Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng tăng huyết áp và yếu tố liên quan ở bệnh nhân tuổi từ 18 35 ở khoa nộ...

Tài liệu Thực trạng tăng huyết áp và yếu tố liên quan ở bệnh nhân tuổi từ 18 35 ở khoa nội tim mạch bệnh viện hữu nghị đa khoa nghệ an

.DOCX
46
1
78

Mô tả:

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA VINH ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÊN ĐỀ TÀI : THỰC TRẠNG TĂNG HUYẾT ÁP VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN TUỔI TỪ 18-35 Ở KHOA NỘI TIM MẠCH BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN HỌ VÀ TÊN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI : Vinh ,tháng 4/2020 Mục lục 0 ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................3 CHƯƠNG I................................................................................................5 TỔNG QUAN TÀI LIỆU...........................................................................5 I.Một số khái niệm liên quan đến nghiên cứu.........................................5 1.Khái niệm về huyết áp và THA.........................................................5 1.1. Huyết áp:.....................................................................................5 1.2. Tăng huyết áp:............................................................................5 2. Phân loại tăng huyết áp.....................................................................5 3. Bệnh học của tăng huyết áp..............................................................6 3.1. Cơ chế bệnh sinh:........................................................................6 3.2. Nguyên nhân...............................................................................8 3.3 Triệu chứng..................................................................................9 3.5. Điều trị:.....................................................................................11 4. Thực trạng tăng huyết áp trên thế giới và Việt Nam......................12 4.1. Thực trạng tăng huyết áp trên thế giới:.....................................12 4.2. Tình hình tăng huyết áp ở Việt Nam.....................................19 II. Một số yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp.....................................22 1. Nhóm yếu tố liên quan đến đặc điểm sinh học...........................22 2. Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được....................................24 3. Các biện pháp dự phòng tăng huyết áp trên thế giới và Việt Nam 29 Chương 2..................................................................................................32 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..............................32 I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.........................................................32 1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................32 2. Địa điểm nghiên cứu.....................................................................33 1 II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................33 1. Thiết kế nghiên cứu......................................................................33 2. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu.....................................................33 Phụ lục 1: Bộ câu hỏi phỏng vấn..............................................................34 Phụ lục 2. Cung cấp về thông tin cho đối tượng tham gia.......................38 Chương 3..................................................................................................39 DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.....................................................39 3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu......................................39 3.2. Một số yếu tô liên quan THA ở người dân trên 18 tuổi.................41 DỰ KIẾN KẾT LUẬN.............................................................................42 KHUYẾN NGHỊ......................................................................................43 Tài liệu tham khảo Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 2 một trong những vấn đề quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng, là bệnh lý tim mạch hay gặp nhất ở hầu hết các nước trên thế giới.Tăng huyết áp được chẩn đoán khi huyết áp tâm thu ≥ 140mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90mmHg. Theo ước tính của tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2016 trên thế giới đã có khoảng 972 triệu người bị tăng huyết áp ( chiếm 26,4% dân số), và có tới 7,5 triệu người tử vong do nguyên nhân trực tiếp là tăng huyết áp . Dự báo đến năm 2025 có khoảng 1,56 người bị tăng huyết áp [1]. Mỗi năm trên thế giới có khoảng 17,5 triệu người tử vong do các bệnh lý về tim mạch. Trong số các trường hợp mắc bệnh và tử vong do tim mạch hằng năm có khoảng 35-40% nguyên nhân tăng huyết áp [2]. Tại Việt Nam, tỉ lệ tăng huyết áp cũng gia tăng nhanh chóng. Kết quả điều tra dịch tễ học của viện tim mạch TW tại 8 tỉnh, thành phố của cả nước năm 2019 cho thấy tỉ lệ người trưởng thành từ 25 tuổi trở lên bị tăng huyết áp là 25,1 % . Theo điều tra quốc gia gần đây (2020) của Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế từ người trưởng thành từ 18-35 tuổi tại 63 tỉnh - thành phố cho thấy tỉ lệ tăng huyết áp là 18,9% [3]. Tăng huyết áp là căn bệnh diễn biến âm thầm, không có dấu hiệu cảnh báo nào. Những dấu hiệu của tăng huyết áp thường không đặc hiệu và người bệnh thường không thấy có gì khác biệt với người bình thường cho đến khi xảy ra tai biến. Vì vậy, tăng huyết áp mà phần lớn không tìm thấy nguyên nhân ( khoảng 95%). Bệnh này đang trở thành mối đe dọa toàn thể nhân loại bởi nhiều biến chứng nguy hiểm như : nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thận mạn, đột quỵ não, suy hô hấp, vỡ mạch máu… có thể để lại các di chứng ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, sức lao động của người bệnh và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội, thậm chí có thể gây tử vong. Mặc dù y học đã chứng minh mức độ phổ biến và nguy hiểm của tăng huyết áp, nhưng cho đến tận bây giờ trong điều trị tăng huyết áp vẫn tồn tại 3 điểm bất hợp lý đó là: tăng huyết áp rất dễ phát hiện (bằng cách đo huyết áp tại nhà khá đơn giản). Tăng huyết áp có thể điều trị được nhưng số người được điều trị không nhiều. Tăng huyết áp có thể khống chế 3 được với mục tiêu mong muốn nhưng số người điều trị đạt được “huyết áp mục tiêu” lại không nhiều. Tăng huyết áp nếu được phát hiện sớm, kịp thời thì việc kiểm soát sẽ rất có hiệu quả và hạn chế được các biến chứng nguy hiểm, giảm nguy cơ tử vong và gánh nặng bệnh tật, chi phí điều trị cho bản thân, gia đình và toàn xã hội. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra một số nguy cơ từ hành vi lối sống có thể dẫn đến bệnh tăng huyết áp ( như hút thuốc lá, thuốc lào, uống rượu ăn uống không hợp lý, lối sống lười vận động thể dục thể thao…),do gen di truyền.Chính vì thế chúng tôi nghiên cứu đề tài này với hai mục tiêu: MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Mục tiêu cụ thể: Mục tiêu 1:Mô tả thực trạng tăng huyết áp ở bệnh nhân 18-35 tuổi ở khoa nội tim mạch Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa tỉnh Nghệ An. Mục tiêu 2:Một số yếu tố liên quan đến tăng huyết áp ở bệnh nhân 18-35 tuổi ở khoa nộitim mạch Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa tỉnh Nghệ An. 4 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1.Một số khái niệm liên quan đến nghiên cứu 2.1.1.Khái niệm về huyết áp và tăng huyết áp 2.1.1.1. Huyết áp -Là áp lực máu cần thiết tác động lên thành động mạch nhằm nuôi dưỡng đến các mô trong cơ thể.Huyết áp thể hiện bằng 2 chỉ số: + HA tâm thu bình thường từ 90-140mmHg + HA tối thiểu (HA tâm trương) bình thường từ 60-90mmHg[4]. 2.1.1.2 Tăng huyết áp: Theo tổ chức y tế thế giới và hội THA quốc tế ( WHO-ISH) định nghĩa THA là khi có HA tâm thu ≥ 140mmHg hoặc HA tâm trương ≥ 90mmHg [4]. 2.2. Bệnh học của tăng huyết áp 2.2.1 Cơ chế bệnh sinh: - Tăng huyết áp nguyên phát: THA nguyên phát chiếm 95% tổng số bệnh nhân tăng huyết áp, cơ chế bệnh sinh của tăng huyết áp nguyên phát chưa rõ ràng, người ta cho rằng một số yếu tố sau có thể gây tăng huyết áp nguyên phát [4]: - Tăng hoạt động thần kinh giao cảm: Khi hệ thần kinh giao :Khi hệ thần kinh giao cảm bị tăng hoạt động sẽ làm tăng hoạt động của tim, dẫn đến tăng cung lượng tim. -Vai trò của natri trong cơ chế bệnh sinh tăng huyết áp: Lượng natri đưa vào cơ thể vượt khả năng đào thải là nguyên nhân làm tăng thể tích tiền tải của tuần 5 hoàn ,dẫn đến tăng cung lượng tim. Người ta thấy các dân tộc không có tập quán ăn mặn thì tỉ lệ mắc bệnh cao huyết áp thấp. Khi các bệnh nhân cao huyết áp hạn chế lượng muối ăn thì huyết áp của họ cũng giảm ,tuy nhiên cần chú ý nếu hạn chế nghiêm ngặt quá có thể gây hạ huyết áp đột ngột . Tuy nhiên trong thực phẩm và chế độ ăn của một số dân tộc chứa natri nhiều hơn nhu cầu hằng ngày nhưng chỉ có một phần nhỏ dân số biểu hiện sự tác hại của lượng muối cao này. Vì vậy có ý kiến cho rằng ,cao huyết áp natri còn liên quan đến khuyết tật di truyền trong bài tiết natri của thận, trong cơ chế bơm natri của màng tế bào. - Tăng huyết áp thứ phát : Khoảng 5% bệnh nhân THA có nguyên nhân rõ ràng [5] - Màng tế bào: cao huyết áp nguyên phát thường có những bất bình thường của màng tế bào, rối loạn khả năng vận chuyển các chất . - Phì đại mạch vành: tế bào cơ trơn của thành mạch bị phì đại do tăng sản xuất các tế bào, rối loạn khả năng vận chuyển các chất. - Trạng thái béo phì, kháng insullin: Những người béo phì (nhất là béo phì nửa trên cơ thể) có tỉ lệ mặc bệnh THA. - U tủy thượng thận: Chiếm 1-2% tổng số bệnh nhân tăng huyết áp thứ phát. - Hẹp eo động mạch chủ: Tăng huyết áp ở phần trước chỗ hẹp và giảm ở phần sau chỗ hẹp. - THA ở phụ nữ mang thai: Bệnh tăng huyết áp xuất hiện hoặc nặng lên khi có thai là một trong những nguyên nhân gây tử vong của người mẹ cũng như thai nhi. - Sử dụng ơstrogen: Sử dụng kéo dài thuốc tránh thai sẽ gây tăng huyết áp vì ơstrogen gây tăng tổng hợp tiền chất renin [5]. 2.2.2Nguyên nhân -Stress (tác nhân gây bệnh): ở những người ăn nhiều natri (do thói quen trong gia đình) khả năng lọc của thận tăng cũng tăng tái hấp thu nước, làm tăng thể tích máu. Màng tế bào có sự tặng thẩm thấu di truyền đối với natri, canxi vào 6 trong tế bào của cơ trơn mạch máu, dẫn đến tăng tính co mạch, tăng sức cản ngoại vi gây tăng huyết áp. -Ăn mặn ,uống rượu bia -Thừa cân béo phì ,lười vận động 2.2.3. Phân loại : Bảng 1.1phân loại huyết áp theo WHO/ISH (2003) [6]. Khái niệm HATT(mmhg) HA tối ưu 70 Và < 80 HA bình thường < 130 và < 85 Tiền THA 130 -139 Và /hoặc 85 -89 THA độ I 140 -149 Và /hoặc 90 -99 THA độ II 160 -179 Và /hoặc 100 -109 THA độ III ≥ 180 Và /hoặc ≥ 100 và < 90 THA tâm thu đơn ≥ 140 HATTR(mmhg) độc 2.2.4Triệu chứng - Nhức đầu - Chảy máu mũi - Vết máu trong mắt hoặc xuất huyết kết mạc - Tê hoặc ngứa ran các chi - Buồn nôn và nôn - Choáng và chóng mặt - Đau tim 2.2.5. Biến chứng của tăng huyết áp 7 Vì tỷ lệ THA tăng nhanh do vậy tỷ lệ các biến chứng của THA cũng ngày càng gia tăng, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sức lao động của người dân trong cộng đồng một cách rất rõ rệt. - Tổn thương ở tim: Suy tim và bệnh mạch vành là hai biến chứng chính và là nguyên nhân tử vong cao nhất đối với THA: thất trái phì đại gây suy tim toàn bộ, suy mạch vành gây nhồi máu cơ tim, phù phổi cấp...[7]. THA thường xuyên sẽ làm cho thất trái to ra, về lâu dài, thất trái bị giãn; khi sức co bóp của tim bị giảm nhiều thì sẽ bị suy tim, lúc đầu suy tim trái rồi suy tim phải và trở thành suy tim toàn bộ. - Tổn thương ở não: Tai biến mạch máu não thường gặp như: nhũn não, chảy máu não ,xuất huyết não có thể tử vong nhanh hoặc để lại di chứng nặng nề. Có thể chỉ gặp tai biến mạch máu não thoáng qua với các triệu chứng thần kinh khu trú không quá 24 giờ hoặc bệnh não do THA với lú lẫn, nhức đầu ,mất ngủ , giảm lao động trí óc ,hay quên ,hôn mê kèm co giật, nôn mửa, nhức đầu dữ dội [7] - Tổn thương ở thận: + Vữa xơ động mạch thận sớm và nhanh. + Xơ thận gây suy thận dần dần. + Hoại tử dạng tơ huyết tiểu động mạch thận gây THA ác tính. + Giai đoạn cuối thiếu máu cục bộ nặng ở thận sẽ dẫn đến nồng độ renin và angiotensin II trong máu tăng gây cường aldosteron thứ phát. - Tổn thương ở mạch máu: THA là yếu tố gây vữa xơ động mạch, phồng động mạch chủ [4]. - Tổn thương ở mắt: Soi đáy mắt có thể thấy tổn thương đáy mắt. Theo KeithWagener Barker có 4 giai đoạn tổn thương đáy mắt. + Giai đoạn I: Tiểu động mạch cứng và bóng. + Giai đoạn II: Tiểu động mạch hẹp có dấu hiệu bắt chéo (dấu Gunn). + Giai đoạn III: Xuất huyết và xuất tiết võng + Giai đoạn IV: Phù lan toả gai thị 8 2.2.6. Điều trị: -Để bệnh nhân nghỉ ngơi tránh xúc động -Chế độ ăn hợp lý, đảm bảo đủ kali và các yếu tố vi lượng, giảm ăn mặn, tăng cường rau xanh, hoa quả tươi, tánh dùng chất gây kích thích. - Tích cực kiểm soát cân nếu quá cân, duy trì cân nặng lý tưởng với chỉ số khối cơ thể BMI từ 18,5 đến 22,9 kg/m2. Duy trì vòng bụng dưới 90 cm ở nam và dưới 80 cm ở nữ - Hạn chế uống rượu bia - Ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá, thuốc là -kiểm tra huyết áp thường xuyen để có thái độ xử trí kịp thời. - Ăn nhiều rau và trái cây : thực phẩm từ thực vật cũng làm giảm THA , đó là nhờ chất xơ trong trái cây và các chất chống oxi hóa như vitaminC .Các nhà chuyên gia dinh dưỡng đã đưa ra một bản đề nghị dùng nhiều loại rau ,trái cây, các loại hạt khác. Tỏi,rau cần tây ,mướp đắng , đã được dân gian dùng từ ngàn năm để chữa THA vì tính lợi tiểu của thực phẩm này [5]. - Bệnh nhân THA nên cần cung cấp đủ kali (khoảng 90mmol/ngày) chủ yếu từ trái cây tươi rau .Nếu kali máu giảm do dùng lợi tiểu nên bù kali bằng đường uống hoặc dùng lợi tiểu tiết kiệm kali [5] - Tăng cường hoạt động thể lực ở mức thích hợp: tập thể dục, đi bộ hoặc vận động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30-60 phút mỗi ngày - Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh, cần thư giãn, nghỉ ngơi hợp lý - Tránh bị lạnh đột ngột - Điều trị các bệnh là nguyên nhân gây tăng huyết áp 9 2.3. Thực trạng tăng huyết áp trên thế giới và Việt Nam 1.3.1 Thực trạng tăng huyết áp trên thế giới: Trên thế giới tần suất mắc THA vẫn không ngừng gia tăng từng ngày . Trên toàn cầu hiện nay có khoảng 1 tỷ người bị THA và dự kiến tăng lên 1,5 tỉ người vào năm 2025.THA là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong sớm cho khoảng 10 triệu người năm 2025 ,trong đó 4,9 triệu người do bệnh mạch vành và 3,5 triệu người do đột quỵ .Nó cũng là yếu tố nguy cơ chính của bệnh suy tim ,rung nhĩ ,bệnh máu ngoại vi,bệnh thận mạn tính...[9]. Từ năm 2018, các báo cáo quốc gia đã chỉ ra rằng tỷ lệ tăng huyết áp đang gia tăng ở các nước thu nhập thấp và trung bình, trong khi đó là ổn định hoặc giảm ở các nước thu nhập cao và THA là một thách thức quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới. Phòng ngừa, phát hiện, điều trị và kiểm soát tình trạng này nên được ưu tiên cao[10]. Tuy nhiên, các ước tính hiện tại về gánh nặng do tăng huyết áp gây nên vẫn là mối quan ngại đối với sức khỏe cộng đồng ở tất cả các khu vực trên thế giới. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hiện nay bệnh tim mạch đang là nguyên nhân hàng đầu của tử vong không những ở các quốc gia đã phát triển mà ngay cả quốc gia đang phát triển. Tử vong do bệnh tim mạch chiếm 1/3 tử vong chung của toàn thế giới (17/50 triệu ca tử vong) trong đó 80% tập trung ở các quốc gia đang phát triển. Một trong những yếu tố nguy cơ tim mạch chính đã được khẳng định là THA, tỷ lệ THA trên thế giới từ 10- 30% đối với người trên 18 tuổi. Tăng huyết áp đã ảnh hưởng đến một tỷ người trên toàn thế giới, dẫn đến các cơn đau tim và đột quỵ. Các nhà nghiên cứu ước tính rằng huyết áp tăng lên hiện nay giết chết khoảng 9,4 triệu người mỗi năm. Trước sự gia tăng và tác động to lớn của THA, WHO (2018 ) đã có báo cáo toàn cầu về tăng huyết áp: “Kẻ sát nhân thầm lặng, cuộc khủng hoảng sức khoẻ cộng đồng toàn cầu”, vào đầu thế kỷ 21, THA là một vấn đề y tế công cộng toàn cầu. Theo đó, người lớn trên thế giới có tỷ lệ THA là 28,5% (27,3- 29,7%) ở các nước thu nhập cao và 31,5% (30,2 - 32,9%) ở các nước thu nhập thấp và trung 10 bình. Từ năm 2017 đến 2020, tỷ lệ THA chuẩn hóa theo tuổi đã giảm 2,6% ở các nước có thu nhập cao nhưng tăng 7,7% ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Trong cùng thời kỳ, tỷ lệ nhận thức (58,2% so với 67,0%), điều trị (44,5% so với 55,6%99), và kiểm soát (17,9% so với 28,4%) tăng đáng kể ở các nước thu nhập cao, trong khi nhận thức (32,3% so với 37,9%) và điều trị (24,9% so với 29,0%) tăng ít hơn, và kiểm soát (8,4% so với 7,7%) thậm chí giảm nhẹ ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Tài liệu này cũng hướng dẫn để bệnh nhân THA có thể phòng ngừa và điều trị được và làm thế nào để các chính phủ, nhân viên y tế, khu vực tư nhân, gia đình và cá nhân cùng hợp sức để giảm sự tăng huyết áp và tác động của nó. Nghiên cứu khác của tác giả Lin H và cộng sự tại Trung Quốc năm 2017 về đánh giá tỷ lệ mắc các BKLN ở nhóm tuổi trung niên và người già cho kết quả tỉ lệ THA chiếm tỷ lệ cao nhất (55,3%),sau đó là rối loạn lypid máu (35,5%),tiểu đường (21,9%),béo phì (12,4%) và loãng xương( 9,3% ) [11].THA có mối quan hệ chặt chẽ với độ tuổi ,tuổi càng cao thì tỷ lệ măc THA càng lớn .Và nếu lỉ lệ dân số tuổi càng cao thì sẽ càng thêm gánh nặng bệnh THA [3].Năm 2017 ,tỷ lệ bị THA ở người đức trong nhóm tuổi 20-79 tuổi là 15,9% và tỷ lệ ở Anh là 10,4%,trong đó ở nhóm tuổi 40-49 sấp xỉ 20% và nhóm trên 60 tuổi tăng lên 40 -45% [12]. Các nghiên cứu trên thế giới đồng thời chỉ ra có sự khác biệt về tỷ lệ mắc THA ở giới nam và nữ ,nam giới thường có tỉ lệ mặc bệnh cao hơn.Theo báo cáo của hiệp hội Tim Mạch Hoa Kỳ năm 2016 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh THA với nhóm tuổi 18-35 và nữ lần lượt là 8,6% và 6,2% ,0wr nhóm tuổi 35-45 đã tăng lên là 22,6% và 18,3%và nhóm trên 65 tuổi tỷ lệ này là 67,8% và 62%. Theo Norm R. Campbell, Tej Khalsa và cộng sự (2016), THA là yếu tố nguy cơ hàng đầu đối với tử vong và tàn tật trên toàn cầu, là nguyên nhân gây ra khoảng 10,3 triệu người chết và 2018 triệu người tàn tật năm 2018. Cứ 10 người lớn trên 25 tuổi thì có khoảng 4 người mắc THA, và ước tính 9 trong số 10 người lớn sống đến 80 tuổi sẽ bị THA. Hai phần ba số người bị THA là ở các nước đang phát triển [9]. 11 Ở Ấn Độ (năm 2018), tác giả Anchala, Raghupathy và cộng sự tiến hành một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp về sự phổ biến, nâng cao nhận thức, và kiểm soát tăng huyết áp đối với người lớn (≥18 tuổi) tại một số vùng nông thôn và thành thị của Ấn độ. Qua tổng hợp 142 bài viết trong tổng số 3.047 bài viết, kết quả cho thấy tỷ lệ THA chung của Ấn Độ là 29%, nông thôn 25% và thành thị là 33%. Trong số này, 25% người dân ở nông thôn và 42% người dân ở đô thị nhận thức được tình trạng THA của họ. Chỉ có 25% người THA ở nông thôn và 8% người THA ở đô thị đang được điều trị THA. Tỷ lệ đạt huyết áp mục tiêu ở người THA thuộc khu vực nông thôn và khu vực đô thị lần lượt là 10% và 20% [4]. Một điều tra về sự phổ biến, nâng cao nhận thức, điều trị và kiểm soát tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ liên quan trong dân số trưởng thành ở Bangladesh (2016) trên mẫu đại diện là 7.876 người tuổi từ 35 tuổi trở lên, sử dụng mô hình hồi quy logistic để xác định các yếu tố nguy cơ đối với nhận thức, điều trị và kiểm soát THA. Tại Rumani các tác giả tổ chức hai cuộc điều tra cắt ngang cách nhau 7 năm, cuộc thứ nhất với 2.017 cá nhân tuổi từ 18-85, tỷ lệ tham gia nghiên cứu 45%, cuộc thứ hai với 1.975 cá nhân tuổi từ 18-80, tỷ lệ tham gia nghiên cứu 69%, bằng cách phỏng vấn theo bộ câu hỏi, đo huyết áp và các số đo nhân trắc học trong hai nghiên cứu. Tỷ lệ THA ở Rumani là 40,41%, nhận thức đúng về THA là 69,55%, trong đó với 59,15% cá nhân THA được điều trị, tỷ lệ kiểm soát được HA là 25%. Qua 7 năm, đã giảm 10,7% về tỷ lệ THA, gia tăng 57% trong nhận thức của THA và tăng 52% trong điều trị tăng huyết áp, dẫn đến gần như tăng gấp đôi tỷ lệ kiểm soát của THA . Một nghiên cứu tại Thổ Nhĩ kỳ (2017), các tác giả tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá dịch tễ học hiện tại của tăng huyết áp, bao gồm mức độ phổ biến của nó, nhận thức, điều trị và kiểm soát huyết áp để đánh giá những thay đổi trong các yếu tố này trong 10 năm qua bằng cách so sánh kết quả với sự phổ biến, nâng cao nhận thức, điều trị và kiểm soát tăng huyết áp ở Thổ Nhĩ Kỳ từ dữ liệu nghiên cứu năm 2018, cũng như đánh giá các thông số ảnh hưởng đến nhận thức 12 và kiểm soát huyết áp. Kết quả: Mặc dù tỷ lệ THA ở 2 cuộc điều tra đã ổn định ở mức khoảng 30%, song nhận thức về THA, điều trị và tỷ lệ kiểm soát THA đã được cải thiện ở Thổ Nhĩ Kỳ. Nhìn chung, 54,7% bệnh nhân THA đã nhận thức chẩn đoán của họ trong năm 2016 so với 40,7% trong năm 2019. Tỷ lệ điều trị tăng huyết áp tăng từ 1,1% năm 2016 lên 47,4% vào năm 2021, và tỷ lệ kiểm soát ở bệnh nhân THA tăng từ 8,1% năm 2016 lên 28,7% trong năm 2021. Tỷ lệ kiểm soát THA ở bệnh nhân điều trị được cải thiện giữa năm 2016 (20,7%) và đang được điều trị hoặc điều trị không đầy đủ ở Thổ Nhĩ Kỳ . .Nghiên cứu của các tác giả Norm Campbell, Pedro Ordunez và cộng sự (2017): Thực hiện các chỉ số hiệu suất được chuẩn hóa để cải thiện kiểm soát huyết áp ở cả cấp độ dân cư và tổ chức chăm sóc sức khoẻ, các tác giả đã đưa 8 ra các khuyến nghị sửa đổi từ cuộc họp của chuyên gia về Tổ chức Y tế Hoa Kỳ về "các chỉ số hoạt động" được sử dụng để đánh giá các thực hành lâm sàng. Như vậy, quản lý huyết áp sẽ vẫn là vấn đề sức khoẻ quan trọng trên toàn cầu và các kết quả đo lâm sàng là một thành phần quan trọng để hiểu gánh nặng toàn cầu và đánh giá tác động của các can thiệp . Các tác giả Tej K. Khalsa, Norm R.C. Campbell và cộng sự (2017) tiến hành Đánh giá Nhu cầu các Tổ chức THA Quốc gia Châu Phi Tiểu vùng Sahara, về các chương trình phòng ngừa và kiểm soát THA cho thấy: Ở khu vực Châu Phi, THA là một trong những gánh nặng bệnh tật lớn nhất, với tỷ lệ hiện mắc THA ở người lớn trên 25 tuổi là 46% và tỷ lệ THA đang gia tăng ở hầu hết các quốc gia ở Châu Phi vùng hạ Sahara [4] . Theo tác giả Sarki, Ahmed M. MSc và cộng sự (2016), áo cáo đánh giá về phòng, chống THA ở châu Mỹ Latinh và vùng Caribê. Qua báo cáo cho thấy gánh nặng đối với bệnh tim mạch chiếm 29% số ca tử vong và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở tất cả các nước (Haiti, Bolivia, và Nicaragua). Mỗi năm, có khoảng 1,6 triệu người chết do các bệnh này ở khu vực này, nửa triệu người trong số họ chết trước 70 tuổi. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ chính cho ệnh tim thiếu máu cục bộ và bệnh mạch não, ảnh hưởng từ 20% đến 40% người lớn trong khu vực này. Ở Châu Mỹ Latinh và Caribê, một khu vực có sự chênh lệch 13 về kinh tế xã hội và các quốc gia ở các giai đoạn khác nhau của quá trình chuyển đổi dịch tễ, việc phòng ngừa và kiểm soát THA đã được ưu tiên nhưng khá không đồng đều [14]. Diễn đàn inh tế Thế giới dự áo, đến năm 2025, gần ba phần tư người bị THA sẽ sống ở các nước đang phát triển. Diễn đàn này cũng mô tả các NCD như là mối đe dọa lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế, dự báo một sự mất mát tích lũy trong sản lượng kinh tế toàn cầu là 47 nghìn tỷ USD, hay 5% tổng sản phẩm quốc nội vào năm 2030. 2.3.2Tình hình tăng huyết áp ở Việt Nam Tại Việt Nam (2016), tỷ lệ tăng huyết áp chung là 25,1% ,ở nam là 28,3% và 23,1% ở nữ. Trong số THA có 48,4% đã biết về tình trạng THA của họ, 29,6% đã điều trị và 10,7% đạt được huyết áp mục tiêu .Tăng huyết áp ở thành thị 32,7% cao hơn đáng kể so với nông thôn 17,3%.Trong số những người đã biết bị THA ,có 61,1% đã điều trị và trong số các bệnh tăng HA được điều trị có 6,3% đã kiểm soát tốt. Như vậy ,THA là một vấn đề sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam .Tỷ lệ THA trong số người lớn là khá cao ,trong khi tỷ lệ nhận thức đúng ,tham gia điều trị và kiểm soát THA còn thấp .Việt Nam cần thiết để xây dựng chiến lược quốc gia để cải thiện công tác phòng chống và kiểm soát THA. Theo thông báo của Bộ Y tế tại Hội nghị về công tác phòng chống bệnh không lây nhiễm ,ở Việt Nam các BKLN dã chiếm đến 66% tổng gánh nặng bệnh tật và 73% tổng số ca tử vong hằng năm . Có đến 60% người mắc THA chưa được phát hiện bệnh ,chỉ có 14% bệnh nhân THA và gần 10% người có nguy cơ tim mạch được quản lí ,dự phòng và dùng thuốc theo quy định, có một tỷ lệ lớn về THA được phát hiện tình cờ qua các cuộc điều tra ,tình trạng bỏ sót chẩn đoán THA đã và đang xảy ra.Cùng với sự gia tăng các yếu tố nguy cơ thì tỷ lệ người mắc bệnh được phát hiện và quản lí tại cộng đồng còn rất thấp. Nghiên cứu của tác giả Phạm Gia Khải và Cộng sự (2016) so sánh tỷ lệ mắc THA ở người dân từ 25 tuổi trở lên giữa vùng thành thị và nông thôn các tỉnh 14 phía Bắc Việt Nam, cho thấy tỷ lệ mắc bệnh THA ở thành thị nhiều hơn nông thôn, ở vùng thành thị tỷ lệ THA là 22,7%, còn nông thôn là 12,3% [16]. Nghiên cứu của Lê Anh Tuấn (2016) ở nội thành và ngoại thành Hà Nội là 16,17% [17]. Nghiên cứu của Cao Thị Yến Thanh, Nguyễn Công Khẩn, Đăng Tuấn Đạt (2016) ở người từ 25 tuổi trở lên tại tỉnh Đắc Lắc là 17,5% . Cũng theo nghiên cứu của Phạm Hùng Lực, Lê Thế Thự (2018) với đối tượng từ 15 đến 75 tuổi ở đồng bằng sông Cửu Long cho thấy tỷ lệ THA là 14,9% ,nghiên cứu ở người dân tộc thiểu sống ở thị xã Kon Tum và khu vực xung quanh thị xã của Đào Duy An (2016) là 12,54% [14] và nghiên cứu của Lại Đức Trường (2018) ở Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp ở người trưởng thành từ 25 - 64 tuổi là 17,8% [13]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Gia Khải (2016) nghiên cứu ở các tỉnh phía Bắc và địa bàn thành phố Hà Nội , nghiên cứu của Đào Duy An ở Kon Tum (2016) , Cao Thị Yến Thanh ở Đắc Lắc (2018) và Lại Đức Trường (2020) ở Thái Nguyên cho thấy kết quả tăng huyết áp chủ yếu tập trung ở mức độ I. Nghiên cứu của Đỗ Thị Phương Hà (2016), tiến hành điều tra ở người trưởng thành thừa cân từ 25 - 64 tuổi năm 2017 cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp là 25,2% và tăng huyết áp ở vùng thành thị (26,9%) chiếm tỷ lệ cao hơn vùng nông thôn (25,0%) . Có sự chênh lệch giữa các nghiên cứu là do các nghiên cứu ở các vùng địa lý, kinh tế, xã hội khác nhau và vào thời điểm khác nhau. Môi trường sống, thời tiết, khí hậu, công việc, thu nhập đều ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật [18] Năm 2019, kết quả điều tra của Viện Tim mạch Quốc gia trên 8 tỉnh ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam cho thấy tỷ lệ THA ở người trưởng thành từ 25 13 tuổi trở lên là 25,1% (trong số đó, tỷ lệ người được điều trị THA vẫn thấp, chỉ chiếm 34,2% và tỷ lệ kiểm soát tốt chỉ đạt 11,0%) [19].Từ kết quả của các nghiên cứu trên cho thấy, tỷ lệ tăng huyết áp còn ở mức cao do vậy vấn đề phát hiện, quản lý và điều trị THA cần phải được quan tâm hơn nữa. Tăng huyết áp nếu được can thiệp kịp thời thì có thể làm giảm tỷ lệ và hạn chế những biến chứng của tăng huyết áp. 15 2.4.Một số yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp Khoảng dưới 5% các trường hợp tăng huyết áp tìm thấy nguyên nhân và được gọi là tăng huyết áp triệu chứng (tăng huyết áp thứ phát). THA thứ phát cần được chú ý tìm nguyên nhân cụ thể để có hướng điều trị hợp lý. Khoảng 95% các bệnh nhân bị THA là không rõ nguyên nhân (còn gọi là THA nguyên phát). Tuy nhiên các nhà khoa học đã nhận thấy có một số yếu tố nguy cơ liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến bệnh THA. Theo Liên ủy ban quốc gia Hoa Kỳ gồm các yếu tố nguy cơ sau: 2.4.1Nhóm yếu tố liên quan đến đặc điểm sinh học - Tuổi:Tuổi có mối liên quan chặt chẽ đến tăng huyết áp .Tuổi càng cao thì tỉ lệ THA càng nhiều do thành động mạch bị lão hóa và xơ vữa ,giảm tính đàn hồi ,trở nên cứng hơn ,làm cho HA tối đa và HA tâm thu tăng cao hơn , goi là THA tâm thu đơn thuần[7]. - Giới tính: Trước 45 tuổi thì nam giới có nguy cơ tăng huyết áp cao hơn nữ, nhưng từ 65 tuổi trở đi sẽ ảnh hưởng đến nữ nhiều hơn nam (có thể do đã mãn kinh). Và còn 1 điều nữa là, nam giới dưới 55 tuổi không kiểm soát huyết áp được như nữ giới nhưng từ 65 tuổi trở lên thì nữ giới lại không kiểm soát được huyết áp bằng nam giới. - Chủng tộc: Tăng huyết áp có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai. Tuy nhiên có những nghiên cứu cho thấy những người Mỹ gốc Phi có nguy cơ tăng huyết áp và tử vong do các biến chứng của tăng huyết áp cao hơn những người Mỹ da trắng [4]. - Yếu tố di truyền: Tiền sử gia đình có người cùng huyết thống bị THA, nhất là trực hệ (bố, mẹ, anh chị, em ruột). Mọi người trong gia đình có thể kế thừa gen làm cho họ nhiều khả năng để phát triển tình trạng này. Điều tra phả hệ những gia đình có tăng huyết áp chiếm 50%, có nhiều gen chi phối quá trình điều hòa huyết áp. Ví dụ, trong gia đình nếu ông, bà, cha, mẹ bị bệnh THA thì con cái có nguy cơ mắc THA nhiều hơn. Nghiên cứu của Yeon Hwan Park, Misoon Song (2016) thấy rằng, tỷ lệ chênh lệch THA là 2,38 lần khi có bố hoặc mẹ THA và 16 tăng lên 6,49 lần khi có cả bố và mẹ THA. Nguy cơ này độc lập với yếu tố nguy cơ khác và yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng[4]. Nhóm yếu tố này mặc dù không loại bỏ được nhưng nếu có hiểu biết đầy đủ về bệnh THA người dân có thể tăng cường thực hành các thói quen, lối sống có lợi để dự phòng THA và các biến chứng của THA. 2.4.2.Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được - Ăn mặn: Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy chế độ ăn nhiều muối thì tần suất mắc bệnh THA tăng cao rõ rệt. Nhiều bệnh nhân THA ở mức độ nhẹ chỉ cần ăn chế độ giảm muối là có thể kiểm soát được bệnh THA . Muốn sống được, cơ thể con người ta cần có muối. Tuy nhiên ăn quá nhiều muối sẽ làm ứ nước trong cơ thể, tăng khối lượng tuần hoàn khiến huyết áp cũng tăng lên và nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Một số nghiên cứu điều tra khẩu phần ăn từng vùng, các nhà nghiên cứu thấy rằng vùng nào ăn nhiều muối thì có tỷ lệ tăng huyết áp cao hơn. Như vậy, lượng muối ăn hàng ngày quá cao là một nguyên nhân gây tăng huyết áp trong các quần thể. Các thử nghiệm cho thấy rằng ăn nhiều muối (trên 14g/ngày) sẽ gây tăng huyết áp; trong khi ăn ít muối (dưới 1g/ngày) gây giảm huyết áp động mạch[5] . - Thừa cân ,béo phì: trọng lượng của cơ thể con người có mối quan hệ khá tương đồng với bệnh THA .Người béo phì hoặc người có trọng lượng cơ thể theo tuổi cũng có thể làm tăng huyết áp .Vì vậy chế dộ làm việc ,ăn uống hợp lí, luyện tập thể dục thể thao thường xuyên tránh được việc dư thừa trọng lượng cơ thể[4],[5] Đánh giá và phân loại BMI theo tiêu chuẩn của WHO: Bảng 1.2 .Phân loại BMI theo WHO [2] Phânloại Gầy Bình thường Thừa cân Tiền béo phì Béo phì độ 1 Béo phì độ 2 Giá trị BMI <18,5 18,5 - 24,9 ≥ 25 25 - 25,9 30 - 34,9 35 - 39,9 17 ≥ 40 Béo phì độ 3 Đánh giá và phân loại BMI dành riêng cho người châu á: Bảng 1.3 phân loại BMI dành cho người châu á theo IDI/WPRO [8]. Phân loại Gầy Bình thường Thừa cân Tiền béo phì Béo phì độ 1 Béo phì độ 2 Giá trị BMI <18,5 18,5 - 22.9 23 23 - 24,9 25 - 29,9 ≥ 30 Tăng cân làm tăng tần suất mới mắc THA . Người có chỉ số cơ thể (BMI) là 23 hoặc cao hơn có nguy cơ bị tăng huyết áp cao hơn. - Hút thuốc lá, thuốc lào: Trong thuốc lá, thuốc lào có nhiều chất kích thích đặc biệt có chất nicotin kích thích hệ thần kinh giao cảm làm co mạch và gây THA . Hút thuốc lá trên 10 điếu/ngày liên tục trong 3 năm là nguy cơ gây tăng huyết áp. Hút thuốc làm tổn thương các mạch máu và tăng tốc độ xơ cứng động mạch. Hơn nữa, hút thuốc là một nguy cơ chính gây bệnh tim mạch và đột quỵ. Khói thuốc lá chứa hơn 4000 loại hoá chất. Trong đó có hơn 200 loại hoá chất có hại cho sức khoẻ. Nicotin là chất có trong thuốc lá. Nicotin được hấp thụ qua da, niêm mạc miệng, mũi hoặc hít vào phổi. Khi hút một điếu thuốc, người hút đưa vào cơ thể từ 1 đến 2 mg nicotin. Nicotin có tác dụng chủ yếu làm co mạch ngoại biên, làm tăng nồng độ serotonin, catecholamin ở não, tuyến thượng thận làm tăng huyết áp [9]. Hút một điếu thuốc lá, huyết áp tâm thu có thể tăng lên tới 11 mmHg, huyết áp tâm trương tăng lên đến 9 mmHg, kéo dài 20 - 30 phút. Hút thuốc nhiều có thể có cơn tăng huyết áp kịch phát [9]. Một nghiên cứu trên công nhân viên nhà máy thuốc lá, nơi chịu đựng bụi và khói thuốc lá nhiều thấy tỷ lệ bệnh tăng huyết áp cao hơn rõ rệt [10]. - Uống nhiều bia ,rượu : người uống nhiều bia,rượu quá mức cũng là yếu tố nguy cơ gây bệnh tim mạch nói chung và bệnh THA nói riêng. Đối với những người phải dùng thuốc để điều trị THA,việc uống rượu,biaquá mức hoặc người bị nghiện rượu sẽ làm mất tác dụng của thuốc hạ HA . Như vậy làm cho bệnh 18 THA càng trở nên nặng hơn. Ngoài ra việc uống ,rượu bia quá mức còn gây bệnh xơ ganvà các tổn thương thần kinh nặng nề khác .Từ đó gián tiếp làm THA. Vì cậy ,không nên uống rượu bia quá mức thì có thể phòng được bệnh THA. Hằng ngày ,mỗi người có thể ướng được khoảng 300ml bia hoặc 30ml rượu mạnh hay 50ml rượu vang . - Ít hoạt động thể lực (lối sống tĩnh tại): Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả, thói quen sống tĩnh tại rất nguy hại đối với hệ tim mạch. Nhưng nếu tăng cường vận động thể lực vừa sức hằng ngày đều đặn mang lại lợi ích rõ rệt trong giảm nguy cơ bệnh tim mạch nói chung và bệnh THA nói riêng. Hoạt động thể lực bao gồm các hoạt động thường ngày và tập luyện thể dục thể thao. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, hoạt động đều đặn 30 phút/ngày với cường độ trung bình, ít nhất 5 ngày/tuần, tức 150 phút/tuần hoặc với cường độ cao ít nhất 75 phút/tuần. Không nên ngừng tập 3 ngày liên tiếp trong một tuần [11]. Hoạt động thể lực đúng mức đều đặn được coi như một liệu pháp hiện đại để dự phòng THA, ít vận động được coi là nguyên nhân của 5 - 13% các trường hợp THA hiện nay . - Căng thẳng ,lo âu quá mức: nhiều nghiên cứu đã chứng minh được những người bị căng thẳng thần kinh, lo âu quá mức hay bị stress sẽ làm tăng nhịp tim .Vì vậy, mỗi người cần rèn luyện cho mình tính tự lập ,kiên nhẫn và luôn luôn biết làm chủ bản thân trước mọi vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Nếu thực hiện được vấn đề này thì có thể hạn chế tối đa những căng thẳng, lo âu, stress xảy ra đối với mình, đồng thời đây cũng chính là một biện pháp phòng bệnh THA.[6]. - Các bệnh liên quan đến tăng huyết áp +Người mặc bệnh đái tháo đường có nguy cơ cao huyết áp hơn người bình thường. Những yếu tố của bệnh tiểu đường có thể làm tăng huyết áp:  Làm giảm khả năng co dãn của mạch máu  Tăng lượng máu lưu thông trong cơ thể  Thay đổi cách cơ thể quản lý insulin 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan