Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay những nguyên nhân, hệ lụy và giải p...

Tài liệu Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay những nguyên nhân, hệ lụy và giải pháp (2)

.PDF
25
101
94

Mô tả:

BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI (CSII) ---o0o--- TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN Hệ Đại học – Ngành Công tác xã hội MÔN: CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Đề tài: THỰC TRẠNG TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT HIỆN NAY NHỮNG NGUYÊN NHÂN, HỆ LỤY VÀ GIẢI PHÁP Sinh viên thực hiện : Nguyễn Trọng Hoàng Ân Giảng viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Minh Phúc Lớp : Đ15CT2 MSSV : 1557601010084 Khóa : 2015 - 2019 NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2019 NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ĐIỂM Ghi bằng số Chữ ký của giảng viên Ghi bằng chữ Giảng viên 1 Giảng viên 2 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài................................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 3 2.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................................... 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3 3.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................... 3 3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 3 4. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn ................................................................... 3 4.1. Ý nghĩa lý luận .................................................................................................... 3 4.2. Ý nghĩa thực tiễn ................................................................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4 5.1. Phương pháp sưu tầm tài liệu .............................................................................. 4 5.2. Phương pháp quan sát, so sánh ............................................................................ 2 5.3. Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp ......................................................... 4 6. Kết cấu đề tài......................................................................................................... 4 PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................... 5 Chương 1: Cơ sở lý luận về trẻ em vi phạm pháp luật ......................................... 5 1.1 Một số khái niệm cơ bản .................................................................................... 5 1.1.1. Khái niệm “Trẻ em” ......................................................................................... 5 1.1.2. Khái niệm “Vi phạm pháp luật” ...................................................................... 5 1.1.3. Khái niệm “Quyền trẻ em”............................................................................... 5 1.2. Một số chính sách, pháp luật về trẻ em hiện nay............................................ 6 1.2.1. Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em ..................................................... 6 1.2.2. Quyền trẻ em tại một số quốc gia phát triển..................................................... 7 1.2.3. Quyền trẻ em trong Pháp luật Việt Nam .......................................................... 7 Chương 2: Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay, những nguyên nhân, hệ lụy và giải pháp .................................................................................................... 9 2.1. Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật và các chính sách hiện nay tại nước ta .................................................................................................................................... 9 2.1.1. Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật .......................................................... 9 2.1.2. Chính sách – pháp luật đối với trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay .......... 12 2.1.2.1. Một số chính sách, pháp luật có liên quan đến trẻ em vi phạm pháp luật ..... 12 2.1.2.2. Tình hình thực hiện chính sách - pháp luật đối với trẻ em vi phạm pháp luật .................................................................................................................................... 13 2.2. Nguyên nhân – Hệ lụy – Giải pháp cho vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật .. 15 2.2.1. Nguyên nhân ................................................................................................... 15 2.2.1.1. Nguyên nhân chủ quan .................................................................................. 15 2.2.1.2. Nguyên nhân khách quan .............................................................................. 15 2.2.2. Hệ lụy của việc trẻ em vi phạm pháp luật .................................................... 17 2.2.3. Giải pháp cho vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật.......................................... 17 PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................... 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 21 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là người chủ tương lai của đất nước. Trong đời sống xã hội từ xưa đến nay gia đình được xem là tế bào của xã hội, nó luôn giữ vai trò và vị trí quan trọng, được xem là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường thuận lợi để hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ em, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong một đất nước đang đẩy mạnh phát triển kinh tế như Việt Nam hiện nay, các chính sách mở cửa thị trường, hội nhập Quốc tế là bản lề then chốt để nâng cao vị thế quốc gia trong khu vực và thế giới. Điều đó đã và đang thôi thúc con người ta lao vào guồng quay của cuộc sống, bận rộn với công việc để kiếm thật nhiều tiền nếu không muốn bị tuột hậu đằng sau. Dần dần, cái mà con người theo đuổi là một đời sống vật chất đầy đủ mà họ quên đi rằng các giá trị tinh thần là thứ không thể tách rời trong cuộc sống. “Cơm – Áo – Gạo – Tiền” một vòng luẩn quẩn không có điểm đầu, điểm kết làm cho những người cha, người mẹ trong gia đình không còn nhiều thời gian cho mái ấm thân yêu của mình nữa. Thay vào đó, họ phó mặc con mình cho trường lớp, thầy cô, bạn bè. Cứ như vậy, những đứa trẻ sống trong gia đình ngày càng ít đi tình thương, sự quan tâm của cha mẹ. Đó là nói đến những đứa trẻ vẫn còn may mắn để có một gia đình mặc dù đó chưa hẳn là một gia đình đúng nghĩa. Mà đâu đó trong xã hội này, còn nhiều lắm những đứa trẻ kém may mắn hơn khi các em không biết cha mình là ai, mẹ mình đang ở đâu, tình thương, mái ấm là gì. Chính tất cả những điều đó làm cho nhận thức của các em về môi trường xã hội ngày càng sai lệch. Thiếu phương pháp giáo dục hợp lý, thiếu sự chỉ dạy về đạo đức, lối sống, nhân cách đã biến các em thành những đứa trẻ vị kỷ, tư lợi, vì một lợi ích cá nhân nhỏ hay thậm chí vì một chút bất hòa không đáng cũng khiến các em dùng tới vũ lực, “thủ đoạn” để giải quyết các vấn đề đó. Thực tế những năm gần đây cho thấy, tình trạng trẻ em phạm tội có chiều hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ phạm tội. Hành vi phạm tội của các em không còn đơn giản do bồng bột, thiếu suy nghĩ, mà đôi khi là đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng và khá tinh vi. Thậm chí một số trẻ em, đặc biệt nhiều là ở nhóm trẻ em lang thang đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tính nguy hiểm cao. Số lượng các vụ án tăng nhanh, cùng với tính chất phức tạp của từng vụ án là những thủ đoạn, hành vi có tính nguy hiểm đã để lại những hậu quả thương tâm, nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình như tội: “Cố ý gây thương tích”, “Giết người”, “Cướp tài sản”, “Trộm cắp tài sản”,... cũng đã được ghi nhận. Tất cả những điều đó gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 1 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân xôn xao dư luận xã hội và khiến cho các em phải vướng vào vòng lao lý khi tuổi đời còn quá trẻ. Như vậy, trẻ em vi phạm pháp luật là đáng lên án hay nên đáng thương cho các em? Rõ ràng trong Công ước về quyền trẻ em của Liên Hiệp Quốc hay ngay cả trong Hiến Pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đều ghi rằng “Mọi trẻ em đều phải được bình đẳng, được hưởng các quyền cơ bản của trẻ em, được học tập, được chăm sóc sức khỏe, được vui chơi và phát triển toàn diện”. Việc các em vi phạm pháp luật bị giam giữ hay bị bắt đi cải tạo dù là vì lý do nào cũng không đáng xảy ra. Có không ít trường hợp bị Tòa án xét xử, áp dụng mức phạt nghiêm khắc nhưng lại bị phản tác dụng làm cho tỷ lệ các em tái phạm còn nhiều hơn. Vì vậy, việc nhân viên Công tác xã hội đi sâu vào đời sống của trẻ em đã từng vi phạm pháp luật, nghiên cứu tâm lý, thấu hiểu, chia sẻ với các em. Từ đó có thể đưa ra những giải pháp hiệu quả hơn trong phòng ngừa tội phạm trẻ em là điều hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm do trẻ em thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Nhận thấy được tầm quan trọng đó, tôi chọn “Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay – Những nguyên nhân, hệ lụy và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu cho bài tiểu luận của mình. GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 2 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu về thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay, những nguyên nhân, huệ lý của nó đến đời sống xã hội từ đó nhằm tìm ra những điểm khó khăn, hạn chế của vấn đề. - Đưa ra các quan điểm, giải pháp thực hiện nhằm hạn chế, ngăn ngừa tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tiến hành thu thập số liệu về thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay, những nguyên nhân, hậu quả, khó khăn của vấn đề này. - Từ những số liệu thu thập được, tiến hành phân tích tổng hợp, đánh giá số liệu về tình hình trẻ em vi phạm pháp luật. - Bằng sự hiểu biết và những nghiên cứu của bản thân, đưa ra những đề xuất, giải pháp cho các cấp chính quyền về những biện pháp thực hiện hiệu quả hơn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của việc trẻ em vi phạm pháp luật. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi khách thể: Trẻ em vi phạm pháp luật. - Phạm vi không gian: Trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. - Phạm vi nội dung: Trong đề tài này tôi tập trung tìm hiểu thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật những năm gần đây. Những nguyên nhân và hệ lụy của vấn đề này. Giải pháp ngăn ngừa tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật. 4. Ý nghĩa của đề tài 4.1. Ý nghĩa lý luận - Vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp nghiên cứu khoa học trong công tác xã hội vào trong bài tiểu luận để tìm hiểu và đánh giá chính xác tổng quan, chính sách có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Đề tài nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm vào kho tài liệu khoa học của khoa Công tác xã hội – Trường Đại học Lao động – Xã hội (CSII), làm phong phú, trau dồi thêm kho tàng kiến thức và lý luận khoa học xã hội về công tác xã hội với trẻ em vi GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 3 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân phạm pháp luật. Là cái nhìn tổng quát, dẫn chứng cụ thể về thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật dang diễn ra hiện nay. Đây cũng sẽ là dữ liệu tham khảo để cho các bài nghiên cứu khác sau này. 4.2. Ý nghĩa thực tiễn Bài tiểu luận làm rõ được thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật đang diễn ra hiện nay. Những nguyên nhân và hậu quả của vấn đề này đến đời sống xã hội và chính bản thân, gia đình của các em. Chỉ ra được những điểm bất cập trong quá trình xử lý, xử phạt các trẻ em vi phạm pháp luật. Từ đó đề xuất cho các cấp chính quyền những giải pháp hay, hiệu quả để ngăn ngừa tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp sưu tầm tài liệu Thu thập các số liệu, báo cáo, vấn đề có liên quan trên Internet, tổng cục thống kê, niên giám thống kê, các trang báo Online uy tín,... làm số liệu, cơ sở lý luận cho bài tiểu luận. 5.2. Phương pháp quan sát, so sánh Quan sát số liệu đã thu thập, so sánh các số liệu với nhau từ đó đưa ra những ví dụ cụ thể hơn, dẫn chứng xác đáng về vấn đề nghiên cứu. 5.3. Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp Thống kê lại tất cả các số liệu, báo cáo liên quan sau đó phân tích tổng hợp một cách kĩ lưỡng các số liệu đã nêu để làm sáng tỏ vấn đề. 6. Kết cấu báo cáo - Phần Mở đầu - Phần Nội dung + Chương 1: Cơ sở lý luận về trẻ em vi phạm pháp luật + Chương 2: Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay, những nguyên nhân, hệ lụy và giải pháp - Phần Kết luận và kiến nghị GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 4 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lý luận về trẻ em vi phạm pháp luật 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm “Trẻ em” - Theo quy định tại Điều 1, Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em ngày 21 tháng 11 năm 1989: “Trẻ em là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có quy định tuổi trưởng thành sớm hơn”. - Theo quy định tại Điều 1, Luật trẻ em (2016) đưa ra định nghĩa: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. - Về mặt sinh học: “Trẻ em là người từ giai đoạn được sinh ra cho đến tuổi dậy thì”. - Theo quan điểm Xã hội học: “Trẻ em là một nhóm người trong quá trình xã hội hóa” 1.1.2. Khái niệm “Vi phạm pháp luật” - Hiện nay, không có một khái niệm chính thống nào giải thích cho thuật ngữ vi phạm pháp luật và trẻ em vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, theo lý luận chung về Pháp luật thì vi phạm pháp luật được hiểu là: “Hành vi làm trái luật và có lỗi do chủ thể có năng lực hành vi thực hiện làm xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ”. - Một hành vi bị coi là vi phạm pháp luật phải có đầy đủ bốn dấu hiệu: + Hành vi vi phạm pháp luật phải được biểu hiện ra bên ngoài, ra thế giới khách quan, nó có thể tồn tại dưới dạng hành động hoặc không hành động. Mọi suy nghĩ của con người không bao giờ được coi là vi phạm pháp luật. + Hành vi vi phạm pháp luật là hành vi phải trái với yêu cầu cụ thể của pháp luật đó. Có nghĩa là, chủ thể vi phạm làm những điều pháp luật cấm hoặc không làm những điều mà pháp luật yêu cầu hoặc sử dụng quyền mà pháp luật trao nhưng vượt quá giới hạn quy định. + Hành vi vi phạm phải có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó (lỗi ở đây là sự ý thức, khả năng nhận thức, là trạng thái tâm lý của chủ thể về hành vi và hậu quả của hành vi trái vi phạm pháp luật đó). + Hành vi vi phạm pháp luật phải được thực hiện bởi chủ thể có năng lực hành vi. GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 5 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân 1.1.3. Khái niệm “Quyền trẻ em” - Theo từ điển bách khoa toàn thư mở (Wikipedia): “Quyền trẻ em là những quyền con người được áp dụng dành riêng cho trẻ em, ở mỗi độ tuổi khác nhau thì trẻ em được hưởng quyền và gánh vác những nghĩa vụ khác nhau. Việc xem xét quy định và thực hiện quyền trẻ em phải xuất phát từ quan điểm của trẻ em, vì vậy quyền trẻ em là những đặc lợi mà trẻ em được hưởng theo quy định của pháp luật”. 1.2. Một số chính sách, pháp luật về trẻ em hiện nay 1.2.1. Công ước Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em Công ước Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em là một công ước quốc tế quy định các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em. Các quốc gia phê chuẩn công ước này chịu ràng buộc của các quy định công ước này theo luật quốc tế. Cơ quan giám sát thi hành công ước này là Ủy ban quyền trẻ em Liên Hiệp Quốc bao gồm các thành viên từ các quốc gia trên khắp thế giới. Trong đó, trẻ em có 10 quyền cơ bản như sau: - Quyền được đối xử bình đẳng và bảo vệ chống lại sự kỳ thị phân biệt tôn giáo, nguồn gốc và bình đẳng giới; - Quyền có tên gọi và quốc tịch; - Quyền về sức khỏe và y tế; - Quyền được giáo dục và đào tạo; - Quyền giải trí, vui chơi và tiêu khiển; - Quyền tự tìm hiểu thông tin, quyền phát biểu, quyền được lắng nghe và tụ họp; - Quyền riêng tư và sự giáo dục không bạo lực trong ý nghĩa của bình đẳng và hòa bình; - Quyền được trợ giúp ngay lập tức trong trường hợp khẩn cấp và thảm họa, và được bảo vệ khỏi sự tàn ác, bỏ bê, lạm dụng, khai thác và bách hại; - Quyền có một gia đình, được sự chăm sóc của cha mẹ và có một chỗ trú ngụ an toàn; - Quyền được chăm sóc cho trẻ em khuyết tật. GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 6 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân 1.2.2. Quyền trẻ em tại một số quốc gia phát triển Ở Thái Lan, ngày 28/01/1958, Chính phủ đã thành lập Toà án người chưa thành niên trung ương. Mục đích của việc thành lập Toà án này là dành cho trẻ em và những người chưa thành niên dưới 18 tuổi một biện pháp xử lý đặc biệt khi họ vi phạm pháp luật hình sự. Thủ tục tố tụng của Toà án người chưa thành niên cũng đòi hỏi phải có cán bộ chuyên sâu hơn như các nhà tâm lý, y tế, giám sát, công tác xã hội. Mục đích tố tụng với người chưa thành niên là tạo cho họ một cơ hội để sửa chữa, thay đổi hành vi và mong muốn sau cùng là giúp họ trở thành những công dân tốt cho xã hội chứ không nhằm vào mục đích xử phạt các em như xử phạt người lớn. Ở Nhật Bản, có Luật người chưa thành niên, nhưng phân toà người chưa thành niên của Toà án gia đình giải quyết các vụ việc liên quan đến người dưới 20 tuổi. Mục đích của Luật người chưa thành niên là không trừng phạt những người chưa thành niên phạm tội mà "giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến hành những biện pháp bảo vệ để thay đổi tính cách của người chưa thành niên phạm tội và tạo ra một môi trường giáo dục để điều chỉnh người chưa thành niên đã chót mắc phải sai lầm". Ở Hà Lan, Luật hình sự đối với người chưa thành niên đã góp phần tích cực vào việc hoàn thiện ngành luật hình sự của Hà Lan. Khi người chưa thành niên phạm tội, người ta cân nhắc và áp dụng các chế tài thay thế, chỉ được phép tiến hành theo thủ tục tố tụng hình sự khi không còn cơ hội nào để có thể áp dụng chế tài thay thế. Có hai loại chế tài thay thế được áp dụng với người chưa thành niên, đó là các dự án công tác (dịch vụ của cộng đồng đối với người chưa thành niên) và các dự án đào tạo. Mục tiêu chung của các chế tài thay thế là tăng cường hệ thống giáo dục và hệ thống quản lý xét xử người chưa thành niên mà hệ thống này sẽ giúp cho các em hạn chế được tái phạm. 1.2.3. Quyền trẻ em trong Pháp luật Việt Nam Tại nước ta, trong Hiến Pháp có nêu rõ “Mọi trẻ em đều phải được bình đẳng, được hưởng các quyền cơ bản của trẻ em, được học tập, được chăm sóc sức khỏe, được vui chơi và phát triển toàn diện”. Khoản 1, Điều 37, Hiến Pháp quy định “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Theo đó, năm 1991 Đảng và nhà nước đã lần đầu tiên ban hành một luật pháp chính thức cho trẻ em có tên là Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (1991). Đây là bước ngoặc lớn nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển của các chính sách pháp luật khác dành cho trẻ em về sau này. Tuy nhiên luật này do còn khá mới nên chỉ có vỏn vẹn 05 GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 7 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân chương và 26 điều. Đến năm 2004, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em được sửa đổi bổ sung bao gồm 05 và 60 điều, nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi. Đến năm 2016, tại kỳ họp Quốc hội khóa XIII, “Luật trẻ em” chính thức được thông qua với 07 chương và 106 điều. Đây được xem là luật hoàn thiện nhất, bao quát nhất từ trước đến nay dành cho trẻ em đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Trong đó, trẻ em có 25 quyền và 05 bổn phận gồm: Quyền sống; Quyền được khai sinh và có quốc tịch; Quyền được chăm sóc sức khỏe; Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu; Quyền vui chơi, giải trí; Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc; Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Quyền về tài sản; Quyền bí mật đời sống riêng tư; Quyền được sống chung với cha, mẹ; Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ; Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi; Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục; Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động; Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc; Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy; Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang; Quyền được bảo đảm an sinh xã hội; Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội; Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp; Quyền của trẻ em khuyết tật; Quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn. Ngoài ra, Luật trẻ em (2016) còn có quy định về 14 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm: Trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ; Trẻ em bị bỏ rơi; Trẻ em không nơi nương tựa; Trẻ em khuyết tật; Trẻ em nhiễm HIV/AIDS; Trẻ em vi phạm pháp luật; Trẻ em nghiện ma túy; Trẻ em phải bỏ học kiếm sống chưa hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; Trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực; Trẻ em bị bóc lột; Trẻ em bị xâm hại tình dục; Trẻ em bị mua bán; Trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; Trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc không có người chăm sóc. GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 8 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân Chương 2: Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay, những nguyên nhân, hệ lụy và giải pháp 2.1. Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật và các chính sách hiện nay tại nước ta 2.1.1. Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật Những năm gần đây tại nước ta, tình hình tội phạm do trẻ em và người chưa thành niên gây ra rất nhiều và diễn biến phức tạp. Phân tích các số liệu về tình hình tội phạm chưa thành niên trong thời gian qua thì thấy đáng báo động về số trẻ em phạm tội đang "gia tăng nhanh và trẻ hóa" thực sự trở thành mối lo ngại. Tình hình tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên gia tăng đến mức báo động. Trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 10 nghìn vụ vi phạm pháp luật với hơn 13.000 đối tượng trẻ em có liên quan. Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện số vụ trẻ em vi phạm pháp luật phân theo giai đoạn Số vụ 67200 61720 37165 Số người 40235 25000 17000 2009 - 2012 2013 - 2016 2017 - 2018 (Nguồn: Tự tổng hợp) Theo số liệu từ Cục Cảnh sát hình sự, trong bốn năm từ 2013 đến 2016, công an cả nước phát hiện 40.235 vụ gồm 67.200 trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật, tăng hơn giai đoạn 2009 đến 2012 là 3.070 vụ và 5.480. Trong đó, số vụ án phạm pháp hình sự do trẻ em và người chưa thành niên gây ra chiếm hơn 20% trong tổng số vụ vi phạm. Còn theo số liệu báo cáo của Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an cho biết, trong vòng 2 năm (2017 – 2018), toàn quốc xảy ra hơn 17.000 vụ vi phạm pháp luật, do hơn 25.000 trẻ em và người chưa thành niên gây ra; trong đó, chiếm phần lớn là các hành vi cướp tài sản (hơn 2.105 vụ), cố ý gây thương tích (3.236 vụ), gây rối trật tự công cộng (2.035 vụ), trộm cắp tài sản (4.027 vụ). (Biểu đồ 2.1.) GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 9 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân Theo báo cáo của Cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội (Cục C64, Tổng cục Cảnh sát) trong “Hội nghị tổng kết công tác Ổn định an ninh trật tự xã hội”, trong 6 tháng cuối năm 2018 trên cả nước xảy ra 2.258 vụ vi phạm pháp luật do 3.340 trẻ em và người chưa thành niên gây ra. Trong đó, nổi lên các tội danh như: Giết người có 36 vụ, 63 đối tượng; Cướp tài sản 59 vụ, 103 đối tượng; Cưỡng đoạt tài sản 14 vụ, 25 đối tượng; Hiếp dâm, cưỡng dâm: 35 vụ, 36 đối tượng; Cố ý gây thương tích 302 vụ, 574 đối tượng; Trộm cắp tài sản 896 vụ, 1.200 đối tượng; Tổ chức sử dụng ma túy 224 vụ, 265 đối tượng; Gây rối trật tự công cộng 84 vụ, 223 đối tượng; Đánh bạc 71 vụ, 101 đối tượng; Mua bán ma túy 90 vụ, 103 đối tượng,…(cụ thể theo Bảng 2.1) Bảng 2.1: Bảng tổng hợp tội danh, số vụ và số đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật trong 06 tháng cuối năm 2018 Số vụ Tỉ lệ Số đối tượng Tỉ lệ vi phạm (%) vi phạm (%) Giết người 36 1.6 63 1.9 Cướp tài sản 59 2.6 103 3.1 Cưỡng đoạt tài sản 14 0.6 25 0.7 Hiếp dâm, cưỡng dâm 35 1.6 36 1.1 Cố ý gây thương tích 302 13.4 574 17.2 Trộm cắp tài sản 896 39.7 1200 35.9 Tổ chức mua bán, sử dụng ma túy 314 13.9 368 11.0 Gây rối trật tự công cộng 84 3.7 223 6.7 Đánh bạc 71 3.1 101 3.0 Khác 447 19.8 647 19.4 2258 100.0 3340 100.0 Tội danh Tổng cộng (Nguồn: Tự tổng hợp) Nhìn vào bảng số liệu trên, ta thấy rằng, tội danh có nhiều vụ vi phạm với số lượng đối tượng đông nhất là tội Trộm cắp tài sản, với 896 vụ (39.7%) và 1200 đối tượng vi phạm (chiếm 35.9%). Tội danh có số vụ vi phạm thấp nhất là tội cưỡng đoạt tài sản với 14 vụ (0.6%) và có 25 đối tượng vi phạm (chiếm 0.7%) trên tổng số vụ và tổng số đối tượng. GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 10 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân Dù tuổi đời còn ít, nhưng những đối tượng vị thành niên gây án rất nghiêm trọng với những hành vi giết người, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, hiếp dâm, cưỡng dâm, cố ý gây thương tích, cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản có tổ chức, lừa đảo, mua bán, tàng trữ ma túy, sử dụng ma túy,... Đặc biệt là tính chất phạm tội ngày càng phức tạp, một số đối tượng có hành vi phạm tội với sự chuẩn bị trước, các công cụ nguy hiểm được sử dụng để gây án ngày càng nhiều và phổ biến hơn,... Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thể hiện số trẻ em vi phạm pháp luật phân theo độ tuổi trong 06 tháng cuối năm 2018 2348 818 174 Dưới 14 tuổi Từ 14 - 16 tuổi Từ 16 - 18 tuổi Nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy một thực trạng đáng lo ngại là hầu hết trẻ em vi phạm pháp luật tập trung ở lứa tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi. Tình trạng trẻ phạm tội có xu hướng ngày càng trẻ hóa như: Dưới 14 tuổi có 174 đối tượng, chiếm 5,2%; Từ 14 dưới 16 tuổi: 818 đối tượng, chiếm 24,5%; Từ 16 - dưới 18 tuổi: 2.348 đối tượng chiếm 70,3%. Đặc biệt, phạm tội lần đầu chiếm tỷ lệ đa số với 3.009 đối tượng; phạm tội lần thứ 2 trở lên là 331 đối tượng. (Biểu đồ 2.2). Theo báo cáo khác của Tòa án Nhân Dân tối cao thì trong tổng số trẻ em và người chưa thành niên phạm tội được đưa ra hội đồng xét xử trong 5 năm (từ năm 2013 – 2018) thì các đối tượng chủ yếu là ở độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm 87% (12.439 bị cáo), từ 14 đến dưới 16 tuổi chiếm 12 % (1.832 bị cáo). Trong đó, một số tội danh thường gặp như trộm cắp tài sản 4.379 bị cáo chiếm 31%, cướp tài sản 2.372 bị cáo chiếm 17%, cố ý gây thương tích 2.035 bị cáo chiếm 14,2%, cướp giật tài sản 1.627 bị cáo chiếm 11,4%, giết người 713 bị cáo chiếm 5%. Dù các vụ vi phạm pháp luật do trẻ em và người chưa thành niên gây ra được kéo giảm nhưng các vụ án có tính chất nghiêm trọng lại có xu hướng gia tăng như: án giết người tăng 66,67%; án hiếp dâm, cưỡng dâm tăng 33,33%. GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 11 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân 2.1.2. Chính sách – pháp luật đối với trẻ em vi phạm pháp luật hiện nay 2.1.2.1. Một số chính sách, pháp luật có liên quan đến trẻ em vi phạm pháp luật Tại nước ta hiện nay, việc áp dụng các chính sách, pháp luật đối với trẻ em vi phạm pháp luật được thực hiện theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, Hiến Pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Luật trẻ em 2016, Bộ luật Hình sự (2015) và sửa đổi bổ sung năm 2017, Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ Luật Dân sự (2015), Bộ Luật Tố tụng dân sự (2015),... cụ thể như sau: - Khoản 5; Điều 6; Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, có hiệu lực ngày 23/03/1976. Việt Nam ký ngày 24/09/1982 quy định “Không được phép tuyên án tử hình với người phạm tội dưới 18 tuổi và không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai”. - Điều 37a; Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em, có hiệu lực từ ngày 02/09/1990. Việt Nam phê chuẩn ngày 20/02/1990 quy định: “Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng: Không có trẻ em nào phải chịu sự tra tấn, đối xử, trừng phạt, độc ác, vô nhân đạo hay làm mất phẩm giá. Sẽ không xử án tử hình hoặc tù chung thân không có khả năng phóng thích vì những hành động phạm pháp do người dưới 18 tuổi gây ra”. - Điều 12; Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. - Điều 74; Bộ luật hình sự (2015) quy định: 1. Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định; 2. Đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định” - Điều 75; Bộ luật tố tụng hình sự (2003) tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội quy định đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 12 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt được áp dụng như sau: 1. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt theo quy định tại Điều 74. 2. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội”. 2.1.2.2. Tình hình thực hiện các chính sách, pháp luật đối với trẻ em vi phạm pháp luật Trong những năm qua, các Tòa án Nhân Dân, Tòa án Nhân Dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân Dân, Viện Kiểm sát Nhân Dân tối cao, Bộ Công an,... đã hết sức chú ý đảm bảo về chất lượng xét xử đối với các vụ án hình sự nói chung và các vụ án hình sự do trẻ em và người chưa thành niên thực hiện nói riêng, ngoài xét xử tại trụ sở Tòa án, các Tòa án địa phương cũng tăng cường công tác xét xử lưu động các vụ án điểm do trẻ em và người chưa thành niên thực hiện, nhằm tăng cường công tác giáo dục, phổ biến pháp luật, góp phần phòng ngừa tình trạng trẻ em phạm tội. Cụ thể từ năm 2012 đến 2015 số vụ án hình sự do trẻ em và người chưa thành niên thực hiện được đưa ra xét xử trong toàn ngành Tòa án là 10.403 vụ án với 14.271 bị cáo. Xét xử lưu động là 726 vụ, các hình thức xử lý khác là 109 đối tượng. Biểu đồ 2.3: Biểu đồ thể hiện mức phạt hình sự của trẻ em vi phạm pháp luật từ năm 2012 - 2015 1% 4% 13% 35% Từ 15 - 18 năm Từ 07 - 15 năm Từ 03 - 07 năm Dưới 03 năm 47% Cải tạo không giam giữ (Nguồn: Tự tổng hợp) GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 13 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân Nhìn từ biểu đồ 2.3 trên, tha thấy được, trong 04 năm từ 2012 đến 2015, việc quyết định hình phạt khi xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội của ngành Tòa án đã vận dụng thì mức hình phạt từ 15 – 18 năm chỉ có 96 bị cáo chiếm 0,67%, từ 7 – 15 năm có 577 bị cáo chiếm 4%, từ 3 đến 7 năm có 1.854 bị cáo chiếm 13%, dưới 03 năm có 6.645 bị cáo chiếm 46,5% và số bị cáo được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ là 4990 bị cáo chiếm 35%. Số bị cáo được áp dụng các loại hình phạt khác không phải là hình phạt tù là 109 bị cáo chiếm 0,76%. Nhìn chung hình phạt phổ biến được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong thời gian qua tập trung ở mức dưới ba năm và án treo. Có thể thấy mức hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là mang tính giáo dục thể hiện sự nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa, đã được quy định cụ thể trong Chương X những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội của Bộ luật hình sự (2015). Số lượng các vụ án và người chưa thành niên phạm tội được phát hiện là rất lớn song số vụ án và người chưa thành niên phạm tội được đưa ra xét xử là rất thấp chỉ chiếm 21% (14.271 bị cáo/67.200 đối tượng phạm tội). Sở dĩ có tình trạng này thì nguyên nhân chủ yếu xuất phạt từ quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự (2015) thì tuổi chịu trách nhiệm hình sự của Việt Nam là từ đủ 14 tuổi và từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và đặc biệt nghiêm trọng. Thực tiễn hiện nay, có rất nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng do người dưới 14 tuổi gây ra nhưng không thể xử lý bằng hình sự được. Hay còn rất nhiều vụ án do người chưa thành niên phạm tội không thể đưa ra xét xử được vì các đối tượng này mới chỉ ở độ tuổi đủ 14 đến dưới 16 tuổi nhưng chỉ phạm các tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng dẫn đến họ có phạm tội những chỉ xử lý hành chính, chứ không thể xử lý bằng hình sự được. Ngoài ra, lực lượng Công an cũng đã xử lý hình sự 833 vụ, 1.067 đối tượng, xử lý hành chính 1.425 vụ, 2.273 em, trong đó: giao cho gia đình quản lý, giáo dục 952 em; giáo dục tại xã phường thị trấn 215 em, lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng 157 em,… GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 14 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân 2.2. Nguyên nhân – Hệ lụy – Giải pháp cho vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật 2.2.1. Nguyên nhân Như chúng ta đã biết, người chưa thành niên là người chưa ổn định về tâm sinh lý, còn bị hạn chế về nhận thức, thiếu kinh nghiệm sống, chưa có khả năng đánh giá đúng đắn sự việc, nhất là đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì chưa nhận thức được đầy đủ tính chất, không lường hết được hậu quả của nó. Với đặc điểm tâm lý lứa tuổi ở giai đoạn này nhu cầu học theo, bắt chước những gì các em thấy thông qua bạn bè và các phương tiện thông tin khiến cho hành vi và nhận thức khó kiểm soát. Khi đó, nếu thiếu đi sự định hướng, uốn nắn kịp thời từ gia đình và nhà trường thì nguy cơ phạm tội sẽ càng trở nên rõ rệt. 2.2.1.1. Nguyên nhân chủ quan Trẻ em về mặt thể chất và tinh thần mới phát triển ở một mức độ nhất định. Vì vậy, trong nhận thức và hành động của mình, trẻ em còn hạn chế về kiến thức nói chung và kiến thức xã hội nói riêng, không làm chủ được hành động của mình thường bị kích động, rủ rê, lôi kéo và hay bị người khác lợi dụng. Trẻ em chưa được học hành, trang bị đầy đủ kiến thức đặc biệt là kiến thức pháp luật nên nhận thức không hết thậm chí không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, là phạm tội. 2.2.1.2. Nguyên nhân khách quan - Nguyên nhân xuất phát từ gia đình: + Do vấn đề kinh tế chi phối mạnh mẽ những chuẩn mực đạo đức truyền thống ở nhiều gia đình hiện nay từ đó tình cảm, và các giá trị đạo đức bị coi nhẹ đã tác động trực tiếp tới nhận thức, tư duy của con cái, người chưa thành niên trong gia đình theo những hướng xấu ngược với những giá trị đạo đức truyền thống. + Phần lớn trẻ em phạm tội đều rơi vào gia đình hoàn cảnh khó khăn hoặc éo le như bố mẹ ly hôn, ly thân,… Mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường còn lỏng lẻo dẫn đến con bỏ học, chơi bời hư hỏng mà bố mẹ không biết. + Thiếu sự kèm cặp, giáo dục của gia đình cho nên các em quen với lối sống tự do, buông thả, dễ tiếp thu những mặt trái, từ đó các em dễ đi vào con đường phạm tội. - Nguyên nhân xuất phát từ môi trường giáo dục ở nhà trường: GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 15 Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt SV: Nguyễn Trọng Hoàng Ân + Giáo dục hiện nay chưa chú trọng một cách toàn diện, kiến thức đặt nặng lý thuyết làm cho các em lười học và bỏ học, từ đó nảy sinh tình trạng tụ tập, chơi bời, dấn thân vào con đường phạm tội. + Việc dạy kiến thức thực tiễn và kỹ năng sống, kỹ năng làm người về đạo đức truyền thống, nên các em sẽ phân biệt được đâu là thiện, đâu là ácừ đó dễ dẫn đến sai lầm trong cuộc sống. + Công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường được triển khai rộng khắp nhưng phần lớn mang tính hình thức, nên hiệu quả mang lại không cao, các em học sinh không nhận thức được nhiều về pháp luật. + Việc xử lý học sinh vi phạm nội quy nhà trường cũng như vi phạm pháp luật còn chưa thường xuyên, kiên quyết và triệt để. Đáng lưu ý là tình trạng học sinh bỏ học có chiều hướng gia tăng là nguy cơ, điều kiện để tội phạm lợi dụng xâm hại hoặc dụ dỗ lôi kéo các em vào con đường phạm tội . + Việc kết hợp trong giáo dục giữa nhà trường và gia đình để quản lý học sinh đã được thiết lập, nhưng hiệu quả chưa cao. - Nguyên nhân xuất phát từ môi trường xã hội: + Sự thay đổi quá nhanh của xã hội, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, bên cạnh những tích cực do khoa học, công nghệ mang lại thì cùng với nó sự phát triển của các tệ nạn xã hội khiến trẻ không kịp thích ứng, tâm lý trẻ trong giai đoạn vị thành niên lại thiếu ổn định, xốc nổi, thích tự lập, thích được thể hiện mình nên dễ bị bạn bè dụ dỗ, lôi kéo vào những hành vi xấu. Sự phát triển đa dạng của các trò chơi bạo lực, đẫm máu, những trang web thiếu lành mạnh cũng ảnh hưởng rất lớn đến tâm sinh lý của các em và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn các em đến việc thực hiện hành vi phạm tội. + Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, văn hóa, đạo đức, lối sống trong quần chúng nhân dân nhất là thanh thiếu niên chưa được coi trọng đúng mức. Do vậy, việc nắm vững pháp luật và thực hiện pháp luật còn hạn chế, nhiều em chưa nhận thức đầy đủ về tội phạm, tính nguy hiểm của hành vi do mình gây ra. Có trường hợp đối tượng là trẻ em khi thực hiện hành vi mà không biết rằng đó là hành vi phạm tội. + Chính quyền các cấp, các đoàn thể, cơ quan pháp luật chưa thực sự chú ý tới công tác phòng ngừa người việc trẻ em vi phạm pháp luật, mới chỉ tập trung khi có vi phạm pháp luật xảy ra đối với lứa tuổi này. GVHD: ThS. Nguyễn Minh Phúc 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan