Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, với xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt
Nam đang trên đà đẩy mạnh các hoạt động kinh tế - chính trị nhằm tìm kiếm cho
mình một chỗ đứng vững chắc trên trường quốc tế.
Hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay đang được đặc biệt chú trọng bởi nó
mang lại cho nền kinh tế - xã hội nước ta những bước chuyển mới với hiệu qủa
rõ rệt. Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như: gạo, cà
phê, giày dép, thuỷ sản, may mặc... thì hoạt động xuất khẩu lao động lại đặc biệt
được quan tâm trong thời gian gần đây. Đảng và Nhà nước ta đã coi hoạt động
xuất khẩu là một hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần phát triển nguồn nhân lực,
giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao
động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc
tế giữa nước ta với các nước.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xuất khẩu lao động còn gặp
phải những khó khăn, thách thức mới. Nhu cầu về việc làm của người lao động
và lợi ích quốc gia đòi hỏi Nhà nước và chính bản thân người lao động phải có
những cố gắng, giải pháp riêng để không ngừng nâng cao hiệu qủa và mở rộng
chương trình làm việc với người nước ngoài để ngày càng có thêm nhihều thị
trường mới để xuất khẩu lao động đạt kết qủa cao.
Để đi sâu nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu lao động, em đã chọn đề tài
"Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động sang Đài Loan của
Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của mình. Nội dung chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu lao động
Chương II: Thực trạng xuất khẩu lao động ở Công ty cổ phần Đầu tư
và Thương mại.
Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu
lao động ở Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại trong những năm tới.
1
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
Đây là một đề tài khá mới mẻ nên trong quá trình tìm hiểu, xây dựng đề
tài em đã gặp không ít khó khăn, nhưng với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo
TS. Thân Danh Phúc, cùng với các anh chị ở phòng xuất khẩu lao động và
chuyên gia của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại, cũng như qua quá trình
tìm tòi các tài liệu phục vụ cho chuyên đề, em đã xây dựng nên một chuyên đề
hoàn chỉnh. Tuy nhiên, với thời gian, trình độ còn hạn chế và kinh nghiệm thực
tế chưa nhiều, em mong có sự góp ý của các thầy cô giáo về những thiếu sót em
mắc phải.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 05 tháng 5 năm 2005
Sinh viên thực hiện
Phạm Diễm Ngọc
2
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
I. NỘI DUNG CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG:
1. Một số khái niệm cơ bản:
Trong khoảng 20 năm trở lại đây việc đưa lao động của một quốc gia ra khỏi
phạm vi của nước đó để làm việc đã trở nên quen thuộc với số lượng ngày càng
tăng.Đó là do sự phát triển kinh tế trên phạm vi toàn cầu đang có những chuyển
biến về chất và không đoòng đều giữa các nước dựa trên cơ sở phát triển mạnh
của khoa học kỹ thuật.Thực tế cho thấy, sức lao động của các quốc gia có dư
thừa lao động đến giai đoạn hiện nay đã được xem như là một loại hàng hoá có
thể mang lại nguồn thu ngoại tệ rất lớn cho ngân sách quốc gia.
Do vậy để nghiên cứu về xuất khẩu lao động trước hết cần phải tìm hiểu và làm
rõ các khái niệm có liên quan:
-
Nguồn lao động: Là bộ phận dân cư gồm những người trong độ tuổi lao
động (không kể những nguời mất khả năng lao động) và những ngưòi ngoài tuổi
lao động nhưng thực tế có tham gia lao động. Nguồn lao động bao gồm những
người từ độ tuổi lao động trở lên (ở nước ta là tròn 15 tuổi).
-
Lao động: là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay
đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Thực chất là sự vận
động của sức lao động trong qua trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội, lao
động cũng chính là quá trình kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất để sản
xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu con người.Có thể nói lao động là yếu tố quyết
định cho mọi hoạt động kinh tế.
-
Sức lao động: Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người
trong quá trình tạo ra của cải xã hội, nó phản ánh khả năng lao động của con
người, là điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội. Trong nền
kinh tế hàng hoá sức lao động là một hàng hóa đặc biệt vì nó có giá trị và giá trị
sử dụng các hàng hoá khác, ngoài ra hàng hoá sức lao động còn là một sản phẩm
3
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
có tư duy, có đời sống tinh thần. Thông qua thị trường lao động, sức lao động
được xác định giá cả. Hàng hoá sức lao động cũng tuân theo quy luật cung – cầu
của thị trường. Mức cung cao sẽ dẫn tới dư thừa lao động, giá cả sức lao động
(tiền công) thấp, ngược lại khi mức cung thấp sẽ dẫn tới tình trạng thiếu lao
động, giá cả sức lao động sữ trở nên cao hơn.
-
Thị trường lao động: Trong mỗi xã hội, nơi nào xuất hiện nhu cầu sử
dụng lao động và có nguồn lao động cung cấp, ở đó sẽ hình thành nên thị trường
lao đông. Trong nền kinh tế thị trường, người lao đông muốn tìm việc phải
thông qua thị trường lao động. Về mặt thuật ngữ, "Thị trưòng lao đông" thực
chất phải được hiểu là "Thị trường sức lao động" để phù hợp với khái niệm của
tổ chức lao động quốc tế: Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế,
nó bao gồm toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực mua bán,
trao đổi và thuê mướn sức lao động. Trên thị trường lao động, mối quan hệ được
thiết lập giữa một bên là người lao động và một bên là người sử dụng lao động.
Qua đó, cung-cầu về lao đọng ảnh hưởng tới tiền công lao động và mức tiền
công lao động cũng ảnh hưởng tới cung- cầu lao động.
+ Cầu lao động: là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá có
thể chấp nhận được. Nó mô tả toàn bộ hành vi người mua có thể mua được hàng
hoá sức lao động ở mỗi mức giá hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra.
Cầu về sức lao động có liên quan chặt chẽ tới giá cả sức lao động, khi giá cả
tăng hoặc giảm sẽ làm cho cầu về lao động giảm hoặc tăng.
+ Cung lao động: là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở
mỗi mức giá nhất định. Giống như cầu và lượng cầu, đường cung lao động mô tả
toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thoả thuận ở các mức giá đặt ra. Cung
lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với giá cả. Khi giá cả tăng thì lượng cung lao
động tăng và ngược lại.
Xuất khẩu lao động trên thị trường lao động quốc tế được thực hiện chủ yếu dựa
vào quan hệ cung - cầu lao động. Nó chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật
4
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
kinh tế thị trường. Bên cầu phải tính toán kỹ hiệu quả của việc nhập khẩu lao
động từ đod cần phải xác định chặt chẽ số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động
hợp lý. Mặt khác, bên cung có mong muốn xuất khẩu càng nhiều lao động càng
tốt. Do vậy, muốn cho loại hàng hoá đặc biệt này chiếm đựơc ưu thế trên thị
trường lao động, bển cung phải có sự chuẩn bị và đầu tư để được thị trường chấp
nhận, phải đáp ứng kịp thời các yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng lao
động cao.
Thị trường lao động nước ta hiện nay tuy đã hình thành song phạm vi còn nhỏ
hẹp. Để phù hợp với sự phát triển quá nhanh của nguồn lao động trước hết thị
trường lao động phải được mở rộng cả trong và ngoài nước, đồng thời tạo điều
kiện cho người lao động có quyền bình đẳng, tự do tìm việc làm, thuê mướn lao
động theo pháp luật.
-
Di dân quốc tế: Di dân quốc tế được hiểu là quá trình di chuyển lao động
từ nước này sang nứoc khác để tìm việc làm. Nếu xét theo khía cạnh dân số
học thì xuất khẩu lao động cũng là một quá trình di dân quốc tế. Do đó,việc
đưa nguời lao động đi làm việc ở nước ngoài chính là tham gia vào quá trình di
dân quốc tế, nó không nằm ngoài những quy luật chung. Việc đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài tuân theo những hiệp định giữa hai quốc gia, đa
quốc gia hoặc theo công ước quốc tế, tuỳ từng trường hợp khác nhau mà nó
được xếp nằm trong giới hạn nào.
-
Xuất khẩu lao động:
Đến nay, trên thế giới vẫn chưa có một khái niệm chuẩn nào về xuất khẩu lao
động. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu xuất khẩu lao động thông qua khái niệm của
tổ chức lao động quốc tế ( ILO) như sau: Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh
tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia trên cơ
sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất hượp pháp quy định được sự
thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận người lao động.
Phân loại xuất khẩu lao động:
5
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
Căn cứ vào cơ cấu người lao động đưa đi:
Lao động có nghề: là loại lao động trước khi ra nước ngoài làm việc đã được
đào tạo thành thạo một loại nghề nào đó và khi số lao động này ra nước ngoài
làm việc có thể bắt tay ngay vào công việc mà không phải bỏ ra thời gian và chi
phí để tiến hành đào tạo nữa.
Lao động không có nghề: là loại lao động mà khi ra nước ngoài làm việc chưa
được đào tạo một loại nghề nào cả. Loại lao động này thích hợp với những công
việc đơn giản, không cần trình độ chuyên môn hoặc phía nước ngoài cần phải
tiến hành đào tạo cho mục đích của mình trước khi đưa vào sử dụng.
Căn cứ vào nước xuất khẩu lao động:
Nhóm các nước phát triển: Có xu hướng gửi lao động kỹ thuật cao sang các
nước đang phát triển để thu ngoại tệ. Trường hợp này không phải là chảy máu
chất xám mà là đầu tư chất xám có mục đích. Việc đầu tư nhằm một phần thu lại
kinh phí đào tạo cho đội ngũ chuyên gia trong nhiều năm, một phần khác lớn
hơn là phát huy năng lực trình độ đội ngũ chuyên gia, công nhân kỹ thuật bậc
cao ở nước ngoài .v.v... để thu ngoại tệ.
Nhóm các nước đang phát triển: có xu hướng gửi lao động bậc trung hoặc bậc
thấp sang các nước có nhu cầu để lấy tiền công và tích luỹ ngoại tệ, giảm bớt
khó khăn kinh tế và sức ép việc làm trong nước.
2.
Các hình thức xuất khẩu lao động:
Xuất khẩu lao động thực tế đem lại lợi ích thiết thực cho cả người lao động và
phía Nhà nước. Nhận thức rõ điều đó Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đưa
ra những chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội đi
làm việc ở nước ngoài. Ngày 17 tháng 7 năm 2003 Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 81/2003/NĐ-CP quy định chi tiết về việc đưa người Việt Nam đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài. Tại điều 3 khoản 2 Nghị định này quy định rõ các
hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm viẹec có thời hạn ở nước ngoài,
trong đó bao gồm các hình thức cơ bản sau:
6
Luận văn tốt nghiệp
2.1.
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
Thông qua doanh nghiệp Việt Nam được phép cung ứng lao
động theo hợp đồng ký kết với bên nước ngoài:
Đối tác nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động, đưa ra những yêu cầu cụ thể
về số lượng, tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính...Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
của Việt Nam sau khi nhận được đơn đặt hàng của bên nước ngoài sẽ tiến hành
sơ tuyển dựa trên những tiêu chí có sẵn. Để đảm bảo đúng yêu cầu của mình,
bên nước ngoài thực hiện kiểm tra lại một lần nữa trước khi lao động sang làm
việc.
2.2.
Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, nhận khoán
công trình hoặc đầu tư ở nước ngoài.
Bên nước ngoài đặt hành cho các công trình xây dựng, do vậy phải đưa đi đồng
bộ các đối tượng lao động gồm có kỹ thuật, quản lý, chỉ đạo thi công và lao
động trực tiếp sang nước ngoài làm việc. Sau khi công trình kết thúc thì cũng
chấm dứt hợp đồng đối với người lao động, vì thế xuất khẩu lao động theo hình
thức khoán khối lượng công việc thường không ổn định, tâm lý của người lao
động dễ bị chán nản, không tận tâm với công việc.
2.3.
Theo hợp đồng lao động do cá nhân người lao động trực tiếp ký
kết với người sử dụng lao động ở nước ngoài (sau đây gọi là hợp
đồng cá nhân): Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay, hình thức
này đòi hỏi đối tượng lao động đa dạng tuỳ theo yêu cầu và mức độ
phức tạp của công việc. Có những yêu cầu của người nước ngoài đòi
hỏi người có trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm tổ
chức quản lý, cũng có những yêu cầu chỉ cần người lao động có trình
độ giản đơn.
Ngoài những hình thức đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, hình
thức xuất khẩu lao động tại chỗ cũng đã trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam.
Thông qua các tổ chức kinh tế của ta, người lao động được cung ứng cho các tổ
chức kinh tế nước ngoài dưới những hình thức:
7
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
- Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Các khu chế xuất, khu công nghiệp.
- Các tổ chức, cơ quan ngoại giao tại Việt Nam.
3.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động:
Hiệu quả là chỉ tiêu so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt
được hiệu quả đó ( Hiệu quả = kết quả - chi phí ). Có hai loại hiệu quả là hiệu
quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế là hiệu quả đạt được về mặt
kinh tế, còn hiệu quả xã hội là hiệu quả đạt được về mặt xã hội. Đây là khái
niệm chung để đánh giá hiệu quả, tuy nhiên khi đi vào từng lĩnh vực cụ thể thì
việc đánh giá hiệu quả không đơn giản chút nào, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất
khẩu lao động này. Bởi vì để có thể đánh giá chính xác, đầy đủ và đúng hiệu quả
kinh tế xã hội ở từng thị trường cụ thể thì chúng ta cần phải đánh giá toàn bộ,
toàn diện một cách tổng hợp những kết quả đạt được và chi phí bỏ ra trong quá
trình hoạt động đó, đồng thời, phải xem xét hiệu quả của nó trên cơ sở lợi ích
chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân của nước ta. Qua đó một lần nữa thấy rõ
hơn việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài trong mối liên hệ chung của nền
kinh tế đất nước quan trọng như thế nào bởi lẽ kết quả cuối cùng của lĩnh vực
này được chuyển từ chu trình này sang một chu trình khác, từ ngành này sang
ngành khác, từ nước này sang nước khác...Với quan điểm như vậy, đánh giá hiệu
quả của lĩnh vực này không thể giống như việc đánh giá hiệu quả của một quá
trình kinh doanh cụ thể trong nước mà không có phần phức tạp hơn nhiều.
Một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của xuất khẩu lao động
3.1.
a.
Lợi ích kinh tế đạt được
Số lượng lao động được giải quyết việc làm trong năm:
Công thức tính:
L = Lc + Lx - Ln
Trong đó:
8
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
L
: Số lao động được giải quyết việc làm trong năm
Lc
: Số lao động từ năm trước vẫn còn đang tiếp tục
Lx
: Số lao động được đưa sang hoạt động trong năm
Ln : Số lao động kết thúc hợp đồng trở về nước trong năm
Ý nghĩa của chỉ tiêu:
Chỉ tiêu này nêu ra được chi tiết kết quả đạt được trong một năm qua của công
tác xuất khẩu lao động. Nó chỉ ra được những đóng góp của lĩnh vực này đối với
việc tạo công ăn việc làm cho xã hội mà nhà nước ta đã không phải bỏ vốn đầu
tư để tạo việc làm mới, giải quyết một phần tình trạng ứ đọng lao động của đất
nước ( mặc dù trước khi đi xuất khẩu lao động những người lao động này không
phải tất cả đều thuộc diện thất nghiệp).
b.
Thu nhập quốc dân về ngoại tệ thông qua hoạt động xuất khẩu lao động:
Công thức tính:
P = ∑ Yj ( j = 1 đến n )
Yj = Xij . Kj
Trong đó:
P : Mức thu của nhà nước
Y: Mức thu của nhà nước ở mỗi thị trường
n : Số thị trường đưa lao động sang j :
Nước đưa lao động sang
K : Tỷ số hối đoái quy đổi ra ngoại tệ quy ước
X : Thuế thu nhập mỗi người phải đóng Ý
nghĩa chỉ tiêu:
Chỉ tiêu này cho biết số tiền nhà nước thu được thông qua xuất khẩu lao
động. Vấn đề ngoại tệ (nhất là ngoại tệ mạnh) đối với Việt Nam có ý nghĩa to
lớn. Tất cả các hoạt động có thể đem về ngoại tệ cho đất nước cần được khuyến
khích. “ Cùng với việc xuất khẩu hàng hoá cần hết sức coi trọng, tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động thu ngoại tệ như phát triển du lịch, cung ứng tàu
9
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
biển, dịch vụ hàng không, tổ chức gia công hàng xuất khẩu và đưa lao động đi
làm việc ở nước ngoài là những hình thức thích hợp với hàng triệu người lao
động dư thừa hiện nay. Khả năng hợp tác lao động với nước ngoài của nước ta là
rất lớn, nếu chúng ta biết tổ chức và khai thác hết những tiềm năng đó trong
quan hệ kinh tế đối ngoại thì sẽ thu đựơc nguồn ngoại tệ đáng kể thúc đẩy sản
xuất phát triển.”
c.
Mức tiết kiệm đầu tư vào việc làm của chính phủ:
Công thức tính:
Mtk = mdt . L
Trong đó:
Mtk : Mức tiết kiệm vốn đầu tư tạo ra việc làm mdt :
Mức đầu tư trung bình tạo ra một chỗ làm việc mới
L
: Số người có việc làm thường xuyên ở nước ngoài Ý
nghĩa chỉ tiêu:
Cho biết mức độ tiết kiệm không phải bỏ vốn đầu tư tạo ra chỗ làm việc
mới ở trong nước và đồng nghĩa với việc tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho giải
quyết việc làm.
d.
Giá trị hàng hoá do người lao động đưa về:
Công thức tính:
G = ∑ Hj ( j = 1 đến n )
Hj = ∑ hij . Nj
Trong đó:
G : Giá trị hàng hoá do người lao động đem về
H : Giá trị hàng hoá do người lao động ở mỗi thị trường đem về
h : Giá trị hàng hoá trung bình của một người lao động đem về N : Số
10
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
người gửi hàng hoá về trong năm i : Biến số người j : Biến số thị
trường Ý nghĩa chỉ tiêu:
Cho biết lượng hàng hoá do người lao động đem về góp phần vào việc cân
đối quỹ hàng hoá trong nước và cải thiện đời sống gia đình, tăng thêm máy móc
thiết bị làm tư liệu sản xuất.
g: Thu nhập do lao động đi làm việc ở nước ngoài bổ sung vào thu nhập quốc
dân:
Công thức tính:
Q = ∑ (Pj + Vij) . kj ( j = 1 đến
n)
Trong đó:
Q : Thu nhập của người lao động làm việc ở nước ngoài tính vào thu nhập
quốc dân
P : Các khoản phải nộp của mỗi người lao động
V : Thu nhập của người lao động sau khi đã khấu trừ phần phải nộp
k : Tỷ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ i : Biến số người
j : Biến số nước sử dụng lao động Ý
nghĩa chỉ tiêu:
Chỉ tiêu cho biết phần thu nhập của người lao động ở nước ngoài được
tính vào thu nhập quốc dân.
Ngoài các chỉ tiêu có thể lượng hoá được để so sánh nói trên còn có một
số chỉ tiêu khác cũng có thể lượng hoá được như số lao động có nghề được đào
tạo nâng cao trình độ, mức tiết kiệm chi phí đào tạo trên một người lao động...
song nói chung còn ở mức thấp. Một số khía cạnh khác như việc du nhập kỹ
thuật công nghệ và kinh nghiệm sản xuất mới, việc du nhập nếp sống tiến bộ,
11
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa hai nước, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế ...
phản ánh hiệu quả về mặt xã hội.
3.2 Chi phí bỏ ra:
Bao gồm có các chi phí cho người lao động trong lĩnh vực tham gia, chi phí cho
bộ máy quản lý, tổ chức tuyển mộ, đưa đi và quản lý ở nước ngoài, xử lý các
công việc sau khi đưa người lao động hết hạn trở về nước, tiền nộp phạt cho
nước bạn do người lao động tự ý bỏ hợp đồng...
Chi phí về mặt xã hội có ý kiến cho rằng còn có những tiêu cực do lao động gây
ra ở nước ngoài. Song những cái đó là yếu tố chủ quan có thể khắc phục được
nếu có biện pháp và chính sách thích hợp.
II. Vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế:
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc
biệt đối với các nước kinh tế kém phát triển. Hoạt động này đem lại lợi ích cho
tất cả các bên tham gia: bên xuất khẩu lao động, bên nhập khẩu lao động và bản
thân người lao động.
1.
Xét trên góc độ vĩ mô:
1.1. Với nước xuất khẩu lao động:
Nước xuất khẩu lao động có lợi về nhiều mặt trong đó đặc biệt là các lĩnh vực:
Kinh tế, xã hội, quan hệ đối ngoại.
-
Về kinh tế: Xuất khẩu lao động có vai trò đặc biệt trong hoạt
động kinh tế. Trước hết, nó góp phần giải quyết việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động. Có thẻ nói, xuất khẩu lao động giữ
một vị trí rất quan trọng trong chương trình việc làm quốc gia, nếu
không nói là chủ yếu trong chiến lược giải quyết việc làm, đây là
một công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước
ta đặt ra tới năm 2010 sẽ xoá hết đói nghèo. Kinh nghiệm từ một số
nước cho thấy, xuất khẩu lao động là một giải pháp khắc phục tình
trạng thất nghiệp có hiệu quả cao. Theo ILO, tính đến năm 1999 có
12
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
920 triệu người trên thế giới thất nghiệp và thiếu việc lam. Trong
đó, các nước thuộc khối G7 có khoảng 45 triệu lao động thất
nghiệp. Điều đó đã gây nên tình trạng giảm sút tăng trưởng kinh tế
cao.Để khắc phục tình trạng này, các nước đã thành công bằng sử
dụng giải pháp xuất khẩu lao động.
Bên cạnh những đóng góp trên, xuất khẩu lao động còn đem lại nguồn thu ngoại
tệ đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế do vậy
rút ngắn khoảng cách giàu- nghèo giữa nước phát triển và nước đang phát triển.
Xuất khẩu lao động cũng là một kênh đem lại một nguồn thu nhập quan trọng
cho đất nước. Theo ước tính, số lao động xuất khẩu năm 2004 đã gửi về cho gia
đình khoảng 1,5 tỷ USD, bình quân mỗi lao động khoảng 3.750 USD hay 302,5
USD một tháng, cao gấp nhiều lần phần dôi ra sau khi trừ đi chi tiêu cho ăn
uống của lao động trong nước. Một tỷ rưỡi USD tuy chưa thấm tháp gì so với
Philippines (số tiền gửi qua kênh chuyển tiền chính thức là trên 7 tỷ USD, còn
theo ước tính của ADB tính thêm cả kênh chuyển tiền không chính thức thì tổng
số lên đến 14 – 21 tỷ USD, chiếm 32%GDP của nước này), nhưng đã chiếm
khoảng 3,3% GDP của cả nước và tương đương với nguồn vốn ODA giải ngân
trong năm.
-
Về xã hội: Đối với một nước hơn 82 triệu dân, với trên một
nửa là số người trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp
ở thành thị lên đến 5,6% và số thời gian chưa được sử dụng ở nông
thôn lên đến trên 20%, thì xuất khẩu lao động là một kênh giải
quyết việc làm cho người lao động rất có ý nghĩa. Trong mấy năm
gần đây, số lao động đi xuất khẩu của nước ta mỗi năm đã lên đến
trên dưới 70 nghìn người và đến nay đã có khoảng 400 nghìn người
Việt Nam đang làm việc ở khoảng trên 40 nước và vùng lãnh thổ.
Song nếu so với Philippines có cùng số dân và số người trong tuổi
lao động như Việt Nam thì kết quả trên còn thấp hơn rất nhiều.
13
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
Năm 2004, nước này đã có 1 triệu lao động đi làm việc ở nước
ngoàI, đưa Philippines vượt qua Mexico trở thành nước xuất khẩu
lao động lớn nhát thế giới. Cho đến nay, nước này có khoảng 8
triệu lao động làm việc ở 56 nước, đông nhất là tại Mỹ, ả Rập
Saudi, Malayxia, Canada,
Nhật Bản…
Thực hiện tốt công tác xuất khẩu lao động sẽ giảm được tệ nạn xã hội do
thất nghiệp gây ra, tạo một hướng lao động tích cực cho người lao động, học tập
được phong cách lao động mới do tổ chức lao động ở nước ngoài trang bị...
-
Về quan hệ đối ngoại: Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác
trong lĩnh vực xuất khẩu lao động là vô cùng quan trọng, từ đó
quan hệ giữa nước cung ứng lao động và nước tiếp nhận lao động
trở nên gắn bó hơn, hiểu nhau hơn, tao ra mối quan hệ tốt đẹp giữa
hai nước. Cung cấp cho nhau những thông tin quan trọng về những
vấn đề hai nước cùng quan tâm và thống nhất quan điểm hai bên
cùng có lợi. Sự đa dạng hoá các quan hệ hợp tác quốc tế được mở
rộng thông qua hợp tác về lao động sẽ tạo điêù kiện mở rộng hơn
nữa các quan hệ hợp tác khác.
1.2. Với nước nhập khẩu lao động:
Nước nhập khẩu lao động thu được những lợi ích đáng kể như: cung cấp đủ số
lao động bù đắp vào các ngành thiếu hụt, khai thác có hiệu qủa tiềm năng của
đất nước. Đồng thời, mở rộng quan hệ và uy tín với nước có lao động, khai thác
kinh nghiệm, kiến thức, tác phong lao động và cung ccáh quản lý của nước khác,
mở rộng nhu cầu thị trường trong nước...
Ngoài ra xuất khẩu lao động cũng góp phần giả quyết nhu cầu lao động đặc biệt
là trong các lĩnh vực mà lao động địa phương ít tham gia tại nước tiếp nhận lao
động.
2.
Xét trên góc độ vi mô:
2.1. Với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lao động:
14
Luận văn tốt nghiệp
-
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
Xuất khẩu lao động là một bộ phận của xuất khẩu do vậy các
doanh nghiệp tham gia trong lĩnh vực này phải tìm hiểu kỹ về nền
văn hoá, phong tục tập quán của nước nhập khẩu, đây là tiền đề tốt
trong quá trình hội nhập quốc tế. - Doanh nghiệp hoạt động xuất
khẩu lao động là đã tham gia hiệu quả vào chương trình quốc gia
giải quyết việc làm đồng thời thực hiện một phần thoả thuận hợp
tác giữa hai chính phủ.
-
Doanh nghiệp xuất khẩu lao động làm ăn có hiệu quả sẽ thực
hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên một vấn đề bức xúc đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay đó là tình
trạng ngày càng có nhiều lao động không thực hiện hợp đồng đã ký.Việc này có
thể gây ảnh hưởng lớn đối với uy tín của doanh nghiệp cũng như sự ổn định trên
thị trường hiện tại và tiềm năng.
2.2. Với bản thân người lao động:
-
Người đi xuất khẩu lao động có điều kiện giúp gia đình thoát
khỏi đói nghèo cải thiện mức sống của bản thân và gia đình.
-
Người lao động có thể tiếp thu kỹ năng làm việc, quản lý,
tích luỹ trình độ tay nghề và kinh nghiệm thực tiễn để tự tạo việc
làm sau khi về nước.
III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA PHILIPPINE VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG:
1.
Khuôn khổ pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động:
Hiện nay có rất nhiều người Philippine đi làm việc ở nước ngoài do nhiều nước
có nhu cầu về lao động. Tuy nhiên nếu không có những chính sách cụ thể của
Chính phủ thì người lao động có thể bị đưa đi không chính thống và có thể bị
bóc lột. 10 năm trước đây Philippine đã đặt tất cả các vấn đề lên bàn để xem xét
với mục đích làm sao tạo điều kiện để nguời lao động được đi làm việc ở nước
ngoài một cách thuận lợi.Trong đó làm rõ vai rò của Chính phủ và các bên có
liên quan.
15
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
Ở Philippine nhiệm vụ của Nhà nước là tối đa hoá lợi ích của người lao động.
Việc này khó được thực hiện ở khu vực tư nhân. Với chính sách hiện nay người
dân tin tưởng rằng Chính phủ luôn bảo vệ quyền lợi của người lao động ở nước
ngoài và cố gắng giảm thiểu chi phí đối với bản thân họ, cho gia đình họ và cho
đất nước.
Philippine có cơ chế là phải tạo mọi điều kiện và thủ tục một cách rõ ràng, đầy
đủ, có hệ thống đối với tất cả những người lao động có hợp đồng làm việc ở
nước ngoài. Đồng thời cần bảo vệ họ một cách đầy đủ để giảm thiểu sự lạm
dụng, khai thác cả trước, trong và sau quá trình làm việc tại nước ngoài.
2.
Việc cấp giấy phép kinh doanh:
Thách thức lớn đối với Chinh phủ trong việc cấp giấp phép kinh doanh là làm
thế nào để hấp dẫn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào
thị trường này.
Chính phủ Philippine thực hiện một chính sách rất nghiêm khắc trong việc
quy định số vốn ban đầu và số lượng lao động mà doanh nghiệp xuất khẩu trong
năm đầu tiên hoạt động,dựa vào đó Chính phủ có thể cấp giấy phép cho họ với
các thờ hạn khác nhau. Bên cạnh đó Chính phủ cũng quản lý khoản tiền ký quỹ
khi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh cho các mục đích: nếu doanh nghiệp
không đảm bảo đưa lao động đi hoặc đưa lao động đi nhưng không đảm bảo điều
kiện cho họ hoặc thu phí của người lao động quá cao hoặc khi Chính phủ phát
hiện doanh nghiệp đã thu lợi quá mức so với mức trung bình làm cho người lao
động không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng khi chưa hết thời hạn thì không cần
phải chờ đợi gì, Chính phủ sẽ điều tiết khoản tiền này để trả lại cho người lao
động.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy cả Chính phủ, chủ sử dụng lao động và
người lao động đều có "danh sách đen". Tức là danh sách liệt kê những doanh
nghiệp hoạt động có vấn đề, không theo đúng các quy định qua đó họ sẽ biết và
cố gắng tránh những khó khăn, phiền toái xảy ra khi thực hiện hợp đồng.
16
Luận văn tốt nghiệp
3.
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
Hệ thống thưởng phạt:
Chính phủ rất quan tâm các hoạt động khen thưởng và đưa ra các mức thưởng
cho các doanh nghiệp làm tốt. Khi làm các thủ tục khen thưởng, các doanh
nghiệp không cần phải xuất trình hợp đồng vì họ đã được xác nhận và đã có kết
quả thanhf công của người lao động. Điều quan trọng là nếu doanh nghiệp nào
thành công sẽ được Chính phủ đưa vào danh sách khen thưởng. Điều này rất có
ích cho doanh nghiệp vì nếu như một công ty hoặc một quốc gia nào cần tìm
hiểu các doanh nghiệp tốt thì Chính phủ giới thiệu với họ danh sách các doanh
nghiệp có uy tín. Như vậy doanh nghiệp sẽ có điều kiện kinh doanh tốt hơn,
cũng như doanh nghiệp sẽ có điều kiện để gia hạn giấy phép dễ dàng hơn. Danh
sách các doanh nghiệp hoạt động tốt và có uy tín cũng được đưa lên các báo cáo
của Chính phủ.
4.
Các dịch vụ cung cấp cho người lao động làm việc ở nước ngoài: Để
đảm bảo phúc lợi cho người lao động Chính phủ Philippine đã có các dịch vụ
hỗ trợ như sau:
-
Ngoài các cán bộ phúc lợi làm việc tại đại sứ quán, chúng tôi xây
dựng các trung tâm cung cấp dịch vụ ngay tại khu vực có người lao động
làm việc. ở các trung tâm, hàng ngày có các bác sĩ, cán sự xã hội làm việc
và hỗ trợ cho người lao động.
-
Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về những người lao động đang
làm việc nước ngoài tại đại sứ quán Philippine ở mỗi nước nơi có lao
động đế làm việc là rất quan trọng, vì qua đó cơ quan quản lý mới biết cụ
thể người lao động đang ở đâu và làm việc gì trên cơ sở đó mới quan tâm
họ sâu sát được. Việc đăng ký danh sách này có tác dụng giảm thiểu các
rủi ro với người lao động. Để làm được việc này, các doanh nghiệp cần
phải thông báo với người lao động rằng khi sang đến nước ngoài, họ phải
đến đại sứ quán Philippine ở đó để đăng ký và cung cấp cho họ địa chỉ và
thông tin về đaị sứ quán để người lao động biết.
17
Luận văn tốt nghiệp
-
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
Xây dựng mạng liên kết điện tử kết nối với hiệp hội người lao động
Philippine. Thông qua mạng này các ngân hàng cũng giúp người lao động
chuyển tiền về nước cho gia đình. Như vậy việc đưa lao động sang nước
ngoài làm việc không chỉ đơn giản tạo việc làm mà còn đem laị lợi ích
cho nhiều ngành khác có liên quan.
-
Để tăng cường bảo vệ người lao động không bị môi giới đưa đi bất
hợp pháp hoặc chịu nhiều khó khăn thiệt thòi chúng tôi đã lập chiến dịch
thông tin đại chúng để tuyên truyền cho tất cả người dân biết thực trạng
về vấn đề đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài và địa chỉ các doanh
nghiệp đáng tin cậy. Cũng như chiến dịch chống việc đưa người và tuyển
người bất hợp pháp. Đây là vai trò mang tính quản lý Nhà nước, đòi hỏi
các bộ có liên quan, đặc biệt là Bộ Lao động cần tham gi avào hoạt động
này.
-
Để thu hút người lao động trở về đất nước, Chính phủ đã tạo điều
kiện cho họ thông qua chương trình đào tạo lại, chương trình nhà ở,
chương trình học bổng cho con em họ.
-
Có chính sách ưu tiên những người lao động ra nước ngoài làm việc
hơn là những người đi du lịch như miễn thuế sân bay, thuế du lịch...cho
họ.
5.
Vấn đề tạo uy tín cho chất lượng giáo dục:
Kinh nghiệm 30 năm cho thấy ngày càng có nhiều khó khăn trong lĩnh vực đưa
lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đó là vấn đề cạnh tranh. Chính vì vậy vấn đề
đặt ra là cần xây dựng và quảng bá về chất lượng người lao động của chúng ta.
Muốn vậy trước tiên phải xác định người lao động ở nước mình có thể làm
được những việc gì. Sau đó tăng cường đào tạo để nâng cao chất lượng và tăng
tính cạnh tranh. Bên cạnh đó cũng cần trang bị ngoại ngữ cho người lao động.
Cho đến nay tiếng Anh vẫn là ngoại ngữ cần đầu tư. Một số đối tác ở các nước,
họ yêu cầu phải có xác nhận về tay nghề mà người lao động cần phải đáp ứng.
18
Luận văn tốt nghiệp
6.
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
Hiệp hội các doanh nghiệp và phương thức hoạt động:
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân có tiếng nói cũng như cùng phối
hợp với Chính phủ đưa người lao động ra nước ngoài làm việc, họ thành lập các
hiệp hội của các doanh nghiệp tư nhân. Hiệp hội này có hệ thống thống nhất từ
trên xuống dưới. Tất cả các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài
đều gia nhập hiệp hội lao động ngoài nước Philippine. Bên cạnh các hiệp hội
chung còn có các hiệp hội chuyên môn như Hiệp hội lao động làm việc ngoài
khơi, Hiệp hội xuất khẩu lao động vui chơi giải trí..., hoặc có những hiệp hội
theo vùng, khu vực. Ví dụ như Hiệp hội xuất khẩu lao động Nhật Bản, Hiệp hội
xuất khẩu lao động Hồng Kông...Hiện nay, ở Philippine có khoảng 3040 hiệp
hội lớn, nhỏ.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở CÔNG TY
CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ THƯƠNG MẠI
I. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG ĐÀI LOAN:
1. Giới thiệu đất nước Đài Loan:
Đài Loan là hòn đảo đẹp nằm cách bờ biển Đông Nam lục địa Trung Hoa
khoảng 160 km.Nó được ngăn cách với tỉnh Phúc Kiến của lục địa Trung Hoa
bởi eo biển Đài Loan. Phí Nam hòn đảo này cách phía Bắc Phillipine 350 km.
Phí Bắc Đài Loan cách Tây - Nam Nhật Bản 1.070 km.
Đài Loan bao gồm 64 đảo lớn nhỏ của quần đảo Bành Hồ và 21 đảo khác.
Tổng diện tích khu vực này trên 35.960 km 2 (chưa kể vùng đất khai hoang lấn
biển).
Khí hậu Đài Loan là khí hậu cận nhiệt đới ở phía Bắc và nhiệt đới ở phía
Nam.Thời tiết nóng nhất là từ tháng 6 đến tháng 9 với nhiệt độ trung bình
khoảng 25-28 C. Lượng mưa rất dồi dào. Nửa phía Bắc của đảo mưa lớn kéo dài
từ đầu tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Trong khi đó khu vực phía Nam đảo lại
19
Luận văn tốt nghiệp
Sinh viên: Phạm Diễm Ngọc – K37F3
ấm áp về mùa đông. Tình hình thời tiết sẽ ngược lại, vào mùa hè khi gió mùa
Tây - Nam đem mưa đến phía Nam thì thời tiết lại nóng, khô đều ở phía Bắc.
Dân số Đài Loan có trên 23 triệu người. Thủ phủ là Đài Bắc, nơi có mật độ dân
số cao nhất, tiếp sau đó là thành phố Cao Hùng ở phía Nam. Gần 60% dân số
Đài Loan tập trung ở 4 thành phố lớn: Đài Bắc, Cao Hùng, Đài Trung và Đài
Nam.
Đài Loan sử dụng tiếng phổ thông (tiếng Hoa) trong ngôn ngữ hành chính. Tuy
nhiên tiếng Phúc Kiến và tiếng Hẹ được sử dụng khá phổ biến trong giao tiếp
hàng ngày.
Tôn giáo thịnh hành ở Đài Loan là Phạt giáo với khoảng 4,9 triệu phật tử. Bên
cạnh đó Thiên Chúa giáo cũng có ảnh hưởng rất lớn với gần 30 vạn tín đồ, và
hơn 40 vạn tín đồ đạo Tin lành. Đạo Hồi cũng đã xuất hiện ở Đài Loan.
Đài Loan có vị trí địa lý khá gần Việt Nam. Từ Hà Nội hoặc Thành phố Hồ Chí
Minh đi Đài Loan chỉ mất khoảng 3-4h Bay. Do đó thời tiết, khí hậu cũng khá
gần với thời tiết, khí hậu của miền Bắc Việt Nam. Về phong tục, tập quán, sinh
hoạt của người Đài Loan cũng có những nét tương đồng với nước ta, cũng mang
sắc thái của nền văn hoá Á Đông.
2. Thực trạng lao động nước ngoài tại Đài Loan:
Để giảm bớt tình trạng thiếu nhân lực, từ năm 1989, Đài Loan chính thức nhận
lao động nước ngoài vào làm việc. Nền kinh tế tăng trưởng ở mức trên 6% và tỷ
lệ thất nghiệp dao động ở mức 3% trong hàng chục năm (riêng năm 2001 tỷ lệ
này trên 4%), cùng với việc phát triển mạnh cơ sở hạ tầng, Đài Loan phải đối
mặt với sự khan hiếm nhân lực đặc biệt trong ngành xây dựng.
Trong hơn 10 năm gần đây, thanh niên Đài Loan không còn thích thú với nghề
xây dựng và sản xuất, họ hướng vào các hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ. Để
đáp ứng yêu cầu về lao động cho phát triển kinh tế và trật tự hoá việc sử dụng
lao động nước ngoài, tháng 5 năm 1992, Đài Loan đã công bố Luật Dịch vụ việc
20
- Xem thêm -