LỜI MỞ ĐẦU
Nghề dệt may đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu đời nay. Xuất
phát điểm từ những hoạt động sản xuất cá thể, hộ gia đình rồi tới
các làng nghề thủ công. Ngày nay nghề dệt may đã trở thành một
ngành kinh tế kỹ thuật lớn mạnh, đã thực sự khẳng định vị trí quan
trọng của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Hiện tại, ngành có tìm lực phát triển khá mạnh, giá trị sản
xuất công nghiệp của ngành chiếm bình quân trên 9% giá trị sản
xuất toàn ngành công nghiệp, chiếm 2% GDP cả nước. Kim ngạch
xuất khẩu năm 2001 đã đạt 2,15 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,75 tỷ
USD, chiếm 14% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước. Ngành
đã tạo việc làm cho gần 2 triệu lao động công nghiệp.
Bàn về vấn đề xuất khẩu của ngành may Việt Nam hiện nay thì
xuất khẩu được thực hiện chủ yếu bằng phương thức gia công. Giá
trị hàng hóa thực hiện theo phương thức này trong những năm qua
dao động trong khoảng 60-70% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn
ngành dệt may. Nguyên liệu và phụ liệu do các doanh nghiệp trong
nước sản xuất và cung ứng cho may xuất khẩu hết sức hạn hẹp.
Việc không đảm bảo đủ nguyên liệu, thậm chí cả phụ liệu mà phải
nhận từ khách hàng không chỉ làm cho các doanh nghiệp may Việt
Nam bị động trong tổ chức sản xuất mà làm cho hiệu quả quá trình
sản xuất kém, giá trị gia tăng thấp. Do vậy, để ngành may tiếp tục
1
tăng tốc như thời gian qua thì việc tăng giá trị gia tăng là vấn đề có
ý nghĩa sống còn.Muốn vậy, các doanh nghiệp may phải dần lấy lại
được tính chủ động trong việc tổ chức sản xuất hay nói cách khác,
các doanh nghiệp may cần xem xét việc hoàn thiện phương thức
gia công xuất khẩu, kể cả có nên thay đổi phương thức xuất khẩu
của ngành.
CHƯƠNG I:TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VÀ CÁC
PHƯƠNG THỨC XUẤT KHẨU
1.1:Lịch sử phát triển và khái quát ngành dệt may Việt Nam
hiện nay
1.1.1:Lịch sử phát triển của ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may là một trong những ngành công nghiệp có lịch
sử phát triển lâu đời ở Việt Nam. Đặc biệt ngành dệt sợi có từ lâu
và phát triển mạnh trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ. Trước khi
thực dân Pháp xâm lược Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất
vải tại Việt Nam sử dụng sợi nhập khẩu. Thực dân Pháp đã tăng
thuế nhập khẩu sợi làm cho sản xuất vải tại Việt Nam gặp nhiều
khó khăn. Nhưng trong thời kỳ này nhiều nhà máy dệt hiện đại do
Pháp đầu tư đã được thành lập. Năm 1889, nhà máy dệt đầu tiên tại
Việt Nam được Pháp xây dựng tại Nam Định, tiếp theo là năm
1894 tại Hà Nội và sau đó tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà máy
2
hợp nhất thành “Công ty dệt vải Đông Kinh”. Chính phủ thực dân
Pháp thu được nhiều lợi nhuận từ việc kinh doanh độc quyền
ngành này.
Sau đại chiến thế giới thứ 2, ngành dệt may Việt Nam có
những bước phát triển đáng kể. Vào thời gian đó, các doanh nghiệp
dệt ở Miền Bắc nhập máy móc thiết bị dệt sợi từ Trung Quốc, Liên
Xô củ, các nước Đông Âu, còn các doanh nghiệp ở Miền Nam
nhập từ các nước phương tây để đẩy mạnh sản xuất hàng dệt may.
Năm 1975 sau khi Việt Nam thống nhất các doanh nghiệp dệt may
quy mô lớn của miền Nam được quốc hửu hoá và được đưa vào hệ
thống kinh tế bao cấp. Uỷ ban kế hoạch nhà nước giao chỉ tiêu sản
xuất cho các doanh nghiệp dệt, nhuộm, may nên hoạt động sản
xuất lưu thông hoàn toàn phụ thuộc vào kế hoạch. Kế hoạch và
việc sản xuất hàng dệt may được thực hiện theo quy trình: Trước
tiên, uỷ ban kế hoạch nhà nước dao chỉ tiêu cho các doanh nghiệp
may về kế hoạch sản xuất, số lượng, giá. Các doanh nghiệp may
căn cứ vào đó tính số lượng nguyên liệu đầu vào trình lên uỷ ban
kế hoạch về các doanh nghiệp nhuộm có thể đáp ứng yêu cầu. Sau
đó, căn cứ vào những đề nghị này uỷ ban kế hoạch lại giao chỉ tiêu
sản lượng cho các doanh nghiệp nhuộm ấn định về giá và ngày
giao hàng. Dựa vào giá cả và ngày giao hàng, các doanh nghiệp
nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình uỷ ban kế hoạch nhà
nước về nhà sản xuất sợi có thể sản xuất loại sợi theo yêu cầu.
3
Cuối cùng uỷ ban kế hoạch nhà nước giao chỉ thị cho doanh
nghiệp sợi sản xuất lượng sợi cần thiết như kế hoạch được trình ở
trên.
Trong nền kinh tế kế hoạch, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp
dệt, nhuộm và may rất mật thiết. Các doanh nghiệp may tiến hành
sản xuất theo thiết kế, số lượng và giá đã được uỷ ban kế hoạch
nhà nước quy định. Các doanh nghiệp này thường xuyên nắm bắt
những thông tin như loại vải nào thì có thể sản xuất ở doanh
nghiệp nào và giữ mối quan hệ mật thiết với các doanh nghiệp
nhuộm. Đơn giá, mẫu mã… của vải sử dụng ở các doanh nghiệp
may do uỷ ban kế hoạch nhà nước quy định nhưng nhà cung cấp
vải lại do các doanh nghiệp may để trình lên uỷ ban kế hoạch nhà
nước nhưng thực chất quyết định cuối cùng vẫn do các doanh
nghiệp này đưa ra. Đồng thời các doanh nghiệp nhuộm củng giữ
mối quan hệ khăng khít với các doanh nghiệp dệt. Xét trên toàn
nghành mối quan hệ trực tiếp lâu dài giữa các doanh nghiệp và sự
chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp đã được duy trì khá tốt.
Tuy nhiên mối quan hệ khăng khít cùng việc chia sẻ thông tin giữa
các doanh nghiệp khác ngành đã có sự thay đổi lớn từ sau khi có
hiệp định thương mại gia công uỷ thac( Hiệp định ngày 19-5) được
ký kết giữa chính phủ liên xô củ và chính phủ Việt Nam vào năm
1986. Theo hiệp định này chính phủ Việt Nam nhập khẩu nguyên
liệu cơ sở từ Liên Xô để tiến hành sản xuất hàng may mặc tại các
4
doanh nghiệp nhà nước, sau đó xuất khẩu trở lại Liên Xô. Hiệp
định này đã làm giảm hẳn nhu cầu đối với sản phẩm của các doanh
nghiệp nhuộm và dệt trong nước và mối quan hệ mật thiết giữa các
doanh nghiệp củng bị rạn nứt. Việc các doanh nghiệp dệt, nhuộm
lớn đầu từ vào nghành may đã đẩy nhanh hơn sự rạn nứt này. Các
doanh nghiệp trong các lĩnh vực dệt, nhuôm,vải từ mối quan hệ
hợp tác đã trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau. Người ta cho
rằng đó là nguyên nhân lịch sử chủ yếu khiến cho sự phân ngành
trong nghành dệt may Việt Nam chưa phát triển.
1.1.2: Khái quát về ngành dệt may Viêt Nam hiện nay.
Từ sau khi thực hiện chính sách đổi mới đặc biệt bước vào thập
kỉ 90 của thế kỷ 20, ngành kệt may Việt Nam đã có những bước
phát triển đáng kể. Vào đầu những năm 90 các nước Đông Á như
Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản trở thành những nước nhập khẩu
hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam và từ năm 1993 khi hiệp định
thương mại giữa EU và Việt Nam được ký kết, quy định hạn ngạch
xuất khẩu hàng may mặc sang EU thì xuất khẩu hàng dệt may tăng
nhanh. Xem xét sự thay đổi của tổng giá trị sản lượng hàng dệt
may từ năm 1995 đến năm 1999 cho thấy trong năm năm, tổng giá
trị sản lượng tăng khoảng 57%, như vậy tỷ lệ tăng trưởng thực tế
bình quân khoảng 12% /năm.
5
So với các ngành khác về lĩnh vực xuất khẩu ngành dệt may
củng đã phát triển rất nhanh và được coi là ngành xuất khẩu mũi
nhọn trong thập niên 90. Bảng sau thể hiện sự thay đổi danh mục
hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1994-1998. Cho đến trước
năm 1994 kim ngạch xuất khẩu dầu thô, thuỷ sản vẩn cao hơn hàng
dệt may, nhưng sang năm 1995 mặt hàng dẹt may đã vượt lên trên
hàng thuỷ sản, tiếp đến vượt dầu thô vào năm 1997 và đang chiếm
vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực xuất khẩu. Như vậy so với các ngành
khác thì ngành dệt may vấn là ngành xuất khẩu chủ yếu có tốc độ
tăng trưởng cao.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
Hàng dệt may
1994
550
1995
800
1996
1150
1997
1349
1998
1531
14,7%
1024
15,8%
1346
14,7%
1413
16,4%
Dầu thô
13,6%
866
21,4%
18,8%
18,6%
15,4%
1232
Gạo
425
549
855
13,2%
870
Thuỷ sản
10,5%
551
10,1%
620
11,8%
661
9,5%
781
10,9%
818
Cà phê
13,6%
95
11,4%
495
9,1%
337
8,5%
491
8,7%
594
2,3%
9,1%
4,6%
5,3%
6,3%
1024
6
Tổng cộng
5449
7256
9185
9361
(gồm cả các
mặt hàng
khác)
4051
Nguồn :Tác giả lập từ The economics intelligence unit country
profile 2000.
(chú thích ) dòng trên : Kim ngạch xuất khẩu , đơn vị triệu USD;
dòng dưới :Tỷ lệ trong tổng kim ngạch xuất khẩu
Xét theo cơ cấu sở hữu ngành dệt may gồm 3 bộ phân: Sở hữu
nhà nước, ngoài nhà nước, vốn đầu tư nước ngoài. Giá trị sản
lượng của các hình thức sở hữu trong ngành dệt may Việt Nam.
Năm 1995 giá trị sản lượng của khu vực nhà nước đạt 4532 tỷ
đồng, khu vực ngoài nhà nước đạt 2986 tỷ đồng tương đương
khoảng 2/3 khu vực nhà nước, còn khu vực có vốn đầu từ nước
ngoài đạt 1606 tỷ đồng tức khoảng 1/3 khu vực nhà nước. Đến
năm 1999 trong khi tổng giá trị sản lượng của khu vực nhà nước
đạt 5973 tỷ đồng thì khu vực ngoài nhà nước và đẩu tư nước ngoài
đạt tương ứng 4323 tỷ đồng và 4103 tỷ đồng, thu hệp chênh lệch
so với khu vực nhà nước.
7
Các hình thức sở hữu trong tổng giá trị sản lượng. Năm 1995
tổng giá trị sản lượng của khu vực nhà nước vượt sang so với hai
khu vực còn lại chiếm gần 50%. Nhưng tỷ lệ đó có xu hướng giảm
dần và đến năm 1999 giảm xuống còn hơn 40%. Trong khi đó, tỷ
lệ của khu vực ngoài quốc doanh có xu hướng tương đối ổn định,
còn khu vực có vốn nước ngoài ngày càng tăng cao.
Khác với ngành dệt và nhuộm trong ngành may khu vực ngoài
nhà nước chiếm tỷ lệ lớn nhất. Khu vực nhà nước chiếm khoảng
1/3 tổng giá trị sản lượng và tỷ lệ của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài có xu hướng tăng nhẹ. Trong ngành may, yếu tố khiến khu
vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ lớn nhât trong
tổng giá trị sản lượng xuất phát từ đặc tính của ngành may là vốn
đầu tư ban đầu tương đối thấp nên các doanh nghiệp dể dàng tham
gia vào thị trường ngay cả khi vốn rất ít.
1.2 Các phương thức xuất khẩu của ngành may Việt Nam
1.2.1 Gia công xuất khẩu (CMT)
Xuất khẩu bằng phương thức gia công quốc tế là quan hệ
kinh tế giữa 2 chủ thể kinh tế ở 2 quốc gia khác nhau. Nội dung
mối quan hệ này được tóm tắt trong bảng dưới đây. Nếu xem xét
trên khía cạnh quyền sở hữu nguyên liệu trong quá trình sản xuất
sản phẩm thì phương thức này có thể được thực hiện theo hình
thức nhận nguyên phụ liệu và giao thành phẩm, nhưng cũng có thể
8
được thực hiện theo hình thức mua nguyên phụ liệu và bán thành
phẩm. Trong phương thức sản xuất và phân phối này, các đối tác
tham gia có thể là hai bên hoặc nhiều bên.
Phương thức gia công xuất khẩu đã có từ lâu đời, được hình
thành dựa trên cơ sở khai thác lợi thế của các bên tham gia. Trong
lịch sử phát triển công việc, phương thức này đã từng được phát
triển mạnh ở Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan, Singapore … Trong
thời kỳ đầu công nghiệp hóa, phương thức này đã được các quốc
gia và khu vực này coi là điều kiện sống còn cho sự phát triển của
một số ngành công nghiệp. Ngày nay, phương thức gia công xuất
khẩu lại được dịch chuyển qua các nước nghèo hơn nhưng có
nguồn nhân lực dồi dào và rẻ như Việt Nam, Bangladet, Nepan …
Chủ thể nước ngoài
Chủ thể trong nước
-Đặt yêu cầu về loại mặt hàng, - Cân đối khả năng sản xuất
sản lượng, yêu cầu chất lượng, ( máy móc thiết bị và lực lượng
chi phí gia công, thời gian giao lao động) theo yêu cầu đặt hàng
hàng và các điều kiện khác.
của đối tác nước ngoài.
- Cung cấp nguyên phụ liệu chủ - Tự bảo đảm một số loại phụ
yếu
liệu
- Hướng dẫn kỹ thuật sản xuất
- Tổ chức quá trình sản xuất
- Kiểm định chất lượng và nhận - Giao hàng
hàng
- Trả tiền gia công
- Nhận tiền gia công
Nguồn: Nhóm nghiên cứu ĐH KTQD xây dựng
9
Việt Nam đang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong chiến lược CNH-HĐH
hiện nay, công nghiệp dệt may được coi là ngành mũi nhọn. Định
hướng phát triển công nghiệp dệt may được phát hiện trên cơ sở
đánh giá lợi thế của Việt Nam và vị trí của ngành trong việc giải
quyết các vấn đề kinh tế xã hội của đất nước. Việt Nam có những
lợi thế rất cơ bản để phát triển công nghiệp dệt may thành một
ngành mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế. Đó là nguồn nhân lực dồi
dào, giá nhân công rẻ; bản chất của công nghệ may không phức tạp
và không đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn; xu hướng dịch chuyển các
ngành công nghiệp hao phí nhiều lao động, trong đó có công
nghiệp dệt may, từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước
đang phát triển; truyền thống của ngành tại Việt Nam, vị trí địa lý
kinh tế và sự ổn định về chính trị xã hội …
Bên cạnh những thuận lợi hết sức cơ bản đó, trong việc phát
triển công nghiệp dệt may, Việt Nam cũng có những yếu thế, khó
khăn nhất định. Trong đó chủ yếu là:
- Khả năng thiết kế thời trang còn hạn chế. Về cơ bản đến nay,
thương hiệu hàng dệt may Việt Nam chưa tạo lập được chỗ đứng
vững trên thị trường quốc tế.
- Kinh nghiệm Marketting quốc tế chưa tích lũy được nhiều,
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới còn thấp.
10
- Trình độ trang bị kỹ thuật còn thấp kém so với một số nước
trong khu vực.
- Phần lớn trong doanh nghiệp đang gặp khó khăn về vốn kinh
doanh …
Sơ đồ sản xuất và phân phối hàng may mặc
Thiết kế
sản phẩm
Lựa chọn
nhà cung
cấp
Mua
nguyên
phụ liệu
Cắt may
hoàn thiện
Xuất
khẩu
Hiện tại, trong quá trình thực hiện phương thức gia công xuất
khẩu, khách hàng nước ngòai không chỉ cung cấp cho các doanh
nghiệp may những thứ cần thiết trực tiếp cho sản xuất như nguyên
vật liệu bao gồm nguyên liệu, phụ liệu, bản thiết kế, mẫu thiết kế,
thuyết minh sản phẩm … mà còn thực hiện chuyển giao cả kỹ
thuật sản xuất và quản lý cho bên Việt Nam. Khách hàng hướng
dẫn từ công đoạn lắp ráp dây chuyền sản xuất, các kỹ thuật may,
hòan thiện và kiểm tra sản phẩm, bên Việt Nam chỉ thực hiện công
đoạn thứ tự trong quá trình sản xuất ra sản phẩm may mặc. Nhờ
việc hướng dẫn kỹ thuật này mà trình độ sản xuất của các doanh
nghiệp may Việt Nam được nâng cao rõ rệt. Nhiều nhà nghiên cứu
khi nhận xét về vấn đề này đã cho rằng gia công xuất khẩu là con
11
đường chuyển giao kỹ thuật chủ yếu của các doanh nghiệp may
Việt Nam.
1.2.2Xuất khẩu trực tiếp (FOB)
Trái với hình thức xuất khẩu theo phương thức gia công quốc
tế, trong hình thức xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp may Việt
Nam tự mua nguyên phụ liệu và bán các sản phẩm cho các khách
hàng nước ngoài. Hiện tại, trong sản xuất lưu thông hàng dệt may
đang tồn tại 3 hình thức xuất khẩu FOB được gọi là FOB kiểu I,
FOB kiểu II, FOB kiểu III.
FOB kiểu I: Khách hàng nước ngoài chỉ định nhà sản xuất
vải, quy cách, màu vải, từ đó nhà máy mua vải sản xuất và xuất
khẩu theo đơn hàng. Điểm khác biệt của doanh nghiệp may
thực
hiện xuất khẩu FOB kiểu I và doanh nghiệp may thực hiện theo
hình thức gia công ủy thác là phía Việt Nam phải chịu trách nhiệm
trong việc thanh toán tiền mua vải. Khi tiến hành thanh toán tiền
mua vải, các doanh nghiệp may Việt Nam có thể thu được lợi
nhuận lưu thông. Trên thực tế,chênh lệch về lợi nhuận giữa hình
thức này và hình thức gia công xuất khẩu là không đáng kể.
FOB kiểu II: Khách hàng đưa ra mẫu hàng hóa cho doanh
nghiệp may Việt Nam báo giá và nhận đơn hàng. Trong phương
thức này, doanh nghiệp tự chuẩn bị vải bằng cách tìm mua trong
nội bộ công ty hoặc tìm trên thị trường. Do tự chuẩn bị vải nên các
12
doanh nghiệp này có thể chủ động đưa phần lợi nhuận của khâu
mua vải vào báo giá sản phẩm của công ty mình, do đó lợi nhuận
được nâng lên.
FOB kiểu III: Trong hình thức này, doanh nghiệp may Việt
Nam tự thiết kế mẫu mã hàng hóa, tìm mua nguyên vật liệu và xuất
khẩu với nhãn hiệu riêng của mình. Theo hình thức này, doanh
nghiệp may Việt Nam phải đảm trách tòan bộ quá trình sản xuất từ
khâu lập kế hoạch, thiết kế sản phẩm, tìm mua nguyên vật liệu, cắt
may hòan thiện sản phẩm và phân phối. Phạm vi hoạt động của họ
lớn hơn nhiều, bao trùm toàn bộ quá trình như đã trình bày, mức
độ rủi ro của thị trường và doanh nghiệp may phải gánh chịu cũng
lớn hơn và do đó lợi nhuận mà họ nhận được cũng cao hơn. Có thể
nói rằng trong ba hình thức xuất khẩu trực tiếp thì FOB kiểu III là
loại có nhiều rủi ro nhất nhưng cũng có khả năng mang lại nhiều
lợi nhuận nhất.
Việc phát triển công nghiệp may phải phát huy được những lợi
thế cơ bản vốn có, nhưng cũng phải tính đến những khó khăn và
yếu kém của ngành may như đã đề cập ở trên để giảm thiểu các rủi
ro trong kinh doanh. Trong quan hệ thương mại quốc tế của các
doanh nghiệp may, việc xuất khẩu trực tiếp dưới hình thức mua
nguyên vật liệu sản xuất sản phẩm (FOB) về lý thuyết có lợi hơn là
xuất khẩu dưới hình thức gia công (CMT) do bên Việt Nam sẽ
được hưởng lợi nhuận lưu thông liên quan đến các khâu thiết kế,
13
chuẩn bị nguyên phụ liệu, phân phối. Song với những khó khăn và
yếu thế nếu trên, các doanh nghiệp may Việt Nam vẫn cần thiết
phải duy trì một mức độ nhất định về xuất khẩu bằng hình thức gia
công. Về lâu dài, xuất khẩu trực tiếp phải trở thành phương thức
xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp may Việt Nam nhưng gia
công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm dệt may
Việt Nam trên thị trường thế giới. Thông qua gia công, các doanh
nghiệp may có thể học hỏi kinh nghiệm Marketting quốc tế, tổ
chức quản lý sản xuất, tiếp thu công nghệ mới, từng bước đổi mới
công nghệ, tích lũy nguồn tài chính, chuẩn bị các điều kiện cần
thiết để thực hiện xuất khẩu trực tiếp một cách có hiệu quả. Như
vậy trong những năm tới, phương thức gia công vẫn phải được tiếp
tục thực hiện với các doanh nghiệp may Việt Nam và thực hiện gia
công xuất khẩu phải được xem như là một bước chuẩn bị cho việc
chuyển sang hình thức xuất khẩu trực tiếp.
14
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG PHƯƠNG THỨC XUẤT
KHẨU CỦA NGÀNH MAY VIỆT NAM
2.1 Thực trạng về sức cạnh tranh ngành may Việt Nam
Về sản phẩm:
Trong thời gian qua, ngành may Việt Nam đã đạt được một số
kết quả đáng khích lệ, sản phẩm của ngành bao gồm nhiều chủng
loại khác nhau từ sơ mi nam nữ, áo jacket, áo khoác nam nữ, quần
jean, bộ quần áo nam nữ… Nhiều sản phẩm mới ra đời, đặc biệt đã
xuất hiện một số hàng chất lượng cao có tiêu chuẩn quốc tế như sơ
mi cao cấp, áo jacket quần jean … Những sản phẩm này đã khẳng
định được chỗ đứng của mình trên nhiều thị trường khó tính như
Paris, London, Berlin, Tokyo, New York…
Mặc dù vậy, với điều kiện kỹ thuật và công nghệ hạn chế nên phần
nhiều các sản phẩm của ngành thuộc nhóm sản phẩm trung bình,
chất lượng còn ở mức khiêm tốn ( mặc dù cũng có một số sản
phẩm có chất lượng cao). Nhìn chung là các doanh nghiệp may
15
chưa đáp ứng được những yêu cầu đối với hàng may như mốt, mẫu
mã, đường nét, chất liệu, màu sắc… của thị trường xuất khẩu. Sản
phẩm của ngành có nhiều đặc điểm riêng biệt ( như yếu tố thời
trang ) khiến thị hiếu khách hàng thay đổi nhanh phụ thuộc vào
mốt và thời vụ, công nghệ sản xuất thời trang lại thường khá đơn
giản nên mẫu mốt dễ bị bắt chước … Vì vậy dù công tác mẫu mốt
đã có những bước phát triển đáng kể nhưng chủ yếu ngành vẫn sử
dụng mẫu mốt của ngành đặt hàng gia công. Cũng bởi lý do này
mà công tác sản xuất thường phụ thuộc vào khách hàng.
Một số chủng loại hàng may xuất khẩu vào thị trường Mỹ
năm 2002
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
Tên hàng
Hàng may cho trẻ sơ sinh
Quần nam nữ trẻ em
Áo nịt nam nữ trẻ em
Áo khoác nam nữ trẻ em
Áo veston nam bé trai
Áo veston nữ bé gái
Sơ mi nam nữ cho trẻ em
Sơ mi nam nữ cho người
TT
12
13
14
15
16
17
18
19
Tên hàng
Bộ quần áo
Áo jacket
Váy ngắn, váy dài
Đồ ngủ
Đồ lót
Áo gối
Chăn
Túi xách
9
10
lớn
Áo veston nam
Bộ quần áo
20
21
Hàng may chất liệu len
Hàng may lụa và sợi thực
Áo blu nam nữ cho người 22
vật
Hàng may bông và không
lớn
bông
11
16
Nguồn: Tài liệu hội thảo “Để đạt được mục tiêu xuất khẩu hàng
dệt may
năm 2003 và 2005 với hiệu quả cao”
Nói tóm lại, xét về sản phẩm, tuy chất lượng và cơ cấu sản
phẩm của ngành đa đạng và phong phú hơn trước nhưng so với
nhu cầu và thị hiếu của khách hàng thì còn nhiều khoảng trống
chưa đáp ứng, nhất là đối với thị trường các nước tư bản phát triển.
Hàng may xuất khẩu của ngành nói chung chưa có nhãn mác
thương mại riêng, đây cũng là lý do làm giảm khả năng cạnh tranh
của sản phẩm may trên thị trường xuất khẩu.
Về giá bán sản phẩm
Ngành may có đặc điểm là có hàm lượng lao động cao, yêu
cầu công nghệ không quá hiện đại và phụ thuộc nhiều vào kỹ năng
của người lao động. Đặc điểm này làm cho ngành được đánh giá là
có tính phù hợp cao trong giai đoạn phát triển kinh tế Việt Nam
hiện nay. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, cần cù, sáng tạo và
đặc biệt là giá lao động thấp hơn các nước trong khu vực đã tạo
nên lợi thế so sánh của sản phẩm may Việt Nam. Số liệu của bảng
dưới đây cho thấy, tiền công lao động trong ngành dệt may của
Việt Nam thấp hơn rất nhiều các nước khác trong đó có các nước
17
trong khu vực như Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philipin,
Indonesia
Tiền công lao động trong ngành dệt may của một số nước
(Đơn vị tính:
USD/giờ)
TT
Nước
Tiền công
16,31
12,63
TT
9
Thái
Nước
1
2
Nhật
Pháp
Malaysia
0,87
3
4
5
6
7
8
10
Lan
Mỹ
10,33
11
Philippin
Anh
10,16
12
Ấn Độ
Đài Loan
5
13
Trung Quốc
Hàn Quốc
3,6
14
Indonesia
Hồng Kông 3,39
15
Việt Nam
Singapore
3,16
Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam
Tiền
công
0,95
0,67
0,54
0,34
0,23
0,18
Tuy nhiên giá lao động rẻ chỉ là lợi thế nhất thời, không ổn
định trong cạnh tranh. Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển
mạnh, các quá trình sản xuất được tự động hóa thì giá công nhân rẻ
không còn là thế mạnh như trước. Mặt khác, phần lượng lượng
nguyên liệu và đôi khi cả phụ liệu đầu vào của các doanh nghiệp
may là nhập khẩu theo dạng tạm nhập tái xuất do khách hàng đặt
gia công cung cấp. Cũng có nhiều khách hàng mua vải và phụ liệu
của các doanh nghiệp Việt Nam để đưa đến các doanh nghiệp may
18
gia công, nhưng giá cả của các nguyên vật liệu sản xuất trong nước
thường đắt hơn giá nhập khẩu, mẫu mã lại nghèo nàn, kém hấp
dẫn, chất lượng các lô hàng thường không đồng đều, thủ tục mua
bán phức tạp, tiến độ giao hàng sai hợp đồng thường xuyên xảy
ra… Chính vì vậy các doanh nghiệp may thường nhập khẩu các
nguyên liệu từ nước ngòai, đẩy giá sản xuất và giá bán hàng may
lên rất cao. Cho nên dù có lợi thế về giá nhân công như đã nói trên
nhưng mức giá của các doanh nghiệp may Việt Nam thường cao
hơn giá sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN. Ví dụ mức giá
của tổng công ty Dệt may Việt Nam thường cao hơn giá bán của
sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN từ 10-15%, cao hơn
hàng Trung Quốc hơn 20%. Cũng do việc nhập khẩu đầu vào dẫn
đến quá trình sản xuất của các doanh nghiệp không ổn định, quá
phụ thuộc vào nhà chung cấp, việc thực hiện hợp đồng nhiều khi
không theo tiến độ thời gian định trước, làm ảnh huởng không tốt
đến uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng.
Ngoài ra, việc nhiều doanh nghiệp thiếu vốn kinh doanh phải
vay vốn ngắn hạn để đầu tư phát triển và trả lãi suất vay vốn cao
cũng làm giảm khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm may. Nói
tóm lại, giá bán sản phẩm cũng chưa phải là lợi thế cạnh tranh của
hàng may Việt Nam.
19
Hệ thống phân phối sản phẩm và các chính sách liên
quan
“Poscelin, một công ty Hồng Kông thường mang đến những hợp
đồng gia công 2-3 triệu áo jacket mỗi năm, nay gần như không còn
làm ăn với ngành may Việt Nam nữa. Một khách hàng lớn khác
đến từ Israel, trước đây mỗi năm mua của Việt Nam đến 5 triệu áo
sơ mi để xuất khẩu đi hàng chục nước trên thế giới, nay cũng cắt
giảm đến một nửa đơn hàng ở Việt Nam để chuyển sang gia công
ở Myanmar …”
Đây chỉ là một vài ví dụ mà hiệp hội dệt may Việt Nam đã
đưa ra để cho thấy nhiều khách hàng lớn của ngành may đang dần
rời bỏ Việt Nam để tìm đến những nguồn cung cấp mới ở Trung
Quốc, Bắc Mỹ, Đông Âu, Bắc Phi … Theo một số chuyên gia
nghiên cứu ngành dệt may thì ngành may Việt Nam đang mất dần
lợi thế cạnh tranh do nhiều nguyên nhân trong đó có các nguyên
nhân liên quan đến hệ thống phân phối và các chính sách của nhà
nước.
Hiện tại, hình thức phân phối sản phẩm của ngành may chủ
yếu dựa trên phương thức gia công xuất khẩu trong đó các doanh
nghiệp Việt Nam hầu như không chịu rủi ro về việc tiêu thụ hàng
hóa. Vai trò của các doanh nghiệp may Việt Nam trong quá trình
sản xuất và lưu thông sản phẩm còn rất hạn chế nên tỷ lệ giá trị gia
20
- Xem thêm -