nghị định
thư giữa các Chính phủ do đó mà hoạt động thương mại trở nên kém
phát triển.
3.1.1 Về hoạt động XNK.
Bảng 1: KIM NGẠCH XNK CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ
1993– 2003.
Đơn vị : Triệu USD
Tổng
Năm
1993
1994
1995
1996
KNXNK
6.876,0
9.880,1
13.604,3
18.399,5
KNXK
2.952,0
4.054,0
5.448,9
7.255,9
KNNK
3.924,0
5.825,8
8.155,4
11.143,
6
1997
20.777,3
11.592.
1998
1999
2000
2001
2002
2003(DK)
9.185,0
20.859,9
3
9.360,3
11.499,
23.283,5
11.541,
6
11.742,
30.119,2
4
14.482,
1
15.636,
31.189,0
7
15.027,
5
16.162,
34.300,0
0
16.100,
0
18.200,
36.600,0
0
17.300,
0
19.300,
0
0
Nguồn: Niên giám thống kê
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy rằng, kinh ngạch XNK của ta
tăng liên tục. Từ 6876 triệu USD năm 19993 lên 30.119,2 triệu USD
năm 2000, tức là sau 7 năm kim nghạch XNK của ta đã tăng lên
2.243,2 triệu USD và 2 năm sau đó vẫn liên tục tăng. Sự chuyển đổi
nền kinh tế đã thúc đẩy ngoại thương Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả
về nhập khẩu và xuất khẩu đồng thời tốc độ tăng trưởng về ngoại
thương nhanh qua các năm và tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng của sản
xuất. Tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm 1993 – 1996 là
38,64%, giai đoạn 1996 – 1999 là 8,3% và năm 2000 là 29%. Có thể
thấy rằng, trong các năm 1996 – 1999 tốc độ tăng trưởng giảm sút là do
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhưng bước sang năm 2000
tốc độ tăng trưởng trở lại bình thường đạt mức
29% nhưng vẫn ở mức thấp. Mặc dù kim nghạch XNK của ta tăng
không đều qua các năm song cũng thể hiện phần nào sự phát triển nền
kinh tế của nước ta. Nếu xét riêng về xuất khẩu và nhập khẩu thì tốc độ
tăng của nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng của xuất khẩu.
Về cơ cấu XNK của ta cũng có nhiều thay đổi, điều này được thể
hiện qua bảng sau:
Bảng 2: CƠ CẤU HÀNG HOÁ XNK CỦA NƯỚC TA GIAI
ĐOẠN 1999 – 2003.
1999
KN
Chỉ tiêu
2000
T
KN
2001
TT
KN
2002
TT
KN
2003
(DK)
TT KN TT
(triệu T (triệu (% (triệu (% (triệu (% (triệ (%
$)
(
$)
)
$)
)
$)
)
u $)
)
%
Về
)
xuất 11.54 10 14.48 100 15.02 100 16.10 100 17.3 100
khẩu
1.HàngC
1,4
0
2,7
7,0
0
00
NN và KS 3.609 31 5.382 37, 4.600 30, 4.750 29, 4.80
.
2.Hàng
CN
nhẹ.
,5
0
7
4.243 36 4.903 33, 5.400 35, 6.350 39, 7.20
42,
,2
,3
,8
,1
,1
2
8
6
9
5
27,
4
0
3
3.
Nông,
lâm , thủy 3.688 31 4.197 29, 5.027 33, 5.000 31, 5.30
sản.
Về
,7
,9
,5
0
5
1
1
30,
0
6
nhập 11.74 10 15.63 100 16.16 100 18.20 100 19.3 100
khẩu
1.
Máy
2,1
0
6,5
2
0
00
móc thiết 3.503 29 4.781 30, 4.700 29, 5.400 29, 5.80
bị
2.Nguyên
,6
0
1
nhiên vật 7.246 61 9.886 63, 10.61 65, 11.95 65, 12.6
65,
liệu.
3. Hàng
,8
tiêu dùng.
991,7
,8
,7
,5
,7
6
2
8, 986,3 6,2
0
2
7
6
850 6.3
7
30,
0
7
00
3
850 4,6
900
4,6
5
Nguồn: Niên gián thống kê
Về xuất khẩu: Hàng nông – lâm – thuỷ sản năm 1999 chiếm
31,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, bước sang năm 2000 thì giảm
xuống chỉ đạt ở mức 29% nhưng 2 năm tiếp theo lại có chiều hướng
gia tăng. Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có chiều hướng giả
dần qua các năm, năm 2000 đạt 37,2% tong tổng kim ngạch xuất khẩu
nhưng đến năm 2001, 2002 đã giảm xuống còn 30,6%, 29,5%. Cũng
theo xu hướng này dự đoán đến năm 2003 giảm xuống chỉ còn 27,7%.
Điều này có thể do lượng khoáng sản ngày càng ít đi và ngành công
nghiệp nặng phục vụ trong nước là chính. Chỉ có ngành công nghiệp
nhẹ là tăng đều qua 4 năm qua và dự báo năm 2003 đạt 42,3%, tức là
tăng 13,3% so với năm 2000 và 11,2% so với năm 2002.. Nhìn chung,
tình hình xuất khẩu của Việt Nam là tương đối ổn định, hàng nông,
lâm, thuỷ sản vẫn chiếm tỷ trọng cao, duy chỉ có hàng công nghiệp
nặng và khoáng sản là có xu hướng giảm đi.
Về nhập khẩu: Việt Nam vẫn là nước có tỷ trọng nhập khẩu cao
so với tổng kim ngạch XNK. Hàng nguyên, nhiên, vật liệu luôn chiếm
tỷ trọng cao nhất đồng thời tăng liên tục qua các năm: năm 1999 đạt
61,7%, năm 2000, năm 2000 đạt 63,2%, và năm 2001, năm 2002 đạt
65,7% chứng tỏ nước ta vẫn là nước nhập nguyên vật liệu nhiều nhất
để phục vụ cho ngành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước. Hàng
tiêu dùng chiếm tỷ trọng thấp nhất và giảm dần. Năm 1999 đạt 85%
đến năm 2002 còn 4,6% tức là giảm gần gấp đôi. Điều này do nước ta
ngày càng sản xuất được các hàng tiêu dùng trong nước thay thế cho
nhập khẩu. Hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng thì khá ổn định chỉ giao
động ở mức 29 – 30% . Sự thay đổi về cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam
cho thấy nước ta đã đi đúng hướng trong việc đẩy mạnh nhập khẩu
công nghệ và kỹ thuật và khả năng đáp ứng hàng tiêu dùng đã tăng lên
do tự sản xuất được
3.1.2 Về thị trường XNK.
Phát triển thị trường XNK theo quan điểm Marketing hiện đại có
nghĩa là không những mở rộng thêm những thị phần mới mà còn phải
tăng thị phần của sản phẩm đó trong các thị phần đã có sẵn. Gần một
thập kỷ qua thị trường XNK của Việt Nam đã có sự thay đổi sâu sắc.
Nừu như trước đây chủ yếu buon bán với Liên Xô và Đông Âu, chiếm
khoảng 80% kinh ngạch XNK thì hiện nay hàng hoávà dịch vụ của
Việt Nam đã có mặt trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Việc chuyển hướng kịp thời đã tạo điều kiện để mở rộng qui mô XNK
lựa chọn bạn hàng phù hợp và gíup cho nền kinh tế tăng trưởng một
cách liên tục mặc dù có những biến động lớn ở Liên Xô và Đông Âu.
+ Cá nước Châu Á: Là thị trường buôn bán chủ yếu của Việt
Nam, chiếm 63,65% tổng kim ngạch xuất khâu và 74- 75% tổng kim
ngạch nhập khẩu của cả nước thập kỷ qua, trong đó các nước lân cận
chiếm 45%, đặc biệt là Nhật Bản, ASEAN, và Trung Quốc là những
bạn hàng lớn của Việt Nam. Thei Bộ ngoại giao thì các nước APEC
tiêu thụ từ Việt Nam toàn bộdầu thô xuất khẩu, gần 70% gạo, 90% hạt
điều, 90- 94% cao su, 80% hạt tiêu, 85% lạc nhân, 65% thuỷ sản, 6070% cà phê, 60% dệt may, 55- 60% dầy dép, 95- 96% thiếc thỏi, gần
70% than đá. Về nhập khẩu, đại bộ phận hàng hoá nhập khẩu của Việt
Nam từ thị trường này với kim ngạch từ 75- 77%. Nhìn chung, thị
trường Châu á tương đối ổn định và đầy triển vọng cho hàng hoá của
ta vào thị trường này.
+ Thị trường Nhật Bản: Là thị trường chiếm 16% tổng kim ngạch
xuất khẩu, dự kiến kim ngạch xuất khẩu của ta vào Nhật Bản từ 2125% mỗi năm trong thời gian tới. Các mặt hàng Việt Nam xuất sang
Nhật Bản bao gồm nông sản, thuỷ hải sản, may mặc… Bên cạnh đó còn
có một số hàng công nghiệp như máy móc thiết bị. Tuy nhiên, thị
trường Nhật Bản có những nét đặc thù, hệ thống quản lý chất lượng
hàng nhập khẩu rất chặt chẽ, cách thức phân phối hàng theo kênh
riêng…vì thế khi xuất khẩu sang thị trường này cần tìm hiểu rõ để tránh
rủi ro.
+ Thị trường EU: Phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu, được xây
dựng trên cơ sở những mối quan hệ truyền thống và những thiết chế
luật pháp được hai bên cam kết và tuân thủ. EU là thị trường tiêu thụ
hàng hoá công nghiệp nặng và hàng tiêu dùng lớn nhất của Việt Nam
khoảng 8% tổng hàng xuất khẩu sang EU
+ Liên Bang Nga : là thị trường truyền thống và nhiều tiềm năng.
Những năm gần đây, tuy kim ngạch XNK còn rất nhỏ bé so với tiềm
năng, năm 1996 kim ngạch xuất khảu sang Nga đạt 85 triệu USD, năm
1997 đạt 120 triệu USD năm 1998 là 132,6 triệu USD song là thị truờng
hấp dẫn đối với các doanh nghiệp của Việt Nam
Ngoài ra, nước ta còn quan hệ với nhiều nước khác như thị trường
Châu Mỹ…cũng có nhiều triển vọng.
3.2 Một số mặt còn tồn tại.
Mặc dù đạ được những thành tựu đáng kể song ngoại thương Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế được thể hiện qua một số mặt sau.
+ Về xuất khẩu: tốc độ tăng trưởng còn thấp và không đều qua
các năm, dễ bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng khu vực và thế
giới.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn lạc hậu, chất lượng thấp, mặt
hàng manh mún, sức cạnh tranh còn yếu.Xuất khẩu chủ yếu là nguyên
liệu thô chưa qua chế biến, sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ,
công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản vẫn là các mặt hàng chủ yếu
+ Về nhập khẩu: Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu liên tục tăng ,
chứng tỏ nước ta vẫn là nước nhập siêu cao. Hơn nữa nhập khẩu lãng
phí, kém hiệu quả,việc buôn lậu trở lên nghiêm trọng gây tổn thất lớn.
+ Về bạn hàng: Thị trường bấp bênh, chủ yếu qua trung gian,vẫn
thu hẹp ở thị trường các nước trong khu vực, chưa phát triển nhiều ra
các nước trên thế giới, thiếu hụt các hợp đồng lớn và dài hạn.Mặc dù
thị trường có được mở rộng nhưng lượng xuất khẩu vẫn còn hạn chế vì
thế rất gây bất lợi cho hàng hoá của nước ta.
+ Cơ chế quản lý XNK chưa chặt chẽ để kiểm soát và ngăn chặn
buôn lậu, chưa khuyến khích xuất khẩu, thủ tục còn nhiều rườm rà, bất
cập, thông tin về thị trường còn thiếu, không kịp thờivà chính xác.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK.
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác
nhau thường là đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội
địa. Chính vì vậy hoạt động kinh doanh XNK cũng phải chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố mà các nhân tố này có thể mang tính vĩ mô
hoặc mang tính vi mô. Cụ thể hoạt động kinh doanh XNK chịu ảnh
hưởng của những nhân tố sau:
4.1 Nhân tố mang tính toàn cầu.
Đó là nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu
hướng chung trên thế giói là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để
giảm bớt hàng rào ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế, các nhà kinh
doanh XNK luôn phải đối diện với các hạn chế thương mại khác nhau.
Phổ biến nhất là thuế quan, một loại thyế do chính phủ nước ngoài
đánh vào những sản phẩm nhập khẩu. Thuế quan có thể được qui định
để làm tăng thu nhập cho quốc gia hay để bảo hộ cho các doanh
nghiệp trong nước. Nhà xuất khẩu cũng có thể đối diện với một hạn
ngạch ( quota ) là việc đề ra những giới hạn về số lượng những hàng
hoá mà nước nhập khẩu phải chấp nhận đối với những loại sản phẩm
nào đó. Mục tiêu của hạn ngạch là để bảo lưu ngoại hối và bảo vệ công
nghệ cũng như công ăn việc làm trong nước . Một sự cấm vận là hình
thức cao nhất của hạn ngạch , trong đó việc nhập khẩu các loại sản
phẩm trong danh sách cấm vận bị cấm hoàn toàn.
Kinh doanh XNK cũng có thể bị hạn chế do việc kiểm soát ngoại
hối là việc điều tiết lượng ngoại tệ hiện có và tỷ giá hối đoái so với
đồng tiền khác. Các nhà kinh doanh XNK cũng có thể phải đối diện
với một loạt các hàng rào phi thuế quan như giấy phép nhập khẩu,
những sự quản lý, điều tiết định hình như phân biệt đối xử với các nhà
đấu thầu nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối
xử với hàng nước ngoài.
4.2 Chế độ chính sách luật pháp của Nhà nuớc và quốc tế.
Đây là yếu tố mà doanh ngiệp kinh doanh XNK cần nắm rõ và tuân
thủ. Bởi vậy nó thể hiện ý chí thống nhất chung của quốc tế. Hoạt động
XNK được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, nên nó
chịu sự tác động của chính sách chế độ, luật pháp của quốc gia đó, đồng
thời tuân theo những qui định , luật pháp của quốc gia đó và nó phải tuân
theo những qui định , luật pháp quốc tế chung.
Nhân tố thuộc môi trường văn hoá.
Mỗi nước đều có những tập tục , qui tắc , kiêng kỵ riêng. Chúng
được hình thành heo truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh
huỏng to lớn đến tập tính tiêu dùng của khách hàng nứơc đó. Tuy sự
giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất hiện khá nhiề tập tính tiêu
dùng chung cho moị dân tộc, song những yếu tố văn hoá truyền thống
vẫn còn rất bền vững có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý
tiêu dùng. Đặc biệt chúng thể hiện rất rõ trong sự khác biệt giữa truyền
thống phương Đông và phương Tây, giữa các tôn giáo và giữa các
chủng tộc.
Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động xuất
khẩu. Nó quyết định sự hấp dẫn của thị trường thông qua việc phản
ánh tiềm lực thị trường và hệ thống cơ sở hạ tầng của một quốc gia.
Trong những năm gần đây, môI trường kinh tế quốc tế có nhiều thay
đổi do xu hướng nhất thể hoá nền kinh tế có nhiều mức độ khác nhau
như khu vực mậu dịch tự do , khu vực thống nhất thuế quan, khu vực
thị trường chung…Những xu hướng này có tác động đến hoạt động
xuất khẩu của các quốc gia theo hai hướng : tạo ra sự ưu tiên cho nhau
và kích thích tăng trưỏng của các thành viên.
4.3 Hệ thống giao thông vận tải , thông tin liên lạc
Việc thực hiện hoạt động XNK không thể tách rời công việc vận
chuyển và thông tin liên lạc. Nhờ có thông tin mà các bên có thể cách
nhau tới nửa vòng tráI đất vẫn thông tin được với nhau để thoả thuận
tiến hành hoạt động kịp thời. Việc
vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác là công việc
nặng nề tốn nhiều chi phí của hoạt động XNK. Do đó, nếu hệ thống
giao thông vận tải và thông tin liên lạc của một nước thuận tiện sẽ giúp
cho việc thực hiện hoạt động XNK được tiến hành dễ dàng, nhanh
chóng và ngược lại.
4.4 Hệ thống tài chính ngân hàng:
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn
mạnh, can thiệp tới tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế dù lớn
hay nhỏ, dù ở bất kỳ thành phần kinh tế nào. Hoạt động xuất nhập
khẩu sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự phát triển của hệ
thống ngân hàng. Dựa trên các quan hệ, uy tín , nghiệp vụ thanh toán
liên ngân hàng rất thuận lợi mà các doanh nghiệp tham gia hoạt đông
XNK sẽ được đảm bảo về mặt lợi ích.
4.5 Khả năng sản xuất, chế biến của nền kinh tế trong nước.
Kinh doanh thương mại nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu
nói riêng là mua bán hàng hoá chứ không phải để tiêu dùng cho chính
mình . Các doanh nghiệp XNK hoạt động trên thị trường đầu vào
nhằm chuẩn bị đầy đủ các yếu tố đầu vào trong đó quan trọng nhất là
hàng hoá. Nguồn hàng của doanh nghiệp XNK là toàn bộ và cơ cấu
hàng hoá thích hợp với nhu cầu của khách hàng đã và đang có khả năng
huy động trong kỳ kế hoạch
4.6 Doanh nghiệp và sức cạnh tranh trên thị trường
Doanh nghiệp không thể XNK được hàng hoá nếu doanh nghiệp
không có khả năng thu mua, chế biến và tiếp cận được với khách hàng
nước . Doanh nghiệp phải biết tận dụng thế mạnh để có một chỗ đứng
vững chắc trên thị trường.
II. CÁC HÌNH THỨC XNK.
Các nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hoá là hoạt động thương mại
liên quan đến
mua và bán hàng hoá với thị trường nước ngoài bao
gồm cả tái xuất khẩu (Reexport) và tái nhập khẩu (Reimport )
1. Tái xuất khẩu :
Là xuất khẩu hàng đã nhập về trong nước, không qua chế biến
thêm, cũng có trường hợp hàng không về trong nước, sau khi nhập
hàng, giao hàng đó ngay cho người thứ ba. Như vậy ở đây có cả hành
động mua và hành động bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có
thể cao.
2. Tái nhập khẩu.
- Xem thêm -