Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
MỞ ĐẦU
Ngày nay hoạt động xuất khẩu giữ vai trò hết sức quan trọng
trong hoạt động thương mại của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế
của mình trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu lợi nhuận
quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tạo công ăn
việc làm cho người dân.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa
chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền
đề vững chắc để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới. Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010, Đảng và
Nhà nước ta đã nêu rõ: “Chúng ta phải tiến hành xây dựng một nền
kinh tế mở cửa theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả”.
Dựa trên những điều kiện thuận lợi về đất đai, khí hậu và một
nền kinh tế nông nghiệp lâu đời với trên 70% dân số tham gia sản
xuất nông nghiệp, nông sản là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của
Việt Nam, chiếm khoảng 30% cơ cấu xuất khẩu, tạo nguồn thu
ngoại tệ đáng kể hàng năm. Hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu
không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng dần dần biến
Việt Nam thành một quốc gia xuất khẩu nông sản lớn. Đảng và Nhà
nước ta đã kịp thời đề ra những biện pháp chính sách cụ thể nhằm
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các Công ty kinh doanh
xuất khẩu nông sản có thể nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
của mình cũng như uy tín của Việt Nam trên thị trường nông sản
thế giới.
Mặt hàng nông sản là một trong những mặt hàng được Công
ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu của mình. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển, Công ty
đã tìm ra cho mình một hướng đi đúng trong hoạt động xuất khẩu
nông sản đặc biệt trong tình hình kinh tế trong nước và thế giới hiện
nay có nhiều biến động lớn và Công ty đã gặt hái được những thành
công nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được,
Công ty vẫn còn không ít khó khăn cần phải khắc phục để đẩy mạnh
xuất khẩu mặt hàng truyền thống, có ưu thế này của Việt Nam. Vì
vậy, đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu nông sản tại Công ty XNK Tổng hợp I” được chọn để
nghiên cứu. Đề tài khẳng định được vị trí quan trọng của hoạt động
kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản đối với nền kinh tế quốc dân,
phân tích đánh giá thực trạng kinh doanh xuất khẩu nông sản của
Công ty XNK Tổng hợp I. Trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp
nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty.
Đề tài gồm 3 chương lớn với các nội dung sau:
Chương I: Mặt hàng nông sản và vai trò của xuất khẩu
nông sản đối với nền kinh tế Việt Nam.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản tại
Công ty XNK Tổng hợp I.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
Chương III. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu nông sản của Công ty.
Do còn hạn chế về kiến thức cũng như hiểu biết thực tế, bản
báo cáo này không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu từ các thầy cô giáo, các cô các
chú cán bộ trong Công ty cũng như các bạn sinh viên quan tâm.
CHƯƠNG I
MẶT HÀNG NÔNG SẢN VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
I. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU NÔNG SẢN ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ QUỐC DÂN.
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu và vai trò của nó đối với nền
kinh tế quốc dân.
1.1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu:
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ vượt qua biên giới
quốc gia trên cơ sở dùng tiền tệ làm đơn vị thanh toán. Tiền tệ ở đây
có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc đối với cả hai quốc gia.
Xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, đã xuất
hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế
của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu
ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh
vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại hàng hoá khác nhau. Phạm
vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian.
1.2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối và lưu thông
hàng hoá trong quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên
kết giữa sản xuất và tiêu dùng giữa nước này với nước khác. Vai trò
của xuất khẩu được thể hiện qua các điểm sau:
1.2.1. Xuất khẩu là phương tiện chính tạo nguồn vốn cho
nhập khẩu phụcvụ CNH - HĐH đất nước.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
Nhiệm vụ trọng tâm cơ bản của Việt Nam trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2002 là: phát triển kinh tế và
đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước.
Để tiến hành CNH - HĐH thì cần phải có đủ 4 nhân tố ngân
lực, tài nguyên, nguồn vốn và kỹ thuật. Nhưng hiện nay, không phải
bất cứ quốc gia nào cũng có đủ các yếu tố đó đặc biệt là các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Để CNH - HĐH trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số
vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật,công nghệ tiến
tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn
như:
- Đầu tư nước ngoài.
- Vay nợ, viện trợ.
- Thu từ hoạt động du lịch, dịchvụ thu ngoại tệ.
- Xuất khẩu hàng hoá.
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ
hoạt động du lịch và dịch vụ thu ngoại tệ… tuy quan trọng nhưng
rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Chẳng
hạn như, nguyên tắc nhận vốn từ nước ngoài là phải trả bằng sản
phẩm hoặc phải chia sẻ tài nguyên thiên nhiên cho bên kia. Đặc biệt
trong thời gian gần đây, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
Châu Á, hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam giảm sút nhanh
chóng cả về số lượng dự án và số vốn đầu tư. Nguồn vốn quan trọng
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
nhất để nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước chính là xuất
khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Ở nước ta, thời kỳ 1986 – 1990, nguồn thu về xuất khẩu bằng
3/4 tổng nguồn thu ngoại tệ. Và thu về xuất khẩu năm 1994 đảm
bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6 năm 1986.
1.2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hiện nay, do thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang
thay đổi một cách vô cùng mạnh mẽ. Các nước phát triển ngày càng
tập trung vào sản xuất những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao
và ít ô nhiễm môi trường. Các nước công nghiệp mới (NICs) đang
phấn đấu đuổi kịp các nước phát triển và đã có nhiều ngành vượt.
Các nước Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam ) có cơ cấu kinh tế
ngày càng thay đổi một cách mạnh mẽ theo chiều hướng gắn nền
kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu, thu
hút vốn và công nghệ từ nước ngoài.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá
phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối
với Việt Nam.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản
xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là: xuất khẩu chỉ là tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản
xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu
dùng và nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu
vẫn cứ nhỏ bé.
Hai là: trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước mình, coi thị
trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ
chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu thị trường thế
giới kết hợp với tiềm năng, thực lực của đất nước để tổ chức sản
xuất, hình thành các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu. Những
ngành kinh tế đó phải có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để hàng
hoá khi tham gia thị trường thế giới có đủ sức cạnh tranh và mạng
lại lợi ích cho quốc gia. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đó là:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát
triển thuận lợi.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào
cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các cuộc cạnh tranh này đòi hỏi
chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất thích
nghi được với thị trường .
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
Như vậy, theo cách hiểu này, xuất khẩu được coi là giải pháp
làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo chiều
hướng có lợi hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn.
1.2.3. Xuất khẩu tác động tích cực dến giải quyết công ăn việc
làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống của người dân bao gồm
rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng
triệu lao động vào làm việc với thu nhập khá. Xuất khẩu còn tạo ra
nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời
sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu người dân.
1.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt
động kinh tế đối ngoại của nước ta.
Quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể các mối quan hệ về
thương mại, kinh tế và khoa học kỹ thuật giữa một quốc gia này với
một quốc gia khác. Các hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế là
xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình, đầu tư quốc tế, du lịch dịch vụ,
xuất khẩu sức lao động, hợp tác khoa học kỹ thuật, hợp tác sản xuất,
hợp tác tài chính.
Xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại,
là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đẩy mạnh xuất khẩu
được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để thực hiện công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước. Hiện nay Nhà nước đã và đang thực hiện
các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu (tất
nhiên không coi nhẹ sản xuất trong nước và thị trường trong nước),
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
khuyến khích tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc
làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
1.3. Vai trò của xuất khẩu đối với Công ty XNK Tổng hợp I.
Ở tầm Công ty nói chung, hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa rất
quan trọng. Thực chất nó là hoạt động bán hàng của các Công ty
xuất nhập khẩu và lợi nhuận từ hoạt động này góp phần quyết định
sự tồn tại và phát triển của Công ty. Lợi nhuận là nguồn bổ sung vào
nguồn vốn kinh doanh, các quỹ của Công ty, lợi nhuận cao cho phép
Công ty đẩy mạnh tái đầu tư vào tài sản cố định, tăng nguồn vốn lưu
động để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu, giúp Công ty ngày
càng mở rộng và phát triển.
Xuất khẩu hàng hoá còn có vai trò nâng cao uy tín của Công
ty trên trường quốc tế. Nó cho phép Công ty thiết lập được các mối
quan hệ với nhiều bạn hàng ở các nước khác nhau và sẽ rất có lợi
cho Công ty nếu duy trì tốt mối quan hệ này. Để có được điều này
Công ty, ngược lại phải đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng về
giá cả, chất lượng hàng hoá, phương thức giao dịch, thanh toán,...
Xuất khẩu ngày nay luôn gắn liền với cạnh tranh do vậy đòi
hỏi các Công ty phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý
sản xuất, kinh doanh... sao cho phù hợp với tình hình thực tế để hoạt
động đạt hiệu quả cao. Kết quả của hoạt động xuất khẩu sẽ cho phép
Công ty tự đánh giá được về đường lối chính sách, cách thức thực
hiện của mình để có những điều chỉnh phù hợp giúp Công ty phát
triển đi lên.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I cũng không đi ngược lại
quy luật chung này. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh chính của
Công ty, tạo nên doanh thu và lợi nhuận hàng năm. Trong đó, đặc
biệt phải kể đến hàng nông sản là một trong những nhóm mặt hàng
xuất khẩu quan trọng, đóng góp trên 30% vào tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng năm của Công ty. Kết quả xuất khẩu nông sản còn có ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động xuất khẩu nói chung.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế
quốc dân.
Việt Nam là nước có truyền thống lâu đời về sản xuất nông
nghiệp. Kinh nghiệm trồng lúa nước và các công nông sản được
truyền từ lớp người này sang lớp người khác, từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Và đây được coi là một lợi thế lớn mà không phải bất cứ
nước nào cũng có được ngay cả một số nước sản xuất nông nghiệp
trong khu vực như Thái Lan, Ấn Độ, Myanma,. Hơn thế nữa lực
lượng lao động tham gia vào lĩnh vực này chiếm tỷ lệ cao nhất
(>70% dân số). Với cơ cấu dân số trẻ, đặc điểm nổi bật của lao động
Việt Nam là cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo và tiếp thu khoa
học kỹ thuật công nghệ nhanh mà giá nhân công lại thuộc loại rẻ
trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, sản xuất và xuất khẩu nông
sản có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, có
thể nói là quan trọng hơn hết bởi vì:
- Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu
như Việt Nam thì xuất khẩu chủ yếu dựa vào các sản phẩm có sẵn
trong nước (chủ yếu do lao động thủ công tạo ra) và những sản
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
phẩm thô chưa qua chế biến hoặc chỉ qua sơ chế, đó là các mặt hàng
nông sản.
- Xuất khẩu hàng nông sản đã phần nào đáp ứng được mục
tiêu phát huy lợi thế so sánh của nông nghiệp nước ta trên trường
quốc tế. Xuất khẩu nông sản chẳng những góp phần đáng kể vào
tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá mà còn có ý nghĩa quan trọng
trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho nông dân, tăng thu nhập
cho bà con, từ đó tăng sức mua của dân cư trong thị trường nông
thôn rộng lớn với hơn 80% dân số, góp phần duy trì tốc độ tăng
trưởng công nghiệp ở mức 2 con số, giảm bớt nhập siêu, giảm bớt
căng thẳng trong cán cân thanh toán cũng như nhu cầu ngoại tệ…
- Xuất khẩu nông sản sẽ khai thác được tối đa lợi thế của Việt
Nam về điều kiện khí hậu, tài nguyên đất, nước; nguồn nhân lực…
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc
của vùng cận xích đạo. Do vị trí địa lý trải dài từ Bắc vào Nam nên
khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ ràng giữa các vùng,
với mùa động lạnh ở Miền Bắc, khí hậu kiểu Nam Á ở Tây nguyên,
Đông Nam Bộ ở đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều kiện
thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây nông sản. Thêm vào
đó tiềm năng nhiệt, ẩm và gió khá dồi dào và phân bố tương đối
đồng đều trong cả nước.Với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn,
tài nguyên nhiệt phong phú. Độ ẩm tương đối trong năm hơn 80%,
lượng mưa lớn trung bình là 2000 mm - 2500 mm/năm. Đây là điều
kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của nhiều loại cây
trồng là đối với lúa nước, cao su, càphê. ..
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
Tiềm năng đất nông nghiệp của cả nước là 10 – 11,157 triệu
ha. Hiện nay Việt Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất nông
nghiệp trong đó đất trồng cây là 5,6 triệu ha, gần 8 triệu ha cây
trồng (riêng trồng lúa chiếm khoảng 5,4 triệu ha và 2,3 triệu cây
trồng lâu năm) ngoài ra là 33 vạn ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha
mặt nước. Số đất có thể mở rộng thêm phần lớn là đất dốc dễ bị xói
mòn, thoái hoá, diện tích đất này ở vùng miền núi Bắc Bộ chiếm
khoảng 45% tổng diện tích, ở vùng khu 4 cũ khoảng 35% tổng diện
tích, vùng núi khu 5 khoảng 45%, vùng tây nguyên khoảng 76% và
vùng đồng bằng Nam Bộ khoảng 34%.
II. THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN THẾ GIỚI VÀ ĐẶC ĐIỂM
MẶT HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU.
1. Thị trường nông sản thế giới.
Mặt hàng nông sản đã, đang và sẽ là những mặt hàng có nhu
cầu lớn trên thị trường thế giới do tính chất đặc sản của nó. Chỉ có
những nước có khí hậu nhiệt đới như Việt Nam và một số nước
khác ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh mới có điều kiện sản
xuất tốt.
Thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản chủ yếu là thị
trường các nước phát triển vào bậc cao trên thế giới như Anh, Mỹ,
Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản… và đây là những quốc gia có khả năng
thanh toán cao. Hiện nay, các quốc gia này có sự thay đổi trong cơ
cấu tiêu dùng hàng nông sản: đó là việc chuyển sang dùng sản phẩm
nông sản hữu cơ (các sản phẩm được sản xuất từ thiên nhiên, không
sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón) bởi đây cũng là những nước thực
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
sự quan tâm đến sức khoẻ người dân. Những nước xuất khẩu nông
sản lớn trên thế giới (Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ, Pháp) đang hết
sức quan tâm đến vấn đề này.
Thị trường xuất khẩu nông sản hiện nay của Việt Nam có
nhiều thay đổi. Trước đây thị trường chủ ỷếu của ta là các nước
thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu nhưng gần đây thị trường này ngày
càng bị thu hẹp. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang khu vực này chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước nhưng đến năm 1995, con số này chỉ còn là 18%. Nguyên
nhân chính là sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
thuộc Đông Âu đã kéo theo hàng loạt các vấn đề như khủng hoảng
kinh tế, chính trị, thất nghiệp, sự xuống giá của đồng Rúp… Vấn đề
đặt ra là cần phải khôi phục và mở rộng thị trường này. Bởi theo
phân tích cơ cấu hàng nhập khẩu của các nước này thì đây là thị
trường có nhu cầu lớn và hàng Việt Nam có khả năng thâm nhập
vào thị trường này với mức độ cao. Điều đáng mừng là thị trường
các nước TBCN ngày càng được mở rộng, đặc biệt là sau khi Mỹ bỏ
cấm vận đối với Việt Nam, Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của ASEAN... thì giao lưu hàng hoá giữa nước ta và các nước
tư bản chủ nghĩa ngày càng phong phú và với quy mô lớn hơn. Thị
trường xuất khẩu nông sản chính của ta vẫn là các nước trong khu
vực Châu Á (Iran, Irắc, Malaixia, Indonesia, Philippine…), Tây Âu
và Mỹ.
Một số thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông sản của Việt
Nam là:
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
- Thị trường xuất khẩu gạo: Malaixia, Iran, Irắc, Indonesia,
Mỹ.
- Thị trường xuất khẩu cà phê: Đông Âu, Nga, Thuỵ Sĩ, Pháp,
Anh, Hàlan, Đức, Mỹ.
- Thị trường xuất khẩu hạt điều: Trung Quốc, Singapore, Ấn
Độ, Indonesia, Úc, Canada, Hồng Kông.
- Thị trường xuất khẩu chè: Nga, Anh, Đài Loan, Trung Quốc,
Irắc, Singapore.
- Thị trường xuất khẩu rau quả: EU, Nga, Mỹ, Đài Loan, Hồng
Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản.
2. Đặc điểm của mặt hàng nông sản xuất khẩu.
Nói chung, các mặt hàng nông sản thường là những hàng hoá
thiết yếu đối với đời sống của mỗi quốc gia (gạo, lạc, rau quả…).
Mặt khác, nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của các
quốc gia chậm và đang phát triển. Nó là một trong những mặt hàng
có tính chiến lược bởi vì đại bộ phận việc mua bán hàng nông sản
quốc tế được thực hiện thông qua hiệp định giữa các chính phủ,
mang tính dài hạn.
Mặt khác, tình hình buôn bán và sản xuất hàng nông sản phụ
thuộc chủ yếu vào tính thời vụ, mùa màng thu hoạch, nhu cầu và
điều kiện thanh toán của từng quốc gia.
Trên thế giới không chỉ có Việt Nam là nước xuất khẩu nông
sản mà còn có nhiều quốc gia khác tham gia. Ví dụ: Về gạo có Thái
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
Lan, Mỹ… Việt Nam đứng thứ hai sau Thái Lan về xuất khẩu gạo;
Về lạc có Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ; Về cà phê thì Việt Nam chỉ mới
tham gia vào thị trường thế giới, nguồn cung cấp chính cà phê cho
thị trường thế giới vẫn là Braxin, Colombia, Indonesia.
* Đặc điểm của mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam:
- Mặt hàng nông sản luôn là sản phẩm xuất khẩu chính của
Việt Nam. Mặt hàng này số lượng xuất khẩu tuy nhiều nhưng chất
lượng còn thấp nên giá trị thu về không cao.
+ Về mặt hàng gạo, đối với loại có phẩm cấp thấp, gạo Việt
Nam có thể cạnh tranh tốt với các nước Ấn độ, Trungquốc, Pakistan
để xuất sang các nước có thu nhập thấp hoặc nhận viện trợ. Nhưng
đối với loại có phẩm cấp cao, Việt Nam chưa thể cạnh tranh nổi với
Mỹ, Thái Lan do khâu bảo quản, phơi sấy, thiết bị đánh bóng còn
yếu.
+ Về mặt hàng cà phê, vấn đề đáng bàn cãi nhất vẫn là chất
lượng cà phê Việt Nam không đồng đều do khâu phơi sấy, phân loại
không đảm bảo. Do đó, hiện nay, Việt Nam mới chỉ có các hợp
đồng giao ngay, chưa có các hợp đồng dài hạn.
+ Về mặt hàng chè, mấy năm qua, ngành chè đã cải tiến quy
trình công nghệ, hiện đại hoá các Nhà máy chế biến, mở rộng liên
doanh để có nhiều sản phẩm phù hợp với yêu cầu của khách hàng,
đã tạo dựng được một số thị trường ổn định. Nhưng chè Việt Nam
vẫn chưa tạo dựng được uy tín thực sự trên thị trường quốc tế do
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
chè xuất khẩu không đảm bảo được chất lượng đồng đều vì nguồn
hàng cung cấp từ nhiều thành phần kinh tế.
- Giá hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn
so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác.
+ Về mặt hàng cao su: Việt Nam đã có nhiều ưu tiên trong
phát triển ngành cao su như tăng diện tích đất trồng, đưa công nghệ
tiên tiến vào khai thác mủ và chế biến, nhưng giá cao su thiên nhiên
Việt Nam lại thấp hơn 7% so với giá cao su cùng loại của Thái Lan,
Indonesia, Malaixia. So với nước xuất khẩu gạo, giá gạo Việt Nam
tương đối thấp: thấp hơn Thái Lan 15 - 20 USD/tấn, Ấn Độ 10 - 12
USD/tấn, Pakistan 12 - 15 USD/tấn.
Nguyên nhân dẫn tới điều đó chính là chất lượng hàng xuất
khẩu của ta còn thấp và phần nữa là do chúng ta chưa tạo được uy
tín, chưa tạo được “thế” của mình trên trường quốc tế.
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
TẠI CÔNG TY XNK TỔNG HỢP I.
1. Nghiên cứu thị trường, xác định mặt hàng xuất khẩu
1.1. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới
Như chúng ta đã biết thị trường là nơi gặp gỡ của cung và cầu.
Mọi hoạt động của nó đều diễn ra theo đúng quy luật như quy luật
cung, cầu, giá cả, giá trị...
Thật vậy thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với
sản xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất thì ở đó có thị trường.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
Để nắm rõ các yếu tố của thị trường, hiểu biết các quy luật vận
động của thị trường nhằm mục đích thích ứng kịp thời và làm chủ
nó thì phải nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá
thế giới có ý nghĩa quan trọng sống còn trong việc phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế, đặc biệt là công tác xuất, nhập khẩu của
mỗi quốc gia nói chung và Công ty nói riêng. Nghiên cứu và nắm
vững đặc điểm biến động của thị trường và giá cả hàng hoá thế giới
là nền móng vững chắc đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh xuất
khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu qủa nhất.
Để công tác nghiên cứu thị trường có hiệu quả chúng ta cần
phải xem xét toàn bộ quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất
hàng hoá, tức là việc nghiên cứu không chỉ trong lĩnh vực lưu thông
mà còn ở lĩnh vực phân phối, tiêu dùng.
Các Công ty khi nghiên cứu thị trường cần phải nắm vững
được thị trường và khách hàng để trả lời tốt các câu hỏi của hai vấn
đề là thị trường và khách hàng Công ty cần phải nắm bắt được các
vấn đề sau:
Thị trường đang cần mặt hàng gì?
Theo như quan điểm của Marketing đương thời thì các nhà
kinh doanh phải “bán cái mà thị trường cần chứ không phải cái
mình có”. Vì vậy cần phải nghiên cứu về khách hàng trên thị
trường thế giới, nhận biết mặt hàng kinh doanh của Công ty. Trước
tiên phải dựa vào nhu cầu tiêu dùng của khách hàng như quy cách,
chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng như tập quán
của người tiêu dùng từng địa phương, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thể giới. Về mặt
thương phẩm phải hiểu rõ giá trị hàng hoá, công dụng, các đặc tính
lý hoá, quy cách phẩm chất, mẫu mã bao gói. Để hiểu rõ vấn đề này
yêu cầu các nhà kinh doanh phải nhạy bén, có kiến thức chuyên sâu
và kinh nghiệm để dự đoán các xu hướng biến động trong nhu cầu
của khách hàng.
Trong xu thế hiện nay, đòi hỏi việc nghiên cứu phải nắm bắt
rõ mặt hàng mình lựa chọn, kinh doanh đang ở trong thời kỳ nào
của chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường, Bởi vì chu kỳ sống
của sản phẩm gắn liền với việc tiêu thụ hàng hoá đó trên thị trường,
thông thường việc sản xuất gắn liền với việc xuất khẩu những mặt
hàng đang ở giai đoạn thâm nhập, phát triển là có nhiều thuận lợi tốt
nhất. Tuy nhiên đối với những sản phẩm đang ở giai đoạn bão hoà
hoặc suy thoái mà Công ty có những biện pháp xúc tiến có hiệu quả
thì vẫn có thể tiến hành kinh doanh xuất khẩu và thu được lợi
nhuận.
Tóm lại việc nghiên cứu mặt hàng thị trường đang cần là một
trong những
yếu tố tiên phong cho hoạt động thành công của
Công ty.
Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh
hưởng
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch
trên một phạm vi thị trường nhất định trong thời gian nhất định
(thường là một năm). Việc nghiên cứu dung lượng thị trường cần
nắm vững khối lượng nhu cầu của khách hàng và lượng dự trữ, xu
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm…..Cùng với
việc nắm vững nhu cầu của khách hàng là phải nắm vững khả năng
cung cấp của các đối thủ cạnh tranh và các mặt hàng thay thế, khả
năng lựa chọn mua bán.
Như chúng ta đã biết dung lượng thị trường không phải là cố
định, nó thường xuyên biến động theo thời gian, không gian dưới sự
tác động của nhiều yếu tố. Đối với mặt hàng mang tính thời vụ như
hàng nông sản thì điều này lại càng đúng. Công ty cần dự báo được
các nhân tố làm thay đổi dung lượng thị trường, như:
+ Các nhân tố có ảnh hưởng tới dung lượng thị trường có tính
chất chu kỳ như tình hình kinh tế, thời vụ...
+ Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị
trường như phát minh, sáng chế khoa học , chính sách của nhà
nước ...
+ Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời với dung lượng thị trường
như đầu cơ tích trữ, hạn hán, thiên tai, đình công..
Khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố phải thấy được
nhóm các nhân tố tác động chủ yếu trong từng thời kỳ và xu thế
của thời kỳ tiếp theo để Công ty có biện pháp thích ứng cho phù hợp
. Kể cả kế hoạch đị tắt đón đầu.
* Nghiên cứu giá cả các loại hàng hoá và các nhân tố ảnh
hưởng.
Trong thương mại giá cả hàng hoá được coi là tổng hợp đó
được bao gồm giá vốn của hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ph¹m TuÊn §¹t
phí bảo hiểm và các chi phí khác tuỳ theo các bước thực hiện và
theo sự thoả thuận giữa các bên tham gia.
Để có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả của
hàng hoá trên thị trường thế giới. Trước hết phải đánh giá một cách
chính xác các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả và xu hướng vận động
của giá cả hàng hoá đó.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới giá cả của hàng hoá trên
thị trường quốc tế. Người ta có thể phân loại các nhân tố ảnh hưởng
tới giá cả theo nhiều phương diện khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích
nhu cầu. Thông thường những nhà hoạt động chiến lược thường
phân chia thành nhóm các nhân tố sau:
+ Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính quy luật của nền kinh
tế, đặc biệt là sự biến động thăng trầm của nền kinh tế các nước.
+ Nhân tố lũng đoạn của các Công ty xuyên quốc gia (MNC).
Đây là một trong những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới
sự hình thành của giá cả của các loại hàng hoá trên thị trường quốc
tế. Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau trên thị
trường cho một loại hàng hoá. Lũng đoạn cạnh tranh: cạnh tranh
bao gồm cạnh tranh giữa người bán với nhau, ngời mua với người
mua. Trong thực tế cạnh tranh làm cho giá rẻ đi và chất lượng nâng
cao.
+ Nhân tố cung cầu: là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp
đến lượng cung cấp hay lượng tiêu thụ của hàng hoá trên thị trường,
do vậy có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của giá cả hàng hoá.
- Xem thêm -