Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng thị trường giao dịch chứng khoán chính thức ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Thực trạng thị trường giao dịch chứng khoán chính thức ở việt nam hiện nay

.DOC
34
162
118

Mô tả:

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. I. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 1. Khái niệm. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra hoạt động giao dịch, mua bán các loại chứng khoán được tiến hành bởi những đối tượng khác nhau theo quy định của pháp luật. 2. Phân loại. a. Căn cứ theo tính chất pháp lý Thị trường chứng khoán chính thức hay còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán là nơi mua bán loại chứng khoán được niêm yết có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt, giá cả được xác định theo hình thức đấu giá hoặc đấu lệnh. Thị trường chứng khoán phi chính thức hay còn gọi là thị trường OTC là nơi mua bán chứng khoán bên ngoài Sở giao dịch, không có ngày giờ nghỉ hay thủ tục quyết định mà do thoả thuận giữa người mua và người bán. Thị trường chứng khoán chính thức có giá trị như “bộ mặt” thị trường chứng khoán quốc gia, các bộ phận thị trường khác thể hiện sự đa dạng của các giao dịch có thể lựa chọn. Hàng hoá của thị trường tập trung cũng là những hàng hoá có thể đánh giá có chất lượng hơn so với hàng hoá của thị trường khác, do tính có tổ chức của nó; điều đó cũng có nghĩa sự an toàn hay rủi ro, cơ hội kiếm lời là khác nhau trong các giao dịch trên thị trường. b. Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán Thị trường phát hành hay còn gọi là thị trường sơ cấp là nơi các chứng khoán được phát hành lần đầu bởi các nhà phát hành được bán cho các nhà đầu tư. Thị trường thứ cấp diễn ra các giao dịch chứng khoán chưa được thanh toá. Bộ phận thị trường này không làm tăng nguồn vốn mới cho nền kinh tế, nhưng có thể hoạt động liên tục, tạo ra khẳ năng thanh khoản cho chứng khoán đã phát hành. “Thị trường thứ cấp phục vụ cho hai mục đích chính: thúc đẩy sự tạo vốn cho các doanh nghiệp, chính phủ và tạo ra các công cụ đầu tư có khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư c. Căn cứ vào phương thức giao dịch Thị trường giao ngay là thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày theo qui định. Thị trường tương lai là thị trường mua bán chứng khoán theo một loạt hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra trong một ngày kỳ hạn nhất định trong tương lai. d. Căn cứ vào đặc điểm hàng hoá trên thị trường chứng khoán - Thị trường trái phiếu là nơi mua bán các trái phiếu. - Thị trường cổ phiếu là nơi mua bán các cổ phiếu. - Thị trường phát sinh là nơi mua bán các công cụ có nguồn gốc chứng khoán. 3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán a. Nguyên tắc trung gian. Trên thị trường chứng khoán, các giao dịch thường được thực hiện thông qua tổ chức trung gian và môi giới là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua nghiệp vụ môi giới kinh doanh các công ty chứng khoán mua chứng khoán giúp các nhà đầu tư, hoặc mua chứng khoán của nhà đầu tư này để mua và bán cho các nhà đầu tư khác. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và giúp thị trường hoạt động lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. b. Nguyên tắc định giá. Việc định giá chứng khoán trên thị trường phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà trung gian môi giới. Mỗi nhà trung gian môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại một thời điểm tuỳ theo sự xét đoán và tùy vào số cung cầu chứng khoán có trên thị trường. Việc định giá chứng khoán được thực hiện thông qua cuộc thương lượng giữa những người trung gian môi giới cần mua và cần bán. Giá cả được xác định khi hai bên đã thống nhất. Tất cả các thành viên có liên quan trên thị trường không ai có thể can thiệp vào sự tác động qua lại của số cung cầu chứng khoán trên thị trường và cũng không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán. Vì thế thị trường chứng khoán được coi là thị trường tự do nhất trong các thị trường. c. Nguyên tắc công khai hoá. Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, cũng như tình hình tài chính về kết quả kinh doanh của công ty phát hành và số lượng chứng khoán và giá cả từng loại đều được công khai trên thị trường và trong các báo cáo. Khi kết thúc một cuộc giao dịch số lượng chứng khoán được mua bán, giá cả từng loại đều được lập tức thông bán ngay. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua và người bán chứng khoán không bị hớ trong mua bán chứng khoán và người mua chứng khoán dễ dàng chọn loại chứng khoán theo sở thích của mình. 4. Hàng hóa của thị trường chứng khoán 4.1 Khái niệm Chứng khoán là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác nhận quyền đòi nợ hay quyền sở hữu về tài sản, bao gồm những điều kiện về thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. 4.2 Phân loại và đặc điểm a. Căn cứ theo tiêu thức pháp lý Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không ghi rõ họ tên chủ sở hữu. Việc chuyển nhượng loại này rất dễ dàng, không cần thủ tục đăng ký rườm rà. Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán ghi rõ họ tên chủ sở hữu. Việc chuyển nhượng loại này được thực hiện bằng thủ tục đăng ký tại cơ quan phát hành. b. Căn cứ theo tính chất thu nhập Chứng khoán có thu nhập ổn định là các trái phiếu thu nhập của nó không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Chứng khoán có thu nhập không ổn định là các cổ phiếu thường, thu nhập của nó phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty và chính sách trả cổ tức. Chứng khoán hỗn hợp là cổ phiếu ưu đãi, có một phần thu nhập là không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. c. Căn cứ theo chủ thể phát hành Chứng khoán Chính phủ là các chứng khoán do các cơ quan của Chính phủ trung ương hay chính quyền địa phương phát hành như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu Chính phủ, công trái Nhà nước. Chứng khoán công ty là chứng khoán do các doanh nghiệp, công ty cổ phần phát hành như trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ có nguồn gốc chứng khoán. 4.2.1 Trái phiếu Trái phiếu là giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và xác nhận quyền đòi nợ bao gồm những điều kiện và thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. Từ khái niệm trên ta thấy trái phiếu có đặc điểm là có thu nhập ổn định, có khả năng chuyển nhượng, có thời gian đáo hạn. Đồng thời trái chủ không có quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng quản trị. Nhưng trái phiếu đem lại cho trái chủ quyền được ưu tiên trong phân chia lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản. Phân loại Căn cứ vào hình thức phát hành - Trái phiếu vô danh - Trái phiếu kí danh Căn cứ vào chủ thể phát hành - Trái phiếu chính phủ - Trái phiếu dài hạn kho bạc (treasury bonds) - Trái phiếu đô thị (municipal bonds) - Công trái nhà nước (state bonds): - Trái phiếu công ty (corporate bonds) Căn cứ vào lợi tức trái phiếu - Trái phiếu có lãi suất ổn định (level coupon bond) - Trái phiếu chiết khấu (zero coupon bonds) - Trái phiếu lãi suất thả nổi (floating rate bond) 4.2.2 Cổ phiếu Cổ phiếu là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác nhận quyền sở hữu về tài sản và những điều kiện về thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. 4.2.2.1 Cổ phiếu thường Cổ phiếu thường là cổ phiếu không có thời gian đáo hạn, không có thu nhập ổn định mà thu nhập của nó phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh hay chính sách chi trả cổ tức của công ty. Cổ phiếu thường có khả năng chuyển nhượng dễ dàng. Người nắm giữ cổ phiếu thường có quyền tham gia bầu cử vào Hội đồng quản trị nhưng không được ưu tiên trong phân chia lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản. Ngoài ra cổ phiếu thường còn đem lại quyền đặt mua cổ phiếu mới cho các cổ đông. 4.2.2.2 Cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có sự ưu tiên hơn cổ phiếu thường trong việc phân chia lợi nhuận cũng như chi trả cổ tức và thanh lý tài sản khi công ty phá sản. Cổ phiếu ưu đãi cũng như cổ phiếu thường là nó không có thời gian đáo hạn. Nó tồn tại ở sự tồn tại của công ty. Nó cũng có khả năng chuyển nhượng nhưng phải thêm một số điều kiện nhất định. Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi lẫn cổ phiếu thường đều không phải là nợ của công ty do đó không có thu nhập ổn định trong điều kiện bình thường và nó có thể được mua lại bởi nhà phát hành. Cổ phiếu ưu đãi còn có một số điều khoản kèm theo. Thứ nhất, cổ phiếu ưu đãi có tính chất tham dự trong phân chia lợi nhuận khi công ty làm ăn có lãi, vượt một mức nào đó. Thứ hai, cổ phiếu ưu đãi có tính chất bỏ phiếu. Trong điều kiện bình thường, cổ phiếu ưu đãi không có tính chất bỏ phiếu. Nhưng khi công ty làm ăn thua lỗ, cổ phiếu ưu đãi sẽ có tính chất bỏ phiếu. Thứ ba, cổ phiếu ưu đãi có tính chất tích luỹ hay không tích luỹ tức là do côgn ty làm ăn không hiệu quả, công ty sẽ không trả cổ tức. Nhưng khi công ty làm ăn có lãi công ty có thể trả cổ tức cho những năm bị thua lỗ trước đó hoặc không trả cổ tức của những năm chưa trả được 4.2.2.3 Các công cụ phát sinh Công cụ phát sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Phân loại Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán một khối lượng nhất định hàng hoá với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Các hàng hoá này có thể là cổ phiếu, trái phiếu hay hợp đồng tương lai. Hợp đồng tương lại là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay. Hợp đồng tương lai được niêm yết trên sở giao dịch, nó xoá bỏ rủi ro tín dụng vì nó được công ty thanh toán bù trừ phục vụ như là một trung gian trong tất cả các giao dịch. Người bán và người mua đều bán mua qua công ty thanh toán bù trừ. Hợp đồng tương lai đều được tiêu chuẩn hoấ về việc giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định trước. Hợp đồng tương lai còn được chuyển giao theo giá thị trường tức là bất kỳ món lợi nào cũng được giao nhận hàng ngày. Cụ thể là nếu giá của hàng hoá cơ sở biến động khác với giá đã thoả thuận (giá thực hiện hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá này phải trả tiền cho bên được lợi từ sự thay đổi giá đó. Việc thanh toán như thế được tiến hành hàng ngày 5. Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán. 5.1 Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế - Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng - Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán - Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp - Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô 5.2 Vai trò của thị trường chứng khoán 5.2.1 Đối với nền kinh tế vĩ mô nói chung Chứng khoán và thị trường chứng khoán tồn tại như một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường và giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế. Xuất phát từ nguồn gốc ra đời của chứng khoán và thị trường chứng khoán, có thể khẳng định, thị trường chứng khoán là công cụ quan trọng trong việc huy động vốn trung và dài hạn. Trường chứng khoán còn là công cụ thực hiện chính sách tài chính tiền tệ quốc gia và các chính sách vĩ mô khác. Thị trường chứng khoán đóng vai trò tạo khả năng thanh khoản cho các chứng khoán. Thị trường chứng khoán Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Thị trường chứng khoán chứa đựng những yếu tố tác động trong thị trường tài chính. 5.2.2 Đối với các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán và các tổ chức liên quan a. Đối với chính phủ. Thị trường chứng khoán cung cấp các phương tiện để huy động vốn và sử dụng các nguồn vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân. Chính phủ huy động vốn bằng việc bán trái phiếu và dùng số tiền đó để đầu tư vào các dự án cần thiết của mình. Thị trường chứng khoán còn góp phần thực hiện quá trình cổ phần hoá. Chính thị trường chứng khoán có thực mới có thể tuyên truyền sự cần thiết của thị trường chứng khoán một cách tốt nhất. Từ đó khuyến khích việc cổ phần hoá nhanh lên các doanh nghiệp quốc doanh. Thị trường chứng khoán là nơi để thực hiện các chính sách tiền tệ. Lãi suất thị trường có thể tăng lên hoặc giảm xuống do việc chính phủ mua hoặc bán trái phiếu. Ngoài ra thị trường chứng khoán là nơi thu hút các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài qua việc nước ngoài mua chứng khoán. b. Đối với các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán giúp các công ty thoát khỏi các khoản vay kh có chi phí tiền vay cao ở các ngân hàng. Các doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Hoặc chính thị ttường chứng khoán tạo ra tính thanh khoản để cho công ty có thể bán chứng khoán bất kỳ lúc nào để có tiền. Như vậy, thị trường chứng khoán giúp các doanh nghiệp đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và đầu tư. Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác (kể cả giá trị hữu hình và vô hình) thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Thị trường chứng khoán còn là nơi giúp các tập đoàn ra mắt công chúng. Thị trường chứng khoán chính là nơi quảng cáo ít chi phí về bản thân doanh nghiệp. c. Đối với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm kiếm các cơ hội đầu tư để đa dạng hoá đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CHÍNH THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 1. Về cơ quan quản lý thị trường chứng khoán. Xuất phát từ vai trò Nhà nước xã hội chủ nghĩa, từ đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà nước có vị trí, vai trò rất quan trọng, mặc dù có những hình thái biểu hiện cụ thể khác nhau trong giai đoạn hiện nay. Đối với thị trường chứng khoán, nguyên tắc thực hiện sự can thiệp của Nhà nước cũng được thể hiện rất rõ ràng tại các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp thị trường. Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996 đã cho ra đời một cơ quan quản lý chức năng riệng đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Văn bản này xác định rõ mô hình, vị trí, chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về chức khoán. Đối với Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được thành lập để quản lý và giám sát thúc đẩy cho thị trường phát triển theo định hướng XHCN và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đâu tư. Đây là bước đi đúng phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng quốc tế. 2. Về sở giao dịch chứng khoán. Đối với Việt Nam, Sở giao dịch chứng khoán sẽ do Nhà nước sử hữu, để đảm bảo an toàn, công bằng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch chứng khoán do Thủ tướng chính phủ quyết định theo đề nghị của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là một tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Vì vậy, để đạt được mục tiêu hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, Nhà nước tạo ra những tiền đề cần thiết, những đảm bảo pháp lý cho thị trường chứng khoán được hình thành và phát triển. Thực tế trong thời gian qua cho thấy, Nhà nước đã làm “bà đỡ” cho thị trường chứng khoán với rất nhiều góc độ và biện pháp khác nhau: tạo điều kiện hàng hoá cho thị trường, tạo điều kiện hình thành cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán, tạo cơ hội cho người đầu tư và nhà kinh doanh… Xác định tính sở hữu nhà nước đối với Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 ghi nhận vấn đề này. Để chính thức cho ra đời thị trường chứng khoán tập trung của Việt Nam, Nhà nước đã thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán. Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng chính phủ đã thành lập Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà nội và Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh nay là Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 20/11/2008, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 108/2008-QĐ-BTC về việc ban hành Quy chế tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán công ty đại chúng (CtyĐC) chưa niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HaSTC). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc triển khai thị trường UPCoM (Thị trường giao dịch cổ phiếu của CTĐC chưa niêm yết). 3. Giao dịch ngoài Sở. Đối với Việt Nam, để công khai hoá tất cả các hoạt động giao dịch, Nhà nước đã và đang thành lập phát triển Sở giao dịch chứng khoán tập trung cho tất cả các chứng khoán (kể cả công ty và và nhỏ) có đủ điều kiện niêm yết, hay không đủ điều kiện niêm yết được mua bán tại Sở giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, việc giao dịch những chứng khoán của công ty lớn (đủ điều kiện niêm yết) tách biệt với khu vực giao dịch những chứng khoán của những công ty vừa và nhỏ không đủ điều kiện niêm yết. Hiện nay ngoài hai sở giao dịch chứng khoán lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh còn có thị trường chứng khoán phi chính thức hay còn gọi là thị trường OTC là nơi mua bán chứng khoán bên ngoài Sở giao dịch, không có ngày giờ nghỉ hay thủ tục quyết định mà do thoả thuận giữa người mua và người bán Hiện nay đang có hơn 3.600 doanh nghiệp (DN) còn lại hiện đang giao dịch cổ phiếu trên thị trường tự do với việc trao đổi, mua/bán cổ phiếu chưa chịu sự điều chỉnh bởi những quy định pháp lý. 4. Hệ thống giao dịch. Việt Nam đang áp dụng hệ thống ghép lệnh. Hệ thống này đơn giản cho phép có được giá cả, cạnh tranh tốt nhất nên đang được nhiều nước mới nổi áp dụng. ở Việt Nam trong thời gian đầu khi thị trường chưa phát triển, khối lượng giao dịch còn nhỏ, nên áp dụng phương thức ghép lệnh từng đợt để giảm bớt sự biến động của giá cả. Trong điều kiện chi phí cho hệ thống tự động hoá ngày càng có xu hướng giảm thì Việt Nam cần thiết và sử dụng chương trình tự động hoá ngay từ đầu. Nếu bắt đầu bằng giao dịch thủ công, sau đó lại thay thế bằng hệ thống tự động thì sẽ tốn kém. Để tiết kiệm chi phí cho thời gian đầu ở Việt Nam chỉ lắp đặt thiết bị với công suất xử lý thấp. Các thiết bị lắp đặt ở trạng thái mở để khi khối lượng giao dịch tăng lên có thể lắp đặt thêm nhằm mổ rộng công suất xử lý của hệ thống. Ngày 12/1/2009, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội chính thức triển khai giao dịch trực tuyến. Ngày 8/2/2010, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội chính thức triển khai giao dịch trực tuyến Nhằm ứng dụng công nghệ hiện đại cho hoạt động giao dịch chứng khoán, nâng cao chất lượng phục vụ các công ty chứng khoán và đáp ứng nhu cầu giao dịch của nhà đầu tư. Giao dịch trực tuyến cho phép hệ thống giao dịch của các công ty chứng khoán thành viên kết nối trực tiếp với hệ thống giao dịch của Sở giao dịch để thực hiện giao dịch chứng khoán, tự động hóa và rút ngắn quá trình nhận lệnh, xử lý và xác nhận giao dịch của nhà đầu tư. Lệnh giao dịch của nhà đầu tư được nhập trực tiếp vào hệ thống của Sở giao dịch thông qua hệ thống máy chủ của công ty chứng khoán, kết quả và thông tin giao dịch được trả tức thời về hệ thống của công ty chứng khoán. Thời gian truyền lệnh được rút ngắn. 5. Về hoạt động thị trường Cũng như bất kỳ thị trường chứng khoán tập trung nào khác, Trung tâm giao dịch chứng khoán của Việt Nam thực hiện các hoạt động liên quan đến giao dịch chứng khoán. Nhiệm vụ mang tính đặc trưng của bất kỳ một thị trường chứng khoán tập trung nào là phải thực hiện hoạt động niêm yết, giao dịch và đăng ký chứng khoán. Chính nội dung này giúp cho bất kỳ người quan tâm nào cũng phân biệt thị trường tập trung với các loại thị trường khác. Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không nằm ngoài đặc trưng đó và nó đã được pháp luật quy định cụ thể. 6. Nhược điểm của thị trường chứng khoán a. Yếu tố đầu cơ. Đầu cơ là yếu tố có tính toán của người chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu ngay với hy vọng giá cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai và thu hồi được lợi nhuận trong từng thương vụ. Yếu tố này gây ảnh hưởng lan truyền làm cho giá cổ phiếu có thể tăng giả tạo. Tuy nhiên thị trường không cấm yếu tố này. Nhà đầu tư khi đầu tư vào cổ phiếu sẽ có ba mặt lợi: Một là được chia cổ tức hàng năm (hàng quý...); hai là được hưởng giá trị cổ phần gia tăng do công ty hoạt động tốt có lợi nhuận và có tích lũy nội, đến một lúc nào đó công ty nhập quỹ tích lũy vào vốn điều lệ thì người đầu tư được tăng thêm số lượng cổ phần; ba là được hưởng lợi do chênh lệch giá mua bán cổ phiếu. Nhà đầu tư cổ phiếu khi tham gia tích cực mua đi bán lại cổ phiếu để kiếm lợi nhuận chênh lệch giá, lúc đó họ trở thành những người kinh doanh chứng khoán. Người kinh doanh chứng khoán ít quan tâm đến mặt lợi nhuận thứ nhất và thứ hai như đã đề cập. Người kinh doanh chứng khoán sẽ mua vào khi có dấu hiệu giá lên, sẽ bán ra khi có dấu hiệu giá cổ phiếu hạ. Do đó hoạt động của nhà kinh doanh chứng khoán gắn liền với hoạt động đầu cơ chứng khoán. Đầu cơ chứng khoán được công nhận thì thị trường chứng khoán mới hoạt động sôi nổi liên tục. Nhìn chung thị trường chứng khoán (TTCK) phải chấp nhận đầu cơ.Nhưng có những hành động đầu cơ bị cấm. Những hành động đầu cơ bị cấm đó là: Tính chất: Là hành động nhằm tạo ra sức ép lớn về quan hệ cung cầu một loại chứng khoán nào đó trên thị trường dẫn đến hình thành một giá chứng khoán không giống với giá tồn tại bình thường, có lợi cho người đầu cơ, gây thiệt hại cho những người khác. Mục tiêu: Tạo nên một giá giả tạo nhằm: tìm cách nâng giá lên rồi bán tống bán tháo số chứng khoán cho người mua; giữ giá ổn định ở một mức cao hơn giá thực tế của nó để bán (cao hơn giá trị thực tế của cổ phiếu); và tìm cách giảm giá xuống rồi mua chứng khoán về càng nhiều càng tốt. Các hành động đầu cơ, đầu cơ được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, trong đó có các loại chính sau đây: Bán giả, thu hút và hùn vốn. Bán giả: Là những hành động có giao dịch mua bán chứng khoán nhưng không có việc chuyển giao sở hữu chứng khoán. Đó là hành động hai người đâu cơ bày ra những vụ giao dịch, họ đưa ra một giá khác biệt với chiều hướng diễn biến của thị trường mà cả hai đều chấp thuận nhưng không có việc thanh toán chứng khoán và tiền. Một loại hành động khác: một người đầu cơ đưa ra những lệnh phối hợp cho hai người môi giới, ông ta bán cổ phiếu cho người môi giới này, rồi mua lại chính loại cổ phiều đó thông qua người môi giới kia với giá không phù hợp với giá thị trường. Hoặc người đầu cơ bán đi một số chứng khoán nhờ một người khác thân quen có thể tin tưởng được (thường là người trong gia đình hoặc bạn bè thường tin tưởng nhau hơn) đồng lõa mua lại toàn bộ số chứng khoán đó theo giá như các hành động bán ra trên. Mục đích của các hành động này là để kéo giá thị trường tới một mức giả tạo (không phù hợp với chiều hướng và quan hệ cung cầu bình thường trên thị trường) tạo ra cơ hội kiếm lời hoặc để tránh một mức lỗ. Thu hút: Là hành động để đưa hầu hết số cổ phiếu một loại nào đó đang lưu thông trên thị trường tập trung vào một hoặc một vài người, khiến cho thị trường khan hiếm, giá tăng. Khi giá đã lên tới đỉnh điểm, người đầu cơ cho rằng đó là mức lợi tối đa thì họ sẽ bán ra. Họ bán số cổ phiếu của mình và vay cổ phiếu của người khác để bán (bán khống). Thu hút là một hành động rất nguy hiểm đối với những người bán khống trước đó (người đầu cơ trước bằng cách thu hút), vì những người bán khống trước đó đã dến thời hạn cần mua để thanh toán. Hùn vốn: Là hành vi liên kết tạm thời giữa hai hay nhiều người trong một vụ mua bán chứng khoán để cùng mua cho giá tăng lên, để cùng bán cho giá hạ. Khi giá đã tăng lên hoặc hạ xuống đến một điểm tối ưu, một người trong số đó mua vào hoặc bán hết ra. Sự hùn vốn nếu có người "tay trong" là những người đang giữ những vị trí quan trọng có thể tiếp cận hoặc những người nắm rõ thông tin nội bộ nhanh nhất và chính xác nhất để nhận và sử dụng thông tin đó cho nhóm hùn vốn thực hiện mua bán chứng khoán có lợi, thì sự hùn vốn này trở thành vi móc ngoặc. Nhưng tất cả các hành vi đầu cơ nói trên đều bị cấm. Hiện nay Nhà nước đang hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh vấn đề này một cách triệt để. Các nhà đầu tư nước ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong đầu tư và sử dụng cổ phiếu và hạn chế về khối lượng vốn đầu tư.nhà đầu tư cá nhân trong nước thường chạy theo động thái giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài thì hiện nay hầu như tình trạng này không còn. Lý giải về điều này, một nhà đầu tư có thâm niên cho biết, do quan điểm đầu tư khác nhau, nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức lượng vốn lớn và mục tiêu dài hạn hơn thì chọn CP blue-chips là thích hợp. Trong khi đó các nhà đầu tư trong nước đa số là cá nhân thì vốn ít, thích đầu tư ngắn hạn theo kiểu lướt sóng nên sau một thời gian nắm giữ CP bluechips không đạt hiệu quả thì sẽ bán ra... b. Mua bán nội gián. Mua bán nội gián là việc một cá nhân nào đó lợi dụng vị trí công việc của mình, nắm được những thông tin nội bộ của đơn vị phát hành để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình và làm ảnh hưởng tới giá của cổ phiếu trên thị trường. Đây là hành vi phi đạo đức thương mại và bị cấm ở các nước. Tại VN, giao dịch nội gián không phải là vấn đề mới nhưng vẫn luôn nóng bỏng với mức độ ngày càng nghiêm trọng Việc Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN) vừa công bố xử phạt 3 nhà đầu tư (NĐT) cá nhân tổng cộng 165 triệu đồng vì giao dịch nội gián lại dấy lên mối lo về vấn đề này trên thị trường. Đó là trường hợp của bà Đào Thị Kiều, cổ đông nội bộ (chính xác là vợ của ông Nguyễn Tiến Dũng - Tổng giám đốc kiêm thành viên HĐQT) của CTCP Tập đoàn khoáng sản Hamico (KSH). Đây không phải là vụ xử phạt đầu tiên về giao dịch nội gián trên thị trường chứng khoán. Đầu tháng 12.2009, UBCKNN cũng công bố xử phạt ông Trần Công Phước - là nhân viên của CTCP phát triển nhà Thủ Đức (TDH) và ông Phạm Quốc Thắng 50 triệu đồng/người vì đã sử dụng thông tin nội bộ về việc TDH phát hành CP thưởng theo tỷ lệ 2:1 để mua bán... Theo tính toán, giao dịch nội gián kiểu này đã mang lại một khoản lợi nhuận lớn cho những người tham gia, các nhà đầu tư Chịu phạt nhỏ nhưng thu lợi lớn. Số tiền bị xử phạt thì chỉ là "hạt muối bỏ biển", không đủ sức để răn đe chứ chưa nói đến ngăn chặn. Đó hẳn là một nguy cơ lớn nếu không tìm được giải pháp hữu hiệu ngăn chặn trong khi các khoản lợi sẽ tăng theo cấp số nhân mà “vốn + chí phí –tiền xử phạt - nhỏ đến mức đáng sợ so với những gì mà nó đem lại. Dẫu vậy, chế tài để xử lý các hành vi này mới dừng lại ở kiểu đánh trống bỏ dùi. Theo Điều 181b của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự: Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Phạm tội có tổ chức, thu lợi bất chính rất lớn, gây hậu quả nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm thì có thể bị phạt tù từ 2 đến 7 năm.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 đến 150 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định 1 - 5 năm. Hiện tượng cổ đông nội bộ, cổ đông lớn dùng giao dịch nội gián hoặc thao túng giá chứng khoán như trên đã từng làm cho TTCK chao đảo nhiều lần, UBCKNN cũng đã phạt hơn chục vụ nhưng vi phạm ngày càng trầm trọng hơn!? Chủ tịch UBCKNN Vũ Bằng từng thừa nhận việc điều tra, xử phạt hành vi vi phạm trên rất khó. Mức phạt thấp, khung pháp lý chưa đầy đủ, và nhất là giơ cao đánh khẽ đã khiến những vụ thao túng, giao dịch nội gián vẫn có đất sống.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan