LỜI MỞ ĐẦU
Vận tải là huyết mạch của nền kinh tế, vận tải phát triển sẽ thúc
đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Trong thời đại toàn cầu
hoá hiện nay vận tải đóng vai trò rất quan trọng, nhất là vận tải biển.
Vận tải liên kết các nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách về không gian
địa lý, nhằm giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, thúc đẩy thương
mại phát triển, làm lợi cho cả người sản xuất và tiêu dùng.
Trong thương mại quốc tế thì vận tải biển đóng vai trò đặc biệt
quan trọng, khoảng 80% hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển
bằng đường biển, đó là do đặc thù ngành vận tải biển tạo ra lợi thế cho
mình, như phạm vi vận tải rộng, sức chuyên chở lớn và chi phí vận
chuyển thấp.Do vậy ngành vận tải biển trở thành ngành kinh doanh
dịch vụ rất tiềm năng.
Việt Nam với những lợi thế lớn để phát triển hình thức vận tải
biển như vị trí địa lý có bờ biển dài và có nhiều cảng biển lớn
nhỏ.Trong những năm gần đây ngành vận tải biển của Việt Nam
không ngừng phát triển và vươn xa, đóng góp không nhỏ vào sự phát
triển của nền kinh tế đất nước.Bên cạnh đó, ngành vận tải biển Việt
nam còn nhiều tồn tại cần giải quyết. Để ngành vận tải biển phát triển
thuận lợi, đó là những bài toán khó khăn đặt ra cho nhà quản lý.
Những năm qua, đặc biệt từ khi Việt Nam thực hiện chính sách
mở cửa , ngành vận tải biển Việt Nam đã và đang phát triển nhanh
chóng, thị trường vận tải biển Việt Nam đang dần dần mở rộng theo
nhịp độ chung của xu thế thương mại khu vực và toàn cầu
Sự nghiệp đổi mới, chính sách mở cửa, hoà nhập của Việt Nam
với cộng đồng quốc tế đã tạo điều kiện cho khối lượng hàng hoá xuất
nhập khẩu của Việt Nam tăng với tốc độ nhanh.
Toàn cầu hoá khu vực đã trở thành một trong những xu thế phát
triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Xu thế này sẽ tiếp tục phát
triển mạnh trong thời gian tới. Các nước đặc biệt là các nước đang
phát triển ngày càng áp dụng chính sách mở cửa và tự do hoá thương
mại đầu tư và tài chính. Trong bối cảnh đó bất cứ nước nào cũng phải
nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính sách, giảm dần
hàng rào thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, làm cho việc trao
đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên
phạm vi toàn thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Việt nam không
thể không theo xu hướng này. Trong điều kiện đó, mức độ quốc tế hoá
các ngành sản xuất và dịch vụ ngày càng tăng, thì sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp, giữa các quốc gia trong lĩnh vực kinh tế ngày càng
gay gắt hơn.
Đất nước mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới cùng với nền
kinh tế phát triển, xuất nhập khẩu tăng đã tạo điều kiện cho hàng loạt
những hãng tàu lớn quốc tế có mặt tại thị trường Việt Nam cạnh tranh
với nhau, với ngành hàng hải Việt Nam còn non yếu. Trong khi đó,
chúng ta lại chưa có một đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về năng
lực cạnh tranh của ngành hàng hải Việt Nam để từ đó đưa ra các giải
pháp khả thi, đáp ứng điều kiện kinh tế của đất nước đảm bảo khả
năng cạnh tranh của ngành hàng hải Việt Nam trong điều kiện mới.
Vì vầy đề tài “Ngành vận tải biển Việt nam.Thực trạng và giải
pháp phát triển.” Được lựa chọn nghiên cứu xuất phát từ tính cấp thiết
trong thực tế hoạt động ngành vận tải biển Việt nam.
Phân tích thực trạng ngành vận tải biển Việt nam hiện nay nhằm
đề xuất những giải pháp cụ thể và thiết thực để phát triển ngành vận
tải biển Việt Nam.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH VẬN TẢI BIỂN
VIỆT NAM
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH VẬN TẢI BIỂN
VIỆT NAM
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH VẬN TẢI BIỂN
VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và vai trò của ngành vận tải biển
1.1.1 Khái niệm về ngành vận tải biển
Vận tải biển là hoạt động vận tải có liên quan đến việc sử dụng kết cấu
hạ tầng và phương tiện vận tải biển, đó là việc sử dụng những khu đất,
khu nước gắn liền với các tuyến đường biển nối liền các quốc gia, các
vùng lãnh thổ, hoặc các khu vực trong phạm vi một quốc gia, và việc
sử dụng tầu biển, các thiết bị xếp dỡ… để phục vụ việc dịch chuyển
hành khách và hàng hoá trên những tuyến đường biển.
Vận tải biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải
khác.Từ lâu con người đã biết lợi dụng biển làm tuyến đường giao
thông để giao lưu buôn bán giữa các vùng miền, lãnh thổ, quốc
gia.Cho đến nay vận tải biển trở thành ngành vận tải hiện đại trong hệ
thống vận tải quốc tế.
Vận tải đường biển có thể phục vụ chuyên chở tất cả các loại hàng hóa
trong buôn bán quốc tế.
Các tuyến đường vận tải trên biển đa số là các tuyến đường giao thông
tự nhiên.
Năng lực chuyên chở của vận tải đường biển rất lớn. Nhìn chung,
năng lực chuyên chở của công cụ vận chuyển đường biển (đội tàu)
không bị hạn chế như các công cụ của các phương thức vận tải khác.
1.1.2 Vai trò của vận tải biển trong thương mại quốc tế
Ưu điểm của vận tải biển
-Vận tải đường biển đóng vai trò quan trọng nhất trong việc vận
chuyển hàng hoá ngoại thương, chiếm tới 80% khối lượng hàng hoá
trong buôn bán quốc tế. Sản lượng hàng hoá vận chuyển hàng năm đạt
6.000 tỷ tấn và khối lượng luân chuyển đạt khoảng 25.000 tỷ tấn/hải
lý
Vận tải đường biển đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế
vì nó có những ưu điểm nổi bật sau:
-Vận tải đường biển có năng lực vận chuyển lớn:phương tiện
trong vận tải đường biển là các tàu có sức chở rất lớn, lại có thể chạy
nhiều tàu trong cùng một thời gian trên cùng một tuyến đường, thời
gian tàu nằm chờ tại các cảng giảm nhờ sử dụng container và các
phương tiện xếp dỡ hiện đại nên khả năng thông quan của một cảng
biển rất lớn
-Vận tải biển thích hợp cho việc vận chuyển hầu hết các loại
hàng hoá trong thương mại quốc tế. Đặc biệt thích hợp và hiệu quả là
các loại hàng rời có khối lượng lớn và giá trị thấp như: than đá, quặng,
ngũ cốc phốt pho và giàu mỏ
-Chi phí đầu tư xây dựng các tuyến đường hàng hải thấp: các
tuyến đường hàng hải hầu hết là các tuyến đường tự nhiên không đòi
hỏi nhiều vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để xây dựng, duy trì, bảo
quản, trừ việc xây dựng các kênh đào và hải cảng.
-Giá thành vận tải biển rất thấp: Giá thành vận tải biển thuộc loại
thấp nhất trong các phương tiện vận tải do trọng tải tàu biển lớn, cự ly
vận chuyển trung bình lớn, biên chế ít nên năng suất lao động trong
ngành vận tải biển cao. Nhiếu tiến bộ khoa học và kỹ thuật trong vận
tải và thông tin được áp dụng nên giá thành vận tải biển có xu hướng
ngày càng hạ hơn
-Tiêu thụ nhiên liệu trên một tấn trọng tải thấp, chỉ cao hơn vận
tải đường sông một ít
Tuy nhiên vận tải đường biển cũng có một số mặt hạn chế sau:
-Tốc độ của các loại tàu biển tương đối thấp, tốc độ của các tàu
biển chỉ khoảng 14-20 hải lý/giờ. Tốc độ này là thấp so với tốc độ của
máy bay, tàu hoả. Về mặt kỹ thuật, người ta có thể đóng các tàu biển
có tốc độ cao hơn nhiều. Tuy nhiên, đối với các tàu chở hàng người ta
phải duy trì một tốc độ kinh tế nhằm giảm giá thành vận tải
-Vận tải biển chịu tác động của điều kiện thiên nhiên như: mưa,
bão, lũ lụt, sóng thần, vì quãng đường di chuyển dài lại qua nhiều
vùng khí hậu rất khác nhau. Các yếu tố thiên nhiên diễn ra không tuân
theo một quy luật nhất định nào. Vì vậy, mặc dù khoa học kỹ thuật
ngày càng phát triển và có thể dự báo thời tiết nhưng rủi ro vẫn có thể
xảy ra. Đặc biệt trong điều kiện thời tiết khí hậu hiện nay có nhiều
biến đổi bất thường, các hiện tượng thiên nhiên xảy ra ngày càng
nhiều, nhất là các cơn bão nên tổn thất hàng hải cũng dễ xảy ra hơn.
- Trong quá trình vận chuyển đôi khi rủi ro đâm ra và trục trặc
kỹ thuật do sai sót trong việc thiết kế chế tạo, bảo dưỡng tàu cũng xảy
ra. Các tàu biển hoạt động tương đối độc lập giữa vùng không gian
rộng lớn, nếu xảy ra sự cố thì có thể việc cứu hộ, cứu nạn rất khó
khăn. Mặt khác thị trường hàng hải thường rất lớn và nhất là hiện nay
số lượng tàu đưa vào khai thác nhiều, trọng tải tàu ngày càng lớn và
giá trị hàng hoá ngày càng cao,cho nên nếu rủi ro xẩy ra tổn thất là
khôn lường.
- Đường vận tải dài nên các tàu phải dừng chân ở nhiều cảng
khác nhau thuộc các quốc gia khác nhau, do đó bị ảnh hưởng bởi các
chính sách pháp luật của quốc gia đó. Nhất là quốc gia có chiến tranh,
đình công quan hệ ngoại giao không tốt đối với quốc gia sở hữu tàu
hoặc hàng hoá chuyên chở trên tàu.
- Người chuyên chở cũng có thể gây ra tổn thất cho hàng hoá do sai
sót. Tuyệt đại bộ phận các công ước về các loại hàng hoá vận chuyển
bằng đường biển và luật hàng hải các quốc gia trên thế giới, kể cả
hàng hải Việt Nam, đều cho phép người chuyên chở giới hạn trách
nhiệm bồi thường. Vì vậy, các nhà xuất nhập khẩu không bù đắp được
thiệt hại thực tế xảy ra.
Để kịp thời khắc phục những rủi ro, tổn thất, một mặt người ta ngày
càng hiện đại hoá, nâng cao chất lượng các đội tàu, mặt khác phải tiêu
đến một biện pháp hữu hiệu để giải quyết các thiệt hại bằng bù đắp
kinh tế, đó là thông qua bảo hiểm - hình thức phân tán rủi ro theo
nguyên lý cộng đồng.
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã ra đời từ rất sớm, được thừa
nhận, được ủng hộ và phát triển không ngừng. Đến nay, bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã có bề dày
lâu năm và mặc nhiên trở thành tập quán thương mại quốc tế trong
hoạt động ngoại thương.
1.2 Tổng quan về ngành vận tải biển
Như chúng ta đã biết, ngành vận tải đường biển muốn phát triển, thì
trước hêt phải tập trung phát triển đội tàu và cảng biển,vì đây là hai
nhân tố không thể thiếu được trong một ngành vận tải biển.
1.2.1 Đội tàu biển:
Tàu biển là ph ư ơng tiện chuyên chở hàng hoá và hành khách bằng
đường biển. Trong phạm của bài viết này chúng ta nghiêm cứu vai trò
của tàu biển dưới góc độ chuyên chở hàng hoá ngoại thương giữa các
quốc gia. Như chúng ta đã biết, thương mại hàng hoá giữa các quốc
gia ngày càng phát triển, đồng nghĩa với việc vận chuyển hoàng hoá
ngoại thương cũng phát triển theo. Có nhiều phương tiện được dùng
để vận chuyển hàng hoá trong đó có tàu biển. Từ những lợi ích và vai
trò trên của vận tải đường biển, chúng ta cũng có thể thấy rằng tàu
biển có vai trò rất quan trọng trong vận tải đường biển. Không có tàu
biển thì không thể có vận tải bằng đường biển.
1.2.2 Cảng biển:
Cảng biển là nơi ra vào, neo đậu của tàu biển, là nơi phục vụ tàu bè và
hàng hoá, là đầu mối giao thông quan trọng của một nước.
Cảng biển có hai chức năng:
Phục vụ tàu biển: Cảng là nơi ra vào, neo đậu của tàu, là nơi
cung cấp các dịch vụ đưa đón tàu ra vào, lai dắt, cung ứng dầu mỡ,
nước ngọt, vệ sinh, sửa chữa tàu….
Phục vụ hàng hoá: Cảng phải làm nhiệm vụ xếp dỡ, giao nhận chuyển
tải, bảo quản, lưu kho, tái chế, đóng gói, phân phối hàng hoá xuất,
nhập khẩu. Cảng còn là nơi tiến hành các thủ tục xuất nhập khẩu, là
nơi bắt đầu, tiếp tục hoặc kết thúc quá trình vận tải….
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển của cảng biển trong phạm vi
trách nhiệm
Phối hợp hoạt động của các tổ chức, cơ quan thực hiện chức năng
quản lý nhà nước chuyên ngành tại cảng biển
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về đảm
bảo an toàn cảng và luồng ra vào cảng
Phối hợp với các cơ quan thực hiện các hoạt động tìm kiếm cứu nạn
hoặc xử lý sự cố ô nhiễm môi trường
Cấp giấy phép cho tàu ra vào cảng và thực hiện các yêu cầu về bắt
giữ, tạm giữ hàng hải
Yêu cầu các cá nhân, các cơ quan hữu quan cung cấp các thông tin, tài
liệu để thực hiện chức năng quản lý nhà nước của cảng
Cảng biển có các loại: Cảng thương mại, cảng quân sự, cảng cá, cảng
dầu, cảng hoá chất, cảng container
Trang thiết bị phục vụ tàu ra vào, neo đậu gồm: cầu tàu, luồng
lạch, kè, đạp chắn sóng, phao, trạm hoa tiêu, hệ thống thông tin, tín
hiệu…..
Trang thiết bị phục vụ vận chuyển, xếp dỡ hàng hoá gồm: cần
cẩu các loại, xe nâng hàng, máy bơm hút hàng rời, hàng lỏng, băng
chuyền, ô tô, đầu máy kéo, chassis, container, pallet…
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ bảo quản, lưu kho hàng hoá
gồm: Hệ thống kho, bãi, kho ngoại quan, bể chứa dầu, CY, CFS….
Thiết bị phục vụ việc điều hành, quản lý tàu bè và hàng hoá
gồm: hệ thống thông tin, tín hiệu, máy vi tính….
Để đánh giá một cảng hoạt động tốt hay không tốt, hiện đại hay không
hiện đại phải căn cứ vào các chỉ tiêu sau:
Số lượng tàu hoặc tổng dung tích đăng ký (GRT) hoặc trọng tải
toàn phần (DWT) ra vào cảng trong một năm. Chỉ tiêu này phản ánh
độ lớn, mức độ nhộn nhịp của một cảng
Số lượng tàu có thể tiến hành xếp dỡ trong cùng một thời gian, khối
lượng hàng hoá xếp dỡ trong một năm. Chỉ tiêu này phản ánh độ lớn,
mức độ hiện đại, năng suất xếp dỡ của một cảng
Mức xếp dỡ hàng hoá của cảng, tức là khả năng xếp dỡ hàng hoá
của cảng, thể hiện bằng khối lượng từng loại hàng hoá mà cảng có thể
xếp dỡ trong một ngày của tàu. Chỉ tiêu này nói lên mức độ cơ giới
hoá, năng lực xếp dỡ của một cảng
Khả năng chứa hàng của kho bãi cảng. Chỉ tiêu này thể hiện
bằng số diện tích (m2) cảu kho bãi cảng, bãi container (CY) trạm giao
nhận đóng gói hàng lẻ (CFS)… phản ánh mức độ lớn của cảng
Chi phí xếp dỡ hàng hoá, cảng phí, phí lai dắt, hoa tiêu, cầu bến,
xếp dỡ container (THC)… phản ánh năng suất lao động, trình độ quản
lý của cảng
Theo quan điểm truyền thống, cảng biển là đầu mối giao thông, nơi
thực hiện các thao tác xếp dỡ hàng hóa từ phương thức vận tải biển
sang phương thức vận tải khác và ngược lại.
Vai trò cơ bản của cảng biển là xếp dỡ hàng hóa, hỗ trợ cho công tác
xuất nhập khẩu với tư cách là bộ phận cơ sơ hạ tầng của quốc gia.
Theo quan điểm hiện đại, cảng biển muốn hoạt động tốt phát huy hết
khả năng của mình cần phải có mặt bằng,cơ sở vật chất lớn để phục vụ
cho tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, ngoài vai trò xếp
dỡ, trung chuyển đơn giản và logistic tạo giá trị gia tăng cảng biển còn
có vai trò chuỗi kinh doanh nên hoạt động của nó gắn liền với hoạt
động của khu kinh tế mở, khu thương mại tự do, khu chế xuất...
Cảng biển đã lưu chuyển toàn bộ khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu,
phục vụ các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp góp phần tăng
trưởng GDP.
Nhờ dự báo nhu cầu hàng hóa tương đối phù hợp với thực tế nên
chúng ta đã đưa ra được thứ tự ưu tiên hợp lý, đầu tư nâng cấp, sửa
chữa và xây dựng mới cảng biển. Nhưng năm qua nước ta không xảy
ra tình trạng hàng hóa bị ứ đọng hoặc tàu phải xếp hàng chờ cập bến ở
các cảng.Việc quy hoạch các cảng hợp lý, khoa học hệ thống bốc dỡ
nhanh chóng thuận tiện co sức hấp dẫn các nhà xuất , nhập khẩu trong
và ngoài nước.
Trong từng khu vực ngoài các cảng tổng hợp chủ lực mang chiến lược
quốc gia, chúng ta còn có các cảng vệ tinh để hỗ trợ cho hoạt động
vận tải biển nói chung và giải quyết các nhu cầu hàng hóa phục vụ cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào quản
lý và khai thác các cảng biển đã phát huy tác dụng đạt hiệu quả
cao.Năng lực các nhà xây dựng các nhà thầu trong nước không ngừng
dược đổi mới nâng cấp.Đội ngũ cán bộ sử dụng và vận hành cảng biển
ngày một hoàn thiện.
1.2.3 Các dịch vụ vận tải biển
1.2.3.1 Dịch vụ kinh doanh khai thác tàu
Trong mỗi quốc gia có biển hay không có biển, người ta đều có thể
xây dựng đội tàu vận tải biển thuộc các loại hình sở hữu khác nhau để
tiến hành vận chuyển hàng hoá, hành khách cho quốc gia mình hay đi
chở thuê cho các nước khác với mục đích kinh doanh thu lợi nhuận,
tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Hình thức sở hữu tàu, hình thức tổ
chức công ty và phương thức kinh doanh tàu rất khác nhau tại các
quốc gia khác nhau. Sự khác nhau này là do hệ thống pháp luật và
điều kiện địa lý, tự nhiên của quốc gia đó quyết định. Tuy có sự khác
nhau nhưng vì kinh doanh khai thác tàu vận tải biển mang tính quốc tế
cao nên có những đặc điểm chung, sản xuất kinh doanh khai thác tàu
mang tính toàn cầu, phạm vi sản xuất rộng, quá trình sản xuất kinh
doanh liên quan đến hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia riêng rẽ và
chịu sự chi phối của các công ước quốc tế, liên quan đến thương mại,
đến biển và kinh doanh vận tải biển.
Trong kinh doanh khai thác tàu vận tải biển, nếu phân chia theo đối
tượng vận tải biển, thì các tàu vận tải biển chia thành 3 loại: tàu hàng,
tàu khách, tàu vừa chở hàng vừa chở khách. Cách thức tổ chức khai
thác các loại tàu mặc dù có những điểm chung nhưng vẫn có những
điểm khác nhau
Căn cứ vào cách thức tổ chức chuyến đi ( hình thức tổ chức chạy tàu)
của các tàu vận tải biển mà người ta chia hoạt động của đội tàu thành
2 loại: vận chuyển theo hình thức tàu chuyến, và vận chuyển theo hình
thức tàu chợ
Đặc trưng cơ bản trong ngành vận tải biển hiện nay là ngoài những
tuyến vận tải thường xuyên, được tổ chức theo hình thức khai thác tàu
chợ, do có những lượng hàng hoá không lớn vẫn xuất hiện trong thị
trường vận tải, nên hình thức vận tải tàu chuyến rất phù hợp đối với
những nước đang phát triển, kém phát triển, đội tàu biển nhỏ bé, hệ
thống cảng chưa phát triển
Ưu điểm của hình thức khai thác tàu chuyến là linh hoạt, thích hợp với
vận chuyển hàng hoá không thường xuyên và hàng hoá xuất nhập
khẩu, tận dụng được hết trọng tải của tàu lúc chở hàng trong từng
chuyến đi có hàng. Nếu tổ chức tìm hàng tốt thì hình thức khai thác
tàu chuyến là hình thức khai thác có hiệu quả không kém gì so với
hình thức khai thác tàu chợ
Vận tải tàu chợ là hình thức phát triển cao hơn và hoàn thiện hơn của
hình thức vận tải tàu chuyến. Đặc trưng quan trọng của hình thức tàu
chợ là: tàu hoạt động cố định, chuyên tuyến giữa các cảng xác định:
theo lịch vận hành được công bố từ trước.
Căn cứ theo dạng vận chuyển, hoạt động của đội tàu vận tải biển được
chia thành: vận chuyển đường biển riêng rẽ, vận chuyển đa phương
thức, vận chuyển biển pha sông, vận chuyển sà lan trên các tàu mẹ
trên sông
Các loại tàu tham gia vận chuyển bao gồm: Tàu chở container, tàu
dầu, tàu chở hàng rời, đổ đống, tàu mẹ chở sà lan, tàu hàng khô, tổng
hợp
Do xu hướng container hoá trong vận tải, hiện nay trong lĩnh vực kinh
doanh khai thác tàu, vận tải biển đã và đang hình thành các công ty đa
quốc gia, với các chức năng kinh doanh tổng hợp-vận chuyển
container, xếp dỡ container và dich vụ hàng hải phục vụ cho việc vận
chuyển container. Chức năng kinh doanh vận chuyển hàng hoá, hành
khách chỉ là một mắt xích trong dây chuyền kinh doanh của các công
ty này. Các công ty đa quốc gia có thể liên kết lại với nhau thành hiệp
hội để độc quyền và cạnh tranh với các công ty khác. Tính chất cạnh
tranh trong lĩnh vực khai thác tàu biển diễn ra trên quy mô toàn cầu và
ngày càng quyết liệt. Hiệp hội tàu chợ hình thành nhằm mục đích cải
thiện tình trạng kinh tế của từng thành viên trong hội và hạn chế hoặc
loại trừ sự cạnh tranh giữa các thành viên cùng tham gia vận chuyển
trên cùng tuyến tàu chợ thông qua việc thoả thuân bảng cước tàu chợ
trên tuyến. Hiện nay đa số các quốc gia miễn trừ cho ngành vận tải
biển khỏi việc áp dụng luật chống độc quyền
1.2.3.2 Dịch vụ kinh doanh khai thác cảng
Theo điều 57 Bộ luật hàng hải Việt Nam thì cảng biển là cảng được
mở ra để tàu biển ra, vào hoạt động
Theo định nghĩa của quy chế Gionevơ ngày 9/12/1923 thì những cảng
thường thường có tàu biển ra vào và dùng cho ngoại thương được gọi
là cảng biển. Như vậy chỉ những cảng nào có tàu biển ra vào thường
xuyên và dùng cho buôn bán đối ngoại mới được gọi là cảng biển
Cảng biển là một bộ phận lãnh thổ quốc gia, thuộc chủ quyền hoàn
toàn của quốc gia ven biển, có cơ chế pháp lý như nội thuỷ
Theo quan điểm truyền thống, nhiệm vụ chính của cảng là xếp dỡ
hàng hoá. Hiện nay các lĩnh vực kinh doanh khai thác của cảng được
mở rộng, ngoài việc xếp dỡ hàng hóa, cảng còn thực hiện các công
việc khác: thay mặt chủ tàu, chủ hàng làm nhiều dịch vụ khác liên
quan đến hàng hóa như phân phối và giám sát việc vận chuyển hàng
hóa đến tận người tiêu dùng cuối cùng- chở thành trung tâm hậu cần.
1.2.3.3 Kinh doanh dịch vụ hàng hải
Quá trình vận chuyển hàng hóa bằng đường biển từ nơi gửi tới nơi
nhận, ngoài quá trình vận chuyển, xếp dỡ còn có quá trình phục vụ
cho cả hai quá trình đó. Một trong những dạng phục vụ chủ yếu là quá
trình đại lý và môi giới hàng hải.
Người đại lý là người đại diện thường trực của chủ tàu tại một cảng
hay một khu vực đại lý nhất định. Trên cơ sở hợp đồng, người đại lý
nhân danh chủ tàu tiến hành các hoạt động liên quan đến việc kinh
doanh hàng hải, bao gồm các việc thực hiện các thủ tục cần thiết liên
quan đến hoạt động của tàu tại cảng như: ký kết hợp đồng vận chuyển,
hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng bốc xếp hàng hóa, hợp đồng
cho thuê tàu, hợp đồng cho thuê thuyền viên, ký phát vận đơn hoặc
chứng từ vận chuyển hàng hóa tương đương. Thu chi các khoản tiền
liên quan đến hoạt động khai thác tàu, giải quyết tranh chấp về hợp
đồng vận chuyển hoặc về tai nạn hàng hải, những khái niệm về dịch
vụ hàng hải
Khái niệm của Việt Nam : Từ năm 1978 theo cơ chế của bộ
trưởng bộ Giao thông vận tải về quản lý hoạt động kinh doanh hàng
hải tại Việt Nam thì ngành dịch vụ hàng hải ở nước ta được bao gồm
các loại hình sau:
Dịch vụ đại lý tàu biển: là hoạt động thay mặt chủ tàu nước
ngoài thực hiện các dịch vụ đối với tàu và hàng tại Việt Nam
Dịch vụ kiểm đếm hàng hóa và vận chuyển đường biển: là hoạt
động kinh doanh thay mặt khách hàng kiểm đếm số lượng hàng hóa
thực tế khi giao hoặc nhập với tàu, các phương tiện vận tải khác, khi
xuất hoặc nhập kho, bãi cảng; khi xếp/ dỡ hàng hóa trong container
Dịch vụ giao nhận hàng hóa vận chuyển bằng đường biển là hoạt
động kinh doanh thay mặt khách hàng tổ chức thiết kế, bố trí thu xếp
các thủ tục giấy tờ, chứng từ liên quan đến việc giao, nhận, lưu kho,
lưu bãi, thu gom và ký phát hàng hóa.
Dịch vụ môi giới hàng hải là hoạt động kinh doanh môi giới cho
khách hàng các việc liên quan đến hàng hóa và phương tiện vận tải
biển, mua bán tàu, bảo hiểm hàng hải, lai giắt, thuê thuyền viên...
Dịch vụ cung ứng tàu biển: là hoạt động kinh doanh cung ứng cho tàu
lương thực, thực phẩm cũng như các dịch vụ đối với thuyền viên...
Dịch vụ sửa chữa nhỏ tàu biển: là hoạt động kinh doanh thực hiện cạo
hà, gõ gỉ, sơn, bảo dưỡng, sửa chữa các thiết bị động lực, thông tin,
đường nước, ống hơi, hàn vá những mớn nước trở lên và các sửa chữa
nhỏ khác
Thời gian gần đây Bộ GTVT dự thảo quy chế mới về quản lý hoạt
động dịch vụ hàng hải, theo quy chế mới này, các dịch vụ hàng hải sẽ
bao gồm: dịch vụ đại lý tàu biển và môi giới hàng hải; dịch vụ lai giắt
tàu biển; dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa đường biển; dịch vụ cung ứng
tàu biển; dịch vụ giao nhận và kiểm đếm hàng hóa; dịch vụ sửa chữa
nhỏ tàu biển tại cảng; dịch vụ vệ sinh môi trường, dịch vụ xếp dỡ hàng
hóa tại cảng
Khái niệm của thế giới: Phạm trù dịch vụ hàng hải của thế giới được
trải rộng hơn và đa dạng hơn. Theo tổng kết ta có thể thấy những loại
hình sau đây của dịch vụ hàng hải đang được thực thi trên thế giới:
dịch vụ đại lý tàu biển’ dịch vụ môi giới thuê tàu, tìm hàng cho tàu;
dịch vụ mua bán tàu; dịch vụ môi giới thuê thuyền viên, dịch vụ kiểm
đếm hàng hóa bằng đường biển, dịch vụ giao nhận hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển, dịch vụ cung ứng tàu biển bao gồm cung cấp
vật tư, thực phẩm cho tàu, cung cấp nhiên liệu nước ngọt, chăm lo
thuyền viên. Dịch vu thu gom dầu thô, vệ sinh công nghiệp trên tàu,
vệ sinh môi trường biển, dịch vụ cứu hộ hàng hải, dịch vụ thông tin
hàng hải cho tàu, dịch vụ đại diện cho hội bảo hiểm P&I, dịch vụ tư
vấn hàng hải, dịch vụ cho thuê phương tiện, cảng trung chuyển, dịch
vụ khách hàng bằng đường biển
1.3 Tình hình vận tải biển trên thế giới
1.3.1 Xu hướng thương mại hàng hoá trên thế giới
Vai trò quan trọng của ngành hàng hải đối với sự phát triển của nền
kinh tế quốc gia và thế giới đã được nhiều công trình nghiên cứu và
thực tế phát triển của các quốc gia từ trước đến nay đã và đang khẳng
định, Ngược lại ngành vận tải biển lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của sự
phát triển nền kinh tế thế giới, Trong hai thập kỷ vừa qua những biến
động sau đây đã tác động đến tình hình phát triển chung của ngành
hàng hải
Thứ nhất là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế của thế giới, sự thay đổi thể
hiện qua những yếu tố sau đây: sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
XHCN ở Đông Âu, chính yếu tố này khiến sự xuất hiện và phát triển
của kinh tế thị trường ở nước này. Do vậy. thị trường của các ngành
vận tải. trong đó có cảng biển được mở rộng.
Yếu tố thứ hai là xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của
các quốc gia mà trước hết là sự củng cố và lớn mạnh của khối thị
trường chung Châu âu, với sự hiện và lưu hành đồng tiền chung Euro
của khối này. Sau đó là sự phát triển nhanh chóng của các khối kinh tế
khác tại các khu vực khác nhau trên toàn châu lục
Xu thế thứ 3 là sự phát triển thần kỳ của khu vực Đông Nam Châu Á.
với sự xuất hiện của 4 nước công nghiệp mới đã biến khu vực này
thành khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới trong
những năm 80 và đầu những năm 90, Một trọng những nguyên nhân
của việc tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia này là chiến lược kinh tế
lấy xuất khẩu làm động lực chính cho phát triển kinh tế. Bên cạnh đó,
xu thế dịch chuyển các ngành công nghiệp lắp ráp từ các nước công
nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển, nơi có nguồn nhân
công dồi dào và chi phí thấp hơn đó là các nước: Singapore, Hồng
Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Và hiện nay sự dịch chuyển này đang
được lặp lại nhưng lại từ các nước đang phát triển sang các nước phát
triển thấp hơn (Việt Nam, Lào…)Chính xu thế này cùng với sự phát
triển kinh tế đã khiến ngoại thương phát triển nhanh chóng
Xu thế thứ tư là sự phát triển nhanh chóng, với cường độ cao của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin,
khiến cho việc toàn cầu hoá về kinh tế, kỹ thuật và tài chính phát triển
nhanh chóng hơn và được củng cố vững chắc hơn, cơ hội về thị
trường kinh doanh cho các ngành, các lĩnh vực của các quốc gia cũng
phát triển và mở rộng hơn
Từ những năm xa xưa khi ngành Hàng hải chưa ra đời, người chủ tàu
vừa thà thuyền trưởng, vừa làm nhiệm vụ khai thác, quản lý con tàu,
vừa làm nhiệm vụ lái con tàu đó đi đến đích, tự lo liệu mọi dịch vụ
cung ứng, bốc xếp….xoay quanh con tàu
Vận tải biển ngày càng phát triển , ông chủ không phải chỉ là chủ của
một con tàu, mà là chủ của nhiều con tàu cùng khai thác vận tải trên
nhiều tuyến đường, đến nhiều bến cảng khác nhau, do vậy người chủ
không thể quản lý được tất cả các con tàu của mình nữa, mà phải nhờ
tới những cộng tác viên khác tại các cảng mà tàu đến – đó là các đại lý
và dịch vụ hàng hải cho tàu, thay mặt cho chủ tàu để thực hiện các
nhiêm vụ xung quanh hoạt động khai thác con tàu. Ngành dịch vụ
hàng hải ra đời từ đó
Đầu thế kỷ 20 vào năm 1905 tại COPENHAGEN (Đan Mạch), Hiệp
hội hàng hải vùng Baltic và thế giới (BIMCO) đã ra đời. Nó là tổ chức
quốc tế không những của các chủ tàu thế giới mà còn của những người
đại lý và môi giới hàng hải
FIATA là hiệp hội của những người làm đại lý giao nhận vận tải,
trong đó có làm dịch vụ hàng hải cũng ra đời vào năm 1926, là tổ chức
quốc tế của những người làm nghề đại lý vận tải trên toàn thế giới và
những người làm nghề nghiệp này ngày càng chứng minh không thể
thiếu nó trong các công đoạn của công nghệ hàng hải toàn cầu
Năm 1969, tổ chức hàng hải FONNASBA đã ra đời. Đó là hiệp hội
của tất cả những người hành nghề đại lý và môi giới của các quốc gia
trên thế giới
Ngày nay, trong những năm chuyển giao của thiên niêm kỷ mới, cũng
như sự phát triển của tất cả các ngành công nghiệp trên thế giới, với sự
áp dụng của khoa học kỹ thuật mới, ngành vận tải biển cũng có những
thay đổi đáng kể về mặt công nghệ cũng như năng lực. Song song với
sự phát triển của vận tải biển, ngành dịch vụ hàng hải cũng có những
điều chỉnh và đổi mới hình thức hoạt động
Năm 2009 chúng ta đã chứng kiến sự suy thoái kinh tế lớn nhất trên
toàn cầu trong suốt bảy thập kỷ gần đây, cũng như sự suy giảm về
- Xem thêm -