LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, với xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và thế
giới, Việt Nam đang trên đà đẩy mạnh các hoạt động kinh tế - chính
trị nhằm tìm kiếm cho mình một chỗ đứng vững chắc trên trường quốc
tế.
Hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay đang được đặc biệt chú
trọng bởi nó mang lại cho nền kinh tế - xã hội nước ta những bước
chuyển mới với hiệu qủa rõ rệt. Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu
các mặt hàng chủ lực như: gạo, cà phê, giày dép, thuỷ sản, may mặc...
thì hoạt động xuất khẩu lao động lại đặc biệt được quan tâm trong thời
gian gần đây. Đảng và Nhà nước ta đã coi hoạt động xuất khẩu là một
hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải
quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người
lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ
hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xuất khẩu lao
động còn gặp phải những khó khăn, thách thức mới. Nhu cầu về việc
làm của người lao động và lợi ích quốc gia đòi hỏi Nhà nước và chính
bản thân người lao động phải có những cố gắng, giải pháp riêng để
không ngừng nâng cao hiệu qủa và mở rộng chương trình làm việc với
người nước ngoài để ngày càng có thêm nhihều thị trường mới để xuất
khẩu lao động đạt kết qủa cao.
Để đi sâu nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu lao động, em đã
chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động
sang Đài Loan của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại" làm
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Nội dung chuyên đề được
chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu lao động
Chương II: Thực trạng xuất khẩu lao động ở Công ty cổ phần
Đầu tư và Thương mại.
Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
xuất khẩu lao động ở Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại
trong những năm tới.
Đây là một đề tài khá mới mẻ nên trong quá trình tìm hiểu, xây
dựng đề tài em đã gặp không ít khó khăn, nhưng với sự giúp đỡ nhiệt
tình của thầy giáo TS. Thân Danh Phúc, cùng với các anh chị ở
phòng xuất khẩu lao động và chuyên gia của Công ty cổ phần Đầu tư
và Thương mại, cũng như qua quá trình tìm tòi các tài liệu phục vụ
cho chuyên đề, em đã xây dựng nên một chuyên đề hoàn chỉnh. Tuy
nhiên, với thời gian, trình độ còn hạn chế và kinh nghiệm thực tế chưa
nhiều, em mong có sự góp ý của các thầy cô giáo về những thiếu sót
em mắc phải.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 05 tháng 5 năm
2005
Sinh viên thực hiện
Phạm Diễm Ngọc
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
I. NỘI DUNG CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG:
1. Một số khái niệm cơ bản:
Trong khoảng 20 năm trở lại đây việc đưa lao động của một
quốc gia ra khỏi phạm vi của nước đó để làm việc đã trở nên quen
thuộc với số lượng ngày càng tăng.Đó là do sự phát triển kinh tế trên
phạm vi toàn cầu đang có những chuyển biến về chất và không đoòng
đều giữa các nước dựa trên cơ sở phát triển mạnh của khoa học kỹ
thuật.Thực tế cho thấy, sức lao động của các quốc gia có dư thừa lao
động đến giai đoạn hiện nay đã được xem như là một loại hàng hoá có
thể mang lại nguồn thu ngoại tệ rất lớn cho ngân sách quốc gia.
Do vậy để nghiên cứu về xuất khẩu lao động trước hết cần phải tìm
hiểu và làm rõ các khái niệm có liên quan:
- Nguồn lao động: Là bộ phận dân cư gồm những người trong
độ tuổi lao động (không kể những nguời mất khả năng lao động) và
những ngưòi ngoài tuổi lao động nhưng thực tế có tham gia lao động.
Nguồn lao động bao gồm những người từ độ tuổi lao động trở lên (ở
nước ta là tròn 15 tuổi).
- Lao động: là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người
nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con
người. Thực chất là sự vận động của sức lao động trong qua trình tạo
ra của cải vật chất cho xã hội, lao động cũng chính là quá trình kết hợp
của sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ
nhu cầu con người.Có thể nói lao động là yếu tố quyết định cho mọi
hoạt động kinh tế.
- Sức lao động: Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của
con người trong quá trình tạo ra của cải xã hội, nó phản ánh khả năng
lao động của con người, là điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình
lao động xã hội. Trong nền kinh tế hàng hoá sức lao động là một hàng
hóa đặc biệt vì nó có giá trị và giá trị sử dụng các hàng hoá khác,
ngoài ra hàng hoá sức lao động còn là một sản phẩm có tư duy, có đời
sống tinh thần. Thông qua thị trường lao động, sức lao động được xác
định giá cả. Hàng hoá sức lao động cũng tuân theo quy luật cung – cầu
của thị trường. Mức cung cao sẽ dẫn tới dư thừa lao động, giá cả sức
lao động (tiền công) thấp, ngược lại khi mức cung thấp sẽ dẫn tới tình
trạng thiếu lao động, giá cả sức lao động sữ trở nên cao hơn.
- Thị trường lao động: Trong mỗi xã hội, nơi nào xuất hiện nhu
cầu sử dụng lao động và có nguồn lao động cung cấp, ở đó sẽ hình
thành nên thị trường lao đông. Trong nền kinh tế thị trường, người lao
đông muốn tìm việc phải thông qua thị trường lao động. Về mặt thuật
ngữ, "Thị trưòng lao đông" thực chất phải được hiểu là "Thị trường
sức lao động" để phù hợp với khái niệm của tổ chức lao động quốc tế:
Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế, nó bao gồm toàn
bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực mua bán, trao đổi
và thuê mướn sức lao động. Trên thị trường lao động, mối quan hệ
được thiết lập giữa một bên là người lao động và một bên là người sử
dụng lao động. Qua đó, cung-cầu về lao đọng ảnh hưởng tới tiền công
lao động và mức tiền công lao động cũng ảnh hưởng tới cung- cầu lao
động.
+ Cầu lao động: là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở
mỗi mức giá có thể chấp nhận được. Nó mô tả toàn bộ hành vi người
mua có thể mua được hàng hoá sức lao động ở mỗi mức giá hoặc ở tất
cả các mức giá có thể đặt ra.
Cầu về sức lao động có liên quan chặt chẽ tới giá cả sức lao
động, khi giá cả tăng hoặc giảm sẽ làm cho cầu về lao động giảm hoặc
tăng.
+ Cung lao động: là lượng lao động mà người làm thuê có thể
chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định. Giống như cầu và lượng
cầu, đường cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê
khi thoả thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động có quan hệ tỷ lệ
thuận với giá cả. Khi giá cả tăng thì lượng cung lao động tăng và
ngược lại.
Xuất khẩu lao động trên thị trường lao động quốc tế được thực
hiện chủ yếu dựa vào quan hệ cung - cầu lao động. Nó chịu sự tác
động, điều tiết của các quy luật kinh tế thị trường. Bên cầu phải tính
toán kỹ hiệu quả của việc nhập khẩu lao động từ đod cần phải xác
định chặt chẽ số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động hợp lý. Mặt khác,
bên cung có mong muốn xuất khẩu càng nhiều lao động càng tốt. Do
vậy, muốn cho loại hàng hoá đặc biệt này chiếm đựơc ưu thế trên thị
trường lao động, bển cung phải có sự chuẩn bị và đầu tư để được thị
trường chấp nhận, phải đáp ứng kịp thời các yêu cầu về số lượng, cơ
cấu và chất lượng lao động cao.
Thị trường lao động nước ta hiện nay tuy đã hình thành song
phạm vi còn nhỏ hẹp. Để phù hợp với sự phát triển quá nhanh của
nguồn lao động trước hết thị trường lao động phải được mở rộng cả
trong và ngoài nước, đồng thời tạo điều kiện cho người lao động có
quyền bình đẳng, tự do tìm việc làm, thuê mướn lao động theo pháp
luật.
- Di dân quốc tế: Di dân quốc tế được hiểu là quá trình di
chuyển lao động từ nước này sang nứoc khác để tìm việc làm. Nếu xét
theo khía cạnh dân số học thì xuất khẩu lao động cũng là một quá
trình di dân quốc tế. Do đó,việc đưa nguời lao động đi làm việc ở
nước ngoài chính là tham gia vào quá trình di dân quốc tế, nó không
nằm ngoài những quy luật chung. Việc đưa người lao động đi làm việc
ở nước ngoài tuân theo những hiệp định giữa hai quốc gia, đa quốc gia
hoặc theo công ước quốc tế, tuỳ từng trường hợp khác nhau mà nó
được xếp nằm trong giới hạn nào.
- Xuất khẩu lao động:
Đến nay, trên thế giới vẫn chưa có một khái niệm chuẩn nào về
xuất khẩu lao động. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu xuất khẩu lao động
thông qua khái niệm của tổ chức lao động quốc tế ( ILO) như sau:
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện
việc cung ứng lao động cho một quốc gia trên cơ sở những hiệp định
hoặc hợp đồng có tính chất hượp pháp quy định được sự thống nhất
giữa các quốc gia đưa và nhận người lao động.
Phân loại xuất khẩu lao động:
Căn cứ vào cơ cấu người lao động đưa đi:
Lao động có nghề: là loại lao động trước khi ra nước ngoài làm
việc đã được đào tạo thành thạo một loại nghề nào đó và khi số lao
động này ra nước ngoài làm việc có thể bắt tay ngay vào công việc mà
không phải bỏ ra thời gian và chi phí để tiến hành đào tạo nữa.
Lao động không có nghề: là loại lao động mà khi ra nước ngoài
làm việc chưa được đào tạo một loại nghề nào cả. Loại lao động này
thích hợp với những công việc đơn giản, không cần trình độ chuyên
môn hoặc phía nước ngoài cần phải tiến hành đào tạo cho mục đích
của mình trước khi đưa vào sử dụng.
Căn cứ vào nước xuất khẩu lao động:
Nhóm các nước phát triển: Có xu hướng gửi lao động kỹ thuật
cao sang các nước đang phát triển để thu ngoại tệ. Trường hợp này
không phải là chảy máu chất xám mà là đầu tư chất xám có mục đích.
Việc đầu tư nhằm một phần thu lại kinh phí đào tạo cho đội ngũ
chuyên gia trong nhiều năm, một phần khác lớn hơn là phát huy năng
lực trình độ đội ngũ chuyên gia, công nhân kỹ thuật bậc cao ở nước
ngoài .v.v... để thu ngoại tệ.
Nhóm các nước đang phát triển: có xu hướng gửi lao động bậc
trung hoặc bậc thấp sang các nước có nhu cầu để lấy tiền công và tích
luỹ ngoại tệ, giảm bớt khó khăn kinh tế và sức ép việc làm trong nước.
2. Các hình thức xuất khẩu lao động:
Xuất khẩu lao động thực tế đem lại lợi ích thiết thực cho cả
người lao động và phía Nhà nước. Nhận thức rõ điều đó Đảng và Nhà
nước ta đã không ngừng đưa ra những chủ trương, chính sách tạo điều
kiện cho người lao động có cơ hội đi làm việc ở nước ngoài. Ngày 17
tháng 7 năm 2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81/2003/NĐCP quy định chi tiết về việc đưa người Việt Nam đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài. Tại điều 3 khoản 2 Nghị định này quy định rõ các
hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm viẹec có thời hạn ở
nước ngoài, trong đó bao gồm các hình thức cơ bản sau:
2.1. Thông qua doanh nghiệp Việt Nam được phép cung ứng lao
động theo hợp đồng ký kết với bên nước ngoài:
Đối tác nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động, đưa ra những
yêu cầu cụ thể về số lượng, tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính...Các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế của Việt Nam sau khi nhận được đơn
đặt hàng của bên nước ngoài sẽ tiến hành sơ tuyển dựa trên những tiêu
chí có sẵn. Để đảm bảo đúng yêu cầu của mình, bên nước ngoài thực
hiện kiểm tra lại một lần nữa trước khi lao động sang làm việc.
2.2. Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, nhận khoán
công trình hoặc đầu tư ở nước ngoài.
Bên nước ngoài đặt hành cho các công trình xây dựng, do vậy
phải đưa đi đồng bộ các đối tượng lao động gồm có kỹ thuật, quản lý,
chỉ đạo thi công và lao động trực tiếp sang nước ngoài làm việc. Sau
khi công trình kết thúc thì cũng chấm dứt hợp đồng đối với người lao
động, vì thế xuất khẩu lao động theo hình thức khoán khối lượng công
việc thường không ổn định, tâm lý của người lao động dễ bị chán nản,
không tận tâm với công việc.
2.3. Theo hợp đồng lao động do cá nhân người lao động trực tiếp
ký kết với người sử dụng lao động ở nước ngoài (sau đây gọi là
hợp đồng cá nhân):
Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay, hình thức này đòi hỏi
đối tượng lao động đa dạng tuỳ theo yêu cầu và mức độ phức tạp của
công việc. Có những yêu cầu của người nước ngoài đòi hỏi người có
trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm tổ chức quản lý,
cũng có những yêu cầu chỉ cần người lao động có trình độ giản đơn.
Ngoài những hình thức đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài, hình thức xuất khẩu lao động tại chỗ cũng đã trở nên phổ
biến hơn ở Việt Nam. Thông qua các tổ chức kinh tế của ta, người lao
động được cung ứng cho các tổ chức kinh tế nước ngoài dưới những
hình thức:
- Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Các khu chế xuất, khu công nghiệp.
- Các tổ chức, cơ quan ngoại giao tại Việt Nam.
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao
động:
Hiệu quả là chỉ tiêu so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ
ra để đạt được hiệu quả đó ( Hiệu quả = kết quả - chi phí ). Có hai
loại hiệu quả là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế
là hiệu quả đạt được về mặt kinh tế, còn hiệu quả xã hội là hiệu quả
đạt được về mặt xã hội. Đây là khái niệm chung để đánh giá hiệu quả,
tuy nhiên khi đi vào từng lĩnh vực cụ thể thì việc đánh giá hiệu quả
không đơn giản chút nào, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu lao động
này. Bởi vì để có thể đánh giá chính xác, đầy đủ và đúng hiệu quả
kinh tế xã hội ở từng thị trường cụ thể thì chúng ta cần phải đánh giá
toàn bộ, toàn diện một cách tổng hợp những kết quả đạt được và chi
phí bỏ ra trong quá trình hoạt động đó, đồng thời, phải xem xét hiệu
quả của nó trên cơ sở lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân
của nước ta. Qua đó một lần nữa thấy rõ hơn việc đưa lao động đi làm
việc ở nước ngoài trong mối liên hệ chung của nền kinh tế đất nước
quan trọng như thế nào bởi lẽ kết quả cuối cùng của lĩnh vực này được
chuyển từ chu trình này sang một chu trình khác, từ ngành này sang
ngành khác, từ nước này sang nước khác...Với quan điểm như vậy,
đánh giá hiệu quả của lĩnh vực này không thể giống như việc đánh giá
hiệu quả của một quá trình kinh doanh cụ thể trong nước mà không có
phần phức tạp hơn nhiều.
Một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của xuất khẩu lao động
3.1 Lợi ích kinh tế đạt được
a. Số lượng lao động được giải quyết việc làm trong năm:
Công thức tính:
L = Lc + Lx Ln
Trong đó:
L
: Số lao động được giải quyết việc làm trong năm
Lc
: Số lao động từ năm trước vẫn còn đang tiếp tục
Lx
: Số lao động được đưa sang hoạt động trong năm
Ln
: Số lao động kết thúc hợp đồng trở về nước trong năm
Ý nghĩa của chỉ tiêu:
Chỉ tiêu này nêu ra được chi tiết kết quả đạt được trong một năm
qua của công tác xuất khẩu lao động. Nó chỉ ra được những đóng góp
của lĩnh vực này đối với việc tạo công ăn việc làm cho xã hội mà nhà
nước ta đã không phải bỏ vốn đầu tư để tạo việc làm mới, giải quyết
một phần tình trạng ứ đọng lao động của đất nước ( mặc dù trước khi
đi xuất khẩu lao động những người lao động này không phải tất cả đều
thuộc diện thất nghiệp).
b. Thu nhập quốc dân về ngoại tệ thông qua hoạt động xuất khẩu lao
động:
Công thức tính:
P = ∑ Yj ( j = 1 đến
n)
Yj = Xij . Kj
Trong đó:
P : Mức thu của nhà nước
Y: Mức thu của nhà nước ở mỗi thị trường
n : Số thị trường đưa lao động sang
j : Nước đưa lao động sang
K : Tỷ số hối đoái quy đổi ra ngoại tệ quy ước
X : Thuế thu nhập mỗi người phải đóng
Ý nghĩa chỉ tiêu:
Chỉ tiêu này cho biết số tiền nhà nước thu được thông qua xuất
khẩu lao động. Vấn đề ngoại tệ (nhất là ngoại tệ mạnh) đối với Việt
Nam có ý nghĩa to lớn. Tất cả các hoạt động có thể đem về ngoại tệ
cho đất nước cần được khuyến khích. “ Cùng với việc xuất khẩu hàng
hoá cần hết sức coi trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
thu ngoại tệ như phát triển du lịch, cung ứng tàu biển, dịch vụ hàng
không, tổ chức gia công hàng xuất khẩu và đưa lao động đi làm việc ở
nước ngoài là những hình thức thích hợp với hàng triệu người lao
động dư thừa hiện nay. Khả năng hợp tác lao động với nước ngoài của
nước ta là rất lớn, nếu chúng ta biết tổ chức và khai thác hết những
tiềm năng đó trong quan hệ kinh tế đối ngoại thì sẽ thu đựơc nguồn
ngoại tệ đáng kể thúc đẩy sản xuất phát triển.”
c. Mức tiết kiệm đầu tư vào việc làm của chính phủ:
Công thức tính:
Mtk = mdt .
L
Trong đó:
Mtk : Mức tiết kiệm vốn đầu tư tạo ra việc làm
mdt : Mức đầu tư trung bình tạo ra một chỗ làm việc mới
L
: Số người có việc làm thường xuyên ở nước ngoài
Ý nghĩa chỉ tiêu:
Cho biết mức độ tiết kiệm không phải bỏ vốn đầu tư tạo ra chỗ
làm việc mới ở trong nước và đồng nghĩa với việc tăng thêm nguồn
vốn đầu tư cho giải quyết việc làm.
d. Giá trị hàng hoá do người lao động đưa về:
Công thức tính:
G = ∑ Hj ( j = 1 đến
n)
Hj = ∑ hij . Nj
Trong đó:
G : Giá trị hàng hoá do người lao động đem về
H : Giá trị hàng hoá do người lao động ở mỗi thị trường đem về
h : Giá trị hàng hoá trung bình của một người lao động đem về
N : Số người gửi hàng hoá về trong năm
i : Biến số người
j : Biến số thị trường
Ý nghĩa chỉ tiêu:
Cho biết lượng hàng hoá do người lao động đem về góp phần
vào việc cân đối quỹ hàng hoá trong nước và cải thiện đời sống gia
đình, tăng thêm máy móc thiết bị làm tư liệu sản xuất.
g: Thu nhập do lao động đi làm việc ở nước ngoài bổ sung vào thu
nhập quốc dân:
Công thức tính:
Q = ∑ (Pj + Vij) . kj ( j = 1
đến n)
Trong đó:
Q : Thu nhập của người lao động làm việc ở nước ngoài tính vào
thu nhập quốc dân
P : Các khoản phải nộp của mỗi người lao động
V : Thu nhập của người lao động sau khi đã khấu trừ phần phải
nộp
k : Tỷ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ
i : Biến số người
j : Biến số nước sử dụng lao động
Ý nghĩa chỉ tiêu:
Chỉ tiêu cho biết phần thu nhập của người lao động ở nước ngoài
được tính vào thu nhập quốc dân.
Ngoài các chỉ tiêu có thể lượng hoá được để so sánh nói trên còn
có một số chỉ tiêu khác cũng có thể lượng hoá được như số lao động
có nghề được đào tạo nâng cao trình độ, mức tiết kiệm chi phí đào tạo
trên một người lao động... song nói chung còn ở mức thấp. Một số
khía cạnh khác như việc du nhập kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm
sản xuất mới, việc du nhập nếp sống tiến bộ, tăng cường mối quan hệ
hợp tác giữa hai nước, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế ... phản ánh hiệu
quả về mặt xã hội.
3.2 Chi phí bỏ ra:
Bao gồm có các chi phí cho người lao động trong lĩnh vực tham
gia, chi phí cho bộ máy quản lý, tổ chức tuyển mộ, đưa đi và quản lý ở
nước ngoài, xử lý các công việc sau khi đưa người lao động hết hạn
trở về nước, tiền nộp phạt cho nước bạn do người lao động tự ý bỏ
hợp đồng...
Chi phí về mặt xã hội có ý kiến cho rằng còn có những tiêu cực
do lao động gây ra ở nước ngoài. Song những cái đó là yếu tố chủ
quan có thể khắc phục được nếu có biện pháp và chính sách thích hợp.
II. Vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế:
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế quan trọng đối với mỗi
quốc gia, đặc biệt đối với các nước kinh tế kém phát triển. Hoạt động
này đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia: bên xuất khẩu lao
động, bên nhập khẩu lao động và bản thân người lao động.
1. Xét trên góc độ vĩ mô:
1.1. Với nước xuất khẩu lao động:
Nước xuất khẩu lao động có lợi về nhiều mặt trong đó đặc biệt là
các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội, quan hệ đối ngoại.
- Về kinh tế: Xuất khẩu lao động có vai trò đặc biệt trong hoạt
động kinh tế. Trước hết, nó góp phần giải quyết việc làm và tăng thu
nhập cho người lao động. Có thẻ nói, xuất khẩu lao động giữ một vị trí
rất quan trọng trong chương trình việc làm quốc gia, nếu không nói là
chủ yếu trong chiến lược giải quyết việc làm, đây là một công cụ hữu
hiệu để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đặt ra tới năm
2010 sẽ xoá hết đói nghèo. Kinh nghiệm từ một số nước cho thấy,
xuất khẩu lao động là một giải pháp khắc phục tình trạng thất nghiệp
có hiệu quả cao. Theo ILO, tính đến năm 1999 có 920 triệu người trên
thế giới thất nghiệp và thiếu việc lam. Trong đó, các nước thuộc khối
G7 có khoảng 45 triệu lao động thất nghiệp. Điều đó đã gây nên tình
trạng giảm sút tăng trưởng kinh tế cao.Để khắc phục tình trạng này,
các nước đã thành công bằng sử dụng giải pháp xuất khẩu lao động.
Bên cạnh những đóng góp trên, xuất khẩu lao động còn đem lại
nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế do vậy rút ngắn khoảng cách giàu- nghèo giữa
nước phát triển và nước đang phát triển.
Xuất khẩu lao động cũng là một kênh đem lại một nguồn thu
nhập quan trọng cho đất nước. Theo ước tính, số lao động xuất khẩu
năm 2004 đã gửi về cho gia đình khoảng 1,5 tỷ USD, bình quân mỗi
lao động khoảng 3.750 USD hay 302,5 USD một tháng, cao gấp nhiều
lần phần dôi ra sau khi trừ đi chi tiêu cho ăn uống của lao động trong
nước. Một tỷ rưỡi USD tuy chưa thấm tháp gì so với Philippines (số
tiền gửi qua kênh chuyển tiền chính thức là trên 7 tỷ USD, còn theo
ước tính của ADB tính thêm cả kênh chuyển tiền không chính thức thì
tổng số lên đến 14 – 21 tỷ USD, chiếm 32%GDP của nước này),
nhưng đã chiếm khoảng 3,3% GDP của cả nước và tương đương với
nguồn vốn ODA giải ngân trong năm.
- Về xã hội: Đối với một nước hơn 82 triệu dân, với trên một nửa
là số người trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở
thành thị lên đến 5,6% và số thời gian chưa được sử dụng ở nông thôn
lên đến trên 20%, thì xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc
làm cho người lao động rất có ý nghĩa. Trong mấy năm gần đây, số
lao động đi xuất khẩu của nước ta mỗi năm đã lên đến trên dưới 70
nghìn người và đến nay đã có khoảng 400 nghìn người Việt Nam đang
làm việc ở khoảng trên 40 nước và vùng lãnh thổ. Song nếu so với
Philippines có cùng số dân và số người trong tuổi lao động như Việt
Nam thì kết quả trên còn thấp hơn rất nhiều. Năm 2004, nước này đã
có 1 triệu lao động đi làm việc ở nước ngoàI, đưa Philippines vượt qua
Mexico trở thành nước xuất khẩu lao động lớn nhát thế giới. Cho đến
nay, nước này có khoảng 8 triệu lao động làm việc ở 56 nước, đông
nhất là tại Mỹ, ả Rập Saudi, Malayxia, Canada, Nhật Bản…
Thực hiện tốt công tác xuất khẩu lao động sẽ giảm được tệ nạn
xã hội do thất nghiệp gây ra, tạo một hướng lao động tích cực cho
người lao động, học tập được phong cách lao động mới do tổ chức lao
động ở nước ngoài trang bị...
- Về quan hệ đối ngoại: Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác
trong lĩnh vực xuất khẩu lao động là vô cùng quan trọng, từ đó quan
hệ giữa nước cung ứng lao động và nước tiếp nhận lao động trở nên
gắn bó hơn, hiểu nhau hơn, tao ra mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
Cung cấp cho nhau những thông tin quan trọng về những vấn đề hai
nước cùng quan tâm và thống nhất quan điểm hai bên cùng có lợi. Sự
đa dạng hoá các quan hệ hợp tác quốc tế được mở rộng thông qua hợp
tác về lao động sẽ tạo điêù kiện mở rộng hơn nữa các quan hệ hợp tác
khác.
1.2. Với nước nhập khẩu lao động:
Nước nhập khẩu lao động thu được những lợi ích đáng kể như:
cung cấp đủ số lao động bù đắp vào các ngành thiếu hụt, khai thác có
hiệu qủa tiềm năng của đất nước. Đồng thời, mở rộng quan hệ và uy
tín với nước có lao động, khai thác kinh nghiệm, kiến thức, tác phong
lao động và cung ccáh quản lý của nước khác, mở rộng nhu cầu thị
trường trong nước...
Ngoài ra xuất khẩu lao động cũng góp phần giả quyết nhu cầu
lao động đặc biệt là trong các lĩnh vực mà lao động địa phương ít
tham gia tại nước tiếp nhận lao động.
2. Xét trên góc độ vi mô:
2.1. Với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lao động:
- Xuất khẩu lao động là một bộ phận của xuất khẩu do vậy các
doanh nghiệp tham gia trong lĩnh vực này phải tìm hiểu kỹ về nền văn
hoá, phong tục tập quán của nước nhập khẩu, đây là tiền đề tốt trong
quá trình hội nhập quốc tế.
- Doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động là đã tham gia
hiệu quả vào chương trình quốc gia giải quyết việc làm đồng thời thực
hiện một phần thoả thuận hợp tác giữa hai chính phủ.
- Doanh nghiệp xuất khẩu lao động làm ăn có hiệu quả sẽ thực
hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên một vấn đề bức xúc đang đặt ra trong giai đoạn hiện
nay đó là tình trạng ngày càng có nhiều lao động không thực hiện hợp
đồng đã ký.Việc này có thể gây ảnh hưởng lớn đối với uy tín của
doanh nghiệp cũng như sự ổn định trên thị trường hiện tại và tiềm
năng.
2.2. Với bản thân người lao động:
- Người đi xuất khẩu lao động có điều kiện giúp gia đình thoát
khỏi đói nghèo cải thiện mức sống của bản thân và gia đình.
- Người lao động có thể tiếp thu kỹ năng làm việc, quản lý, tích
luỹ trình độ tay nghề và kinh nghiệm thực tiễn để tự tạo việc làm sau
khi về nước.
III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA PHILIPPINE VỀ XUẤT
KHẨU LAO ĐỘNG:
1. Khuôn khổ pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động:
Hiện nay có rất nhiều người Philippine đi làm việc ở nước ngoài
do nhiều nước có nhu cầu về lao động. Tuy nhiên nếu không có những
chính sách cụ thể của Chính phủ thì người lao động có thể bị đưa đi
không chính thống và có thể bị bóc lột. 10 năm trước đây Philippine
đã đặt tất cả các vấn đề lên bàn để xem xét với mục đích làm sao tạo
điều kiện để nguời lao động được đi làm việc ở nước ngoài một cách
thuận lợi.Trong đó làm rõ vai rò của Chính phủ và các bên có liên
quan.
Ở Philippine nhiệm vụ của Nhà nước là tối đa hoá lợi ích của
người lao động. Việc này khó được thực hiện ở khu vực tư nhân. Với
chính sách hiện nay người dân tin tưởng rằng Chính phủ luôn bảo vệ
quyền lợi của người lao động ở nước ngoài và cố gắng giảm thiểu chi
phí đối với bản thân họ, cho gia đình họ và cho đất nước.
Philippine có cơ chế là phải tạo mọi điều kiện và thủ tục một
cách rõ ràng, đầy đủ, có hệ thống đối với tất cả những người lao động
có hợp đồng làm việc ở nước ngoài. Đồng thời cần bảo vệ họ một
cách đầy đủ để giảm thiểu sự lạm dụng, khai thác cả trước, trong và
sau quá trình làm việc tại nước ngoài.
2. Việc cấp giấy phép kinh doanh:
Thách thức lớn đối với Chinh phủ trong việc cấp giấp phép kinh
doanh là làm thế nào để hấp dẫn và tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp tư nhân tham gia vào thị trường này.
Chính phủ Philippine thực hiện một chính sách rất nghiêm khắc
trong việc quy định số vốn ban đầu và số lượng lao động mà doanh
nghiệp xuất khẩu trong năm đầu tiên hoạt động,dựa vào đó Chính phủ
có thể cấp giấy phép cho họ với các thờ hạn khác nhau. Bên cạnh đó
Chính phủ cũng quản lý khoản tiền ký quỹ khi doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh cho các mục đích: nếu doanh nghiệp không đảm bảo đưa
lao động đi hoặc đưa lao động đi nhưng không đảm bảo điều kiện cho
họ hoặc thu phí của người lao động quá cao hoặc khi Chính phủ phát
hiện doanh nghiệp đã thu lợi quá mức so với mức trung bình làm cho
- Xem thêm -