LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ năm 1996, Đảng và nhà Nước bắt đầu thực hiện việc
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà Nước và theo định hướng
XHCN. Với cơ chế mới này, nền kinh tế của ta không còn là nền kinh
tế tập thể, hợp tác nữa mà là nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành
phần kinh tế cùng tồn tại song song, cùng bổ xung hỗ trợ cho nhau để
cùng tiến lên con đường CNXH. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế
là một môi trường kinh doanh hoàn toàn mới mẻ đầy những thuận lợi,
những cơ hội và những thách thức đối với các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh nói chung và với công ty nói riêng và cả với các doanh
nghiệp nước ngoài. Những bất cập, những hạn chế còn tồn tại đan xen
với những quy luật những quy định mới, khiến các doanh nghiệp phải
lao đao, vất vả trong qua trình tồn tại và phát triển của mình trong môi
trường kinh doanh khốc nghiệt đó. Bên cạnh đó cũng có nhiều doanh
nghiệp tự mình tìm ra những cơ hội để tự khẳng định mình trong nền
kinh tế thị trường như hiện nay.
Trước sự thay đổi đó, công ty cung ứng nhân lực quốc tế
và thương mại(SONA), một công ty được thành lập từ rất lâu, cũng đã
phải chải qua nhiều sóng gió để tồn tại và phát triển. Sự phát triển lớn
mạnh với uy tín, lợi thế của mình trên thương trường và đặc biệt là
hoạt động kinh doanh thương mại được ra đời từ năm 1997 đã là một
minh chứng cụ thể về sự thành công trên con đường phát triển của
công ty, mặc dù chỉ mới ra đời chưa lâu nhưng hoạt động kinh doanh
thương mại của công ty cũng đã gặt hái được những thành công đáng
kể trong hoạt động thương mại của mình. Để có được những thành
công bước đầu như vậy là cả một sự lỗ lực của ban quản trị, toàn thể
nhân viên của công ty. Công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà Đảng
1
và Nhà Nước, cục quản lý lao động với nước ngoài, BLĐTBXH giao
cho. Nghĩa vụ nộp ngân sách cho nhà nước luôn được thực hiện đầy
đủ, hơn nữa đời sống của CBCNV ổn định và ngày càng được nâng
cao
2
CHƯƠNG I. CƠ SỬ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG
MẠI TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.
I. Khái niệm, vai trò, hình thức hoạt động nhập khẩu trong
nền kinh tế quốc dân.
1. Khái niệm.
Từ lâu nay nhập khẩu hàng hóa đã trở thành một việc làm quan
trọng trong hoạt động kinh doanh thương mại. Đó chính là việc trao
đổi hàng hóa từ các tôt chức kinh tế, các công ty có pháp nhân tại
nước sở tại và việc tiến hành tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu trong thị
trường nội địa hoặc tái – xuất khẩu với mục đích cuối cùng là thu lợi
nhuận và nối liền sản xuất vầ tiêu thụ giữa các quốc gia.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc
dân.
Nhập khẩu là một hoạt động hữu cơ của hoạt động ngoại thương
nó tác động trực tiếp tới sản xuất và đời sống của mỗi quốc gia. Nhập
khẩu thể hiện mức độ gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa nề kinh tế của
mỗi quốc gia với tổng thể của nền kinh tế thế giới. Nó tác động tích
cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng thế mạnh của nền
kinh tế mỗi quốc gia về sức lao động, vốn, tài nguyên, và khoa học
công nghệ. Trong xu thế vận động của nền kinh tế thế giới như hiện
nay, Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đã và
đang không ngừng mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế, sự phụ thuộc
lẫn nhau ngày càng lớn mạnh, cùng với sợ hình thành các trung tâm
thương mại, khối mậu dịch tự do đã chứng tỏ việc lưu chuyển hàng
hóa giữa các quốc gia không ngừng được cải thiện và nâng cao. lúc
này vai trò của hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với việc ổn
3
định và phát triển kinh tế quốc gia nói riêng và phát triển kinh tế thế
giới nói chung.
Lý do là:
- Nhập khẩu là cơ sở nhằm bổ sung hàng hóa trong nước không
sản xuất được hoặc sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu, hơn nữa nó
cũng cho phép đa dạng hóa các chủng loại hàng hóa, chất lượng cho
phép thảo mãn nhu cầu trong nước.
- Nhập khẩu còn khai thác được lợi thế so sánh tạo ra được sự
phát triển vượt bậc trong sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí, thời gian
tạo ra sự phát triển đồng đều về trình độ xã hội, phá bỏ tình trạng độc
quyền trong sản xuất kinh doanh trong nước, tạo điều kiện cho các tổ
chức kinh tế có cơ hội tham gia trên thị trường quốc tế.
- Nhập khẩu tạo ra sự liên kết trong nước với nền kinh tế thế
giới, tạo điều kiện cho sự phát triển, phân công lao động và hợp tác
quốc tế, khai thác được lợi thế so sánh trên cơ sở chuyên môn hóa sản
xuất.
- Nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế trang thiết bị hiện đại, công
nghệ sản xuất tiên tiến, tăng cường chuyển giao công nghệ, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH đất nước.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu, thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo điều kiện đầu vào cho sản xuất
hàng hóa xuất khẩu, tạomt thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hóa
trong nước ra nước ngoài, đặc biệt là nước xuất khẩu.
Ngoài ra nhập khẩu còn góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sản
xuất nhằm góp phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng hóa xuất khẩu,
tạo điều kiện cho hàng hóa của một nước đạt được tiêu chuẩn của thế
giới quy định.
4
Tuy nhiên, liệu có thể tận dụng hết được lợi thế của hoạt động
nhập khẩu còn phải xem chính sách, đường lối phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Đối với nước ta, trước đây quan hệ kinh tế quốc tế chỉ
thu hẹp trong một số nước XHCN, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
chỉ mang tính tự cung tự cấp, hàng hóa chủ yếu nhập khẩu thông qua
các khoản viện trợ và mua bán theo nghị định thư đã là mất đi tính
đúng đắn của hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp Nhà nước
đđộc quyền. Do vậy hoạt động nhập khẩu rất trì trệ và không đáp ứng
được nhu cầu về hàng hóa trong nước.
Nhận được tầm quan trọng đó, Đại hội Đảng toàn quốc VI đã là
bước ngoặc mới, một động lực mới đưa đất nước ta đi vào con đường
cải cách triệt để, nhằm thoát khỏi nền kinh tế đó chính là một bước
tiến vĩ đại giúp nền kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
tạo ra một thị trường nội địa đầy sôi động, hàng hóa phong phú, phát
huy mạnh tính cạnh tranh. Trên thực tế đã chứng minh được sự năng
động của kinh tế thị trường cũng như khẳng định rõ vai trò hoạt động
nhập khẩu trong nền kinh tế mới.
Nhập khẩu đã góp phần quan trọng vào việc phát triển sản xuất
chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, với định hướng phát triển nền kinh tế, nhập khẩu luôn là giải
pháp có tầm cỡ chiến lược, nhằm phục vụ cho việc phát triển nền kinh
tế quốc dân. Chính sách nhập khẩu phải luôn tranh thủ nguồn vốn,
khoa học công nghệ tiên tiến một cách có hiệu quả nhất cũng như bồi
dưỡng đọi ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý nhằm thúc đẩy sản xuất
hàng hóa của nước ta một cách phát triển với mục đích vừa sản xuất
vừa tiêu dùng trong nước, vừa xuất khẩu thu ngoại tệ, tăng tích luỹ
cho đất nước. Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp trong
nước có cơ hội tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khi đó
buộc các doanh nghiệp phải hình thành một chiến lược kinh doanh
5
riêng nhưng phải phù hượp với cơ chế thị trường, đồng thời phải nâng
cao năng lực quản lý sao cho phù hợp với xu thế chung nhằm tạo ra
nhiều cơ hội mới thồn qua quan hệ với ca đối tác nước ngoài trên cơ
sở các bên cùng hưởng lợi.
Như vậy, để phát huy hết được vai trò của hoạt động nhập khẩu
là một việc làm không hề đơn giản, nó đòi hỏi mỗi quốc gia nó chung
và các doanh nghiệp nói riêng phải có sự lựa xhọn đúng đắn các hình
thức nhập khẩu để xác định rõ các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động
này, như thế thì với có thể khai thác được tối đa lợi thế so sánh.
3. Các hình thức nhập khẩu.
Trong thực tế hoạt động ngoại thương có nhiều hình thức nhập
khẩu, nhưng tuỳ theo đặc trưng của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp
mà cần phải lựa chọn hình thức nào cho phù hợp nhất. Cũng do tác
động của nhiều nhân tố trong nền kinh tế cùng với sự sáng tạo và năng
nổ của các nhà kinh doanh đã tạo ra sự đa dạng của các hình thức
nhập khẩu chứ không chỉ bó hẹp trong hình thức nhập khẩu trực tiếp.
- Nhập khẩu uỷ thác.
Trong hoạt động ngoại thương không phải doanh nghiệp nào
cũng có thể tham gia vào hoạt động nhập khẩu trực tiếp. Do đó khi
một doanh nghiệp có vốn bằng ngoại tệ, lại có nhu cầu nhập khẩu trực
tiếp thì họ phải lảm như thế nào? Từ đó đã hình thành nên nhu cầu
nhập khẩu uỷ thác, đó là doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp
có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu
theo yêu cầu của mình. Bên nhân uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với
bên đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa theo yêu
cầu của bên uỷ thác và lợi nhuận nhận được gọi là phí uỷ thác.
Hình thức này có đặc điểm sau:
6
+ Doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu không
phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên
cứu thị trường tiêu thụ do không phải tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu, mà
chỉ đứng ra làm đại diện ch bên uỷ thác giao dịch với bên nước ngoài,
ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa, cũng như thay mặt
cho bên uỷ thác khiếu nại bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn
thất.
+ Các doanh nghiệp được uỷ thác nhập khẩu chỉ được tính kim
ngạch nhập khẩu chứ không được tính doanh số, doanh thu, bên cạnh
đó các doanh nghiệp nhập khẩu phải lập hai hợp đồng. Một hợp đồng
mua bán hàng hóa với nước ngoài , một hợp đồng uỷ thác .
- Nhập khẩu hàng đổi hàng.
Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là nghiệp vụ chủ
chốt của buôn bán đối lưu, nó lag hình thức nhập khẩu gắn liền với
xuất khẩu. Thanh toán trong trường hợp này không ogải bằng tiền mà
bằng sử dụng uỷ thác, mục đích nk uỷ thác ở đây không phải chỉ để
thu lãi từ nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu thu cả lãi từ hoạt động
xuất khẩu.
Đặc điểm của hình thức này là:
+ Hoạt động nhập khẩu này mang lại cho các bên liên quan bởi
cùng một hợp đồng có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động nhập
khẩu và hoạt động xuất khẩu do vậy có thể thu lời từ hại hoạt động
này.
7
+ Doanh nghiệp được tính trực tiếp cả kim ngạch xuất khẩu.
Doanh số tiêu thụ được tính trên cả hai mặt hàng alf xuất khẩu và
nhập khẩu.
+ Hàng hóa trong hoạt động nhập khẩu cũng là bạn hàng trong
hoạt động xuất khẩu. Để bảo đảm thực nhiện hợp đồng các bên có thể
dùng biện pháp sau.
+ Dùng thư tín đối ứng đây là một loại thư tín dụng mà
trong nội dung của nó có các điều khoản chung. L/C chỉ có hiệu lực
khi người hưởng lợi mở một thư tín dụng L/C khác có kim ngạch
tương đương.
+ Dùng người thứ 3 khống chế chứng từ sở hữu uỷ thác, người
này chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này nhận lại
một chứng từ sở hữu một loại hàng hóa nào đó có giá trị tương đương.
+ Phạt về việc giao thiếu hay giao chậm hàng.
- Nhập khẩu tái xuất:
Là hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào trong nước nhưng không
phải là để tiêu dùng trong nước mà để xuất sang nước thứ 3 naò đó,
hoạt động này không được chế biến ở nước tái xuất, như vậy hoạt
động này được thực hiện qua ba nước; nước xuất khẩu, nước tái xuất
khẩu, nước nhập khẩu.
Hình thức nhập khẩu này có những đặc trưng riêng khác với
hình thức nhập khẩu khác, đó là:
+ Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí
gép nối bạn hàng nhập khẩu và bạn hàng xuất khẩu, bảo đảm sao cho
có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt
động này.
8
+ Doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch xuất
khẩu, doanh số tính trên giá trị hàng nhập khẩu đó vẫn phải chịu thuế
doanh thu.
+ Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng, một hợp
đồng xuất khẩu và một bản hợp đồng nhập khẩu và không chịu thuế
nhập khẩu về hình thức kinh doanh.
+ Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín
dụng giáp lưng .
Ngoài ra hàng hóa không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất
mà có thể chuyển thẳng tới nước thứ 3, nhưng tiền trả phải do người
tái xuất từ người nhập khẩu, trả cho người xuất khẩu, nhiều khi người
xuất còn thu lợi nhuận từ do thu được nhanh và trả tiền chậm.
- Nhập khẩu liên doanh.
Là hoạt độngnk hàng hóa trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện
giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp cùng nhau để tiến hành giao dịch và
các chu trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc
đẩy hoạt động này theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chịu
rủi ro và cùng hưởng lợi nhuận.
Sau đó một vài hình thức nhập khẩu khác thì hình thức này ít
chịu rủi ro hơn vì mỗi doanh nghiệp tham gia nhập khẩu chỉ phải đóng
góp một phần vốn nhất định, khi đó quyền hạn và trách nhiệm chỉ phải
phân bổ theo tỷ lệ góp vốn.
Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu
hàng sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu
thụ chỉ được tính doanh số trên hàng theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế
doanh thu trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu phải lập
9
hai hợp đồng, một hợp đồng mua hàng với bên nước ngoài và một hợp
đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác. Cách phân tích hình thức
nhập khẩu trên dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan
tâm tới hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể thấy hai
hình thức chính là mua bán bằng tiền và mua bán thanh toán bằng
hàng. Thanh toán bằng tiền là cách thức thông dụng, thanh toán bằng
hàng là hình thức còn khá mới mẻ với
chúng ta. Do đó cần phải tìm hiểu kỹ hình thức này.
- Nhập khẩu tư doanh.
Là hoạt động độc lập của một số doanh nghiệp nhập khẩu trực
tiếp, hoạt động này đòi hỏi nhà nhập khẩu phải tìm hiểu và nghiên cứu
kỹ thị trường trong nước, môi trường kinh doanh như chính sách kinh
tế, hành lang pháp luật của quốc gia và thông lệ quốc tế. Trong hình
thức này doanh nghiệp phải tự đứng ra nhập khẩu, nên rất rễ xảy ra
rủiro, tổn thất cũng như lợi nhuận thu được. Chính vì vậy trước khi
nhập khẩu nhà nhập khẩu cần phải nghiên cứu kỹ từng bước, từ khâu
nghiên cứu thị trường đầu vào, đầu ra, cho đến khâu ký kết thực hiện
hợp đồng, kể cả khâu bán hàng, thanh toán tránh tình trạng tổn thất,
trong việc thực hiện hợp đồng doanh nghiệp phải tự bỏ vốn ra để
thanh toán, phải cân nhắc các khoản thu chi để đảm bảo việc kinh
doanh mang lại lợi nhuận.
II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu.
Trong giao dịch ngoại thương nói chung và hoạt động nhập
khẩu nói riêng được thực hiện trên pahm vi quốc tế, vì vậy nội dung
của hoạt động nhập khẩu phức tạp hơn so với việc trao đổi hàng hóa,
dịch vụ trong nước. Hoạt động này được thực hiện thông qua nhiều
khâu và nhiều nghiệp vụ quan trọng khác, từ khâu nghiên cứu đầu
vào, đầu ra đến khâu tiếp cận thị trường lựa chọn hàng hóa nhập khẩu,
10
tiến hành giao dịch hàng hóa, đàm phán ký kết hợp đồng khi hàng hóa
nhập cảng, chuyển giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành
các thủ tục thanh toán, mỗi khâu mỗi nghiệp vụ thanh toán đều có mối
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, do đó phải nghiên cứu thực hiện đầy đủ,
kỹ lưỡng bởi cán bộ ngoại thương có năng lực đề phòng sơ xẩy gây
tổn thất cho các bên. vấn đề mấu chốt là phải nắm bắt được lợi thế
nhằm đảm bảo cho hoạt động ngoại thương đạt hiệu quả cao.
1. Nghiên cứu thị trường.
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu việc nghiên cứu thị trường
gồm: Nghiên cứu thị trường thanh toán bán trong nền kinh tế hàng hóa thì thị trường giữ vai
trò quan trọng trọng của hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Mà mục đích của hoạt động sản xuất là để tiêu thụ, phục vụ và thoả
mãn nhu cầu của người tiêu dùng, do vậy thị trường mang tính sống
còn đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng hóa. Vì vậy nếu
còn thị trường thì hoạt động sản xuất kinh doanh, nế mất thị trường thì
hoạt động này bị đình trệ.
Hoạt động nhập khẩu được thực hiện trên phạm vi quốc tế, vì
vậy nội dung của hoạt động này phức tạp hơn nhiều so với việc kinh
doanh hàng hóa nội địa, nó được thực hiện dưới nhiều khâu và nhiều
hiệp định khác nhau, lựa chọn hàng hóa nhập khẩu, tiến hành giao
dịch, đàm phán, tiếp cận thị trường, lựa chọn hàng hóa nhập khẩu, tiến
hành giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp
đồng khi hàng hóa nhập cảng, chuyển giao quyền sở hữu cho người
mua hoàn thành các thủ tục thanh toán, và mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ
đều có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, do vậy phải được thực hiện
nghiên cứu đầy đủ kỹ lưỡng bởi cán bộ ngoại thương có năng lực để
đề phòng sai sót gậy tổn thất cho các bên, vấn đề ở chỗ là phải nắm
bắt được lợi thế đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao.
11
1.1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
Khi nghiên cứu về thị trường nhập khẩu cần phải nắm bắt rõ các
chính sách phát triển của các nước hay khu vực mà họ cần nhập, môi
trường chính trị, tình hình tài chính tiền tệ, điều kiện vận tải và cước
phí.
Vì là thị trường nước ngoài nên việc nghiên cứu gặp nhiều khó
khăn do không tìm hiểu kỹ lưỡng được như thị trường nội địa. Nghiên
cứu thị trường nhập khẩu có thể được thực hiện qua các tài liệu, sách
báo, tạp chí, các phương tiện truyền tin... về thị trường đó hoặc trực
tiếp thông qua triển lãm, hay những cuộc thăm quan, những chuyến du
lịch hoặc giao dịch trực tiếp.
Khi nghiên cứu thị trường nhập khẩu, doanh nghiệp cần phải
nắm bắt đầy đủ các yếu tố của thị trường như khả năng sản xuất, giá
cả, sự biến động của thị trường. Hơn nữa doanh nghiệp nhập khẩu
cũng cần đặc biệt quan tâmđến hàng hóa vì đây là biểu hiện bằng tiền
của giá trị hàng hóa. Trong kinh doanh nhập khẩu thì sự biến đọng của
giá cả cũng trở nên phức tạp do việc buôn bán diễn ra không phải lúc
nào thì thì nó diễn ra trong khoảng thời gian dài giữa hai quốc gia, hai
khu vực khác nhau, so với lượng trao đổi buôn bán là bao nhiêu, các
loại giá cả và những nhân tố tạo nên sự biến động của giá cả.
Giá cả trên thị trường biến động là do những nhân tố sau:
- Nhân tố chu kỳ: là do sự vận động theo quy luật của nền kinh
tế thế giới, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả của hàng hóa nói
chung trên thế giới và hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp nói
riêng.
- Sự lũng đoạn của thị trường: cũng làm xuất hiện mức giá của
cùng một loại hàng hóa trên một hay nhiều thị trường khác nhau.
12
- Sự cạnh tranh: tuỳ thuộc vào mức độ cạnh tranh, đối tượng
cạnh tranh.
- Tính thời vụ: giá cả sẽ thay đổi rất lớn nếu hàng hóa được thoả
mãn nhu cầu nếu nó được sản xuất đúng thời vụ.
- Tình hình kinh tế xã hội:
Bên cạnh các nhân tố trên thì doanh nghiệp nhập khẩu cũng cần
phải tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, cước phí vận chuyển,
câc chi phí phụ để sao cho có thể lựa chọn thị trường nhập khẩu phù
hợp nhất.
1.2. Nghiên cứu thị trường trong nước.
* Nhu cầu thị trường.
Nhu cầu là nhân tố đầu tiên mà các nhà kinh doanh nhập khẩu
cần phải nghiên cứu là một trong những yếu tố quyết định sự thành
công của mỗi doanh nghiệp. Kinh nghiệm kinh doanh cũng cho thấy
việc đầu tiện là phải nghiên cứu nhu cầu đầu tiên, sau đó mới tổ chức
quá trình sản xuất kinh doanh để nhằm đáp ứng và thoả mãn nhu cầu
đó. Thực tế là nhiều doanh nghiệp nước ta trong hoạt động nhập khẩu
đã chưa nghiên cứu hay chưa nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu thị trường
trong nước, do đó hàng hóa nhập khẩu về đã không đáp ứng được nhu
cầu của của người tiêu dùng cả về số lượng lẫn chất lượng. Đa số
hàng hóa nhập khẩu chỉ dựa vào những ý kiến chủ quan hoặc các đơn
đặt hàng, chào hàng của các công ty nước ngoài.
Nghiên cứu nhu cầu ở đây căqn cứ vào tình hình sản xuất và tiêu
dùng về quy cách, chủng loại, kích kỡ, giá cả, thị hiếu, tập quán từng
vùng, từng lĩnh vực sản xuất, từ đó tiến hành nghiên cứu từng mặt của
hàng hóa trên thế giới. Việc làm này đã phát hiện nhiều sự biến đổi
trong tiêu dùng khi có tác động của nhân tố khác, đặc biệt là giá cả.
13
* Dung lượng thị trường.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thì viẹc tìm hiểu dung
lượng thị trường hàng hóa tương đối quan trọng. Có thể hiểu dung
lượng thị trường của một loại hàng hóa là khối lượng hàng hóa giao
dịch trên một phạm vi thị trường nhất định. Dung lượng thị trường
thay đổi theo diễn biến của tình hình tác động tổng hợp của nhiều yếu
tố tác động tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau trong những giai
đoạn nhất định.
Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chất chu
kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính thời
vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa.
Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường thì có
nhiều, tuy nhiên các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng trong thời gian tương
đối dài.
- Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật: với sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật, làm cho nhu cầu về hàng hóa được mở rộng, điều đó có
nghĩa là dung lượng thị trường cũng được mở rộng.
- Cơ chế chính sách của Nhà nước, các tập đoàn sản xuất kinh
doanh ảnh hưởng tới sự biến đổi của dung lượng thị trường, chính
sách về đầu tư nhằm xây dựng và phát triển theo hướng nào đó có thể
thu hút khách hàng về hàng hóa.
- Thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng: Là giới hạn quan
trọng đối với sự biến đổi của dung lượng thị trường. Tuy nhiên nhà
kinh doanh có thể hướng thị hiếu của người tiêu dùng thích nghi dần
với hàng hóa của họ, làm cho thị hiếu thay đổi.
- Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường.
Là các nhân tố như đầu cơ đã gây ra những biến đổi về cung – cầu,
14
xung đột về chính trị – xã hội, hoặc các yếu tố tự nhiên. tuy nhiên khi
nghiên cứu tình hình thị trường của hàng hóa khác nhau phải căn cứ
vào đặc điểm của chúng để đánh giá ảnh hưởng của từng nhân tố.
- Sự biến động của giá cả: viẹc phân tích và xác định xu thế biến
động của giá cả trên thị trường thế giới là cơ sở để xác định mức giá
cả quốc tế của các loại hàng hóa cần nhận. Thông thường các nhà kinh
doanh nhập khẩu sử dụng các loại giá cả được công bố trên tài liệu
được lưu hành ở nươchính sách ngoài, mức giá tham khảo và mức giá
khởi điểm để hai bên trao đôi nhau giá trong các tài liệu
thống kê, giá chào hàng của các hãng buôn bán lớn, giá trong các hợp
đồng được ký kết thực tế. Tuy nhiên giá trong hợp đồng rất khó thu
thập.
Khi xác định giá cả nhập khẩu của mặt hàng có nhu cầu từ thị
trường nhập khẩu có thể tham khảo giá xuất từ thị trường mới đi các
nơi khác. song giá cước được vận chuyển khi tham khảo cũng đặc biệt
phải chú ý.
* Lựa chọn mặt hàng.
Doanh nghiệp phải lựa chọn mặt hàng kinh doanh có lợi nhất,
muốn vậy thì nhà nhập khẩu không những phải căn cứ vào nhu cầu
của thị trường mà còn phải dựa trên một số vấn đề sau.
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng trên thị trường: Cũng do mỗi mặt
hàng có thói quen tiêu dùng riêng thể hiện ở thời gian tiêu dùng, thị
hiếu tiêu dùng, quy luật cung cầu về hàng hóa đó, việc làm này gọi là
tìm hiểu tập quán tiêu dùng. Như vậy có nắm bắt được nhân tố này thì
chúng ta mới có thể đáp ứng và thoả mãn nhu cầu của ngươì tiêu
dùng.
15
- Mặt hàng đó đang ở trong thời kỳ nào của chu kỳ sống: Sở dĩ
mỗi mặt hàng đều có chu kỳ sống riêng của nó, chu kỳ này riễn ra qua
các pha: Giới thiệu, tăng trưởng, chín mồi, bão hoà và thoái trào.
chính điều này nhà nhập khẩu cần phải nắm rõ xem mặt hàng này
đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống, để giúp cho việc nâng cao
doanh số.
- Tình hình sản xuất mặt hàng đó như thế nào: nhà kinh doanh
nhập khẩu cần phải nắm rõ khả năng sản xuất, tốc đọ phát triển của
việc sản xuất ra mặt hàng đó.
- Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó là bao nhiêu; trong kinh
doanh thương mại quốc tế, mỗi quốc gia lại có hệ thống tiền tệ khác
nhau cho nên việc tính toán tỷ suất ngoại tệ là rất quan trọng. Tỷ suất
ngoại tệ đối với mặt hàng nhập khẩu là bản tệ có thể thu về khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ.
2. Lập phương án kinh doanh.
Căn cứ vào những thông tin thu thập trong quá trình nghiên cứu
thị trường lựa chon nhà xuất khẩu và các quyết định, mục tiêu mà
doanh nghiệp đề ra để lập phương án kinh doanh, phương án này là kế
hoạch hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu trong quá
trình nhập khẩu.
Sau đây là các bước để tiến hành lập phương án kinh doanh:
+ Đánh giá đối tác xuất khẩu và tình hình thị trường: chỉ ra
những nét đặc trưng phân tích những thuận lợi và khó khăn trong kinh
doanh.
+ Lựa chọn mặt hàng cho phù hợp, thời cơ, điều kiện và phương
thức kinh doanh. Xác định vốn, phân bổ cán bộ nghiệp vụ cũng như
huy động cơ sở vật chất ch phương án kinh doanh.
16
+ Xác định đối tượng giao dịch để nhập khẩu: giao dịch với công
ty nào? ở đâu, khối lượng nhập khẩu, mức giá dự kiến. Thời gian giao hàng và hình
thức thanh toán.
+ Xác định rõ thị trường và khách hàng tiêu thụ sản phẩm:
- Bán hang ở thị trường nào?
- Thời điểm bán hàng?
- Khách hàng là ai? Người tiêu thu chính?
+ Xác định giá cả mua bán.
- Khi đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu phải được duyệt với
giá tối đa, tối thiểu và tới hạn. Người làm nhiệm vụ này có thể định
giá cao hơn giá tối thiểu và thấp hơn giá tối đa theo từng hoàn cảnh cụ
thể khi ký kết hợp đồng. Giá cả xác định trong phương án kinh doanh
trên cơ sở phân tích giá cả quốc tế, giá chào hàng, điều kiện giao hàng
hay giá cùng loại đã nhập trước đây.
+ Giá bán trong nước phải đảm bảo có lợi nhuận sau khi trừ đi
các khoản chi phí khác như thuế.
- Để ra các mục tiêu cụ thể: sẽ nhập khẩu hàng hóa ở thị trường
nhập khẩu, giá cả và chi phí khác là bao nhiêu.
- Đề ra các biện pháp thực hiện: đây là công cụ nhằm đạt được
mục tiêu đã dự định.
Sau khi các phương án kinh doanh đã được phê duyệt thì doanh
nghiệp bắt đầu nỗ lực để thực hiện.
17
3. Các bước nhập khẩu hàng hóa.
3.1. Đàm phán và ký kết hợp đồng.
Để có thể soạn thảo và đi đến ký kết hợp đồng thì trước hết hai
bên phải đạt được những thảo thuận chung trong buôn bán. Trong quá
trình đàm phán hai bên sẽ đưa ra những nhu cầu, ý muốn của mình để
cùng nhau xem xét, thảo luận để rồi đi đến thống nhất làm căn cứ để
để soạn thảo một hợp đồng mua bán có thiện chí. Đây là sự gặp gỡ
giữa hai bên, thể hiện nhu cầu mong muốn và thực hiện thiện chí của
mình trong công việc.
Trong đàm phán người ta thường sử dụng các hình thức sau:
- Đàm phán trực tiếp.
- Đàm phán qua thư tín.
- Đầm phán qua điện thoại.
Nhưng trên thực tế do tính chất đặc trưng của thương mại quốc
tế mầ việc đàm phán thường thông qua hình thức đàm phán trực tiếp.
Song trong mỗi hình thức đàm phán đều có ưu, nhược điểm riêng nên
tuỳ theo những điều kiện cụ thể mà các bên có thể lựa chọn hình thức
nào đó cho phù hợp nhất.
Chẳng hạn, những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư từ, sau dần
đến đàm phán trực tiếp, các bên đã tạo được ít nhiều uy tín thì có thể
qua thư tín hoặc điện thoại để giẩm chi phí hoặc trấnh tình trạng làm
lỡ thời cơ kinh doanh, hoặc xác nhận lại một vài điều khoản mà mọi
điều khoản đã thỏa thuận song .
18
Nội dung của đàm phán bao gồm:
- Hỏi giá: là việc một người mua đề nghị người bán cho biết giá
cả và các điều kiện mua bán. Đây có thể là lời thỉnh cầu của người
mua đưa ra cho người bán.
- Phát giá: Là lời đề nghị ký kết hợp đồng của người bán gửi cho
người mua thể hiện ý định bán hàng của mình.
- Đặt hàng: Là lời đề nghị ký kết hợp đồng của người mua dưới
hình thức đơn đặt hàng. Thực tế do tính chất nội dung của đơn đặt
hàng, nên chỉ thực hiện đặt hàng với những bạn hàng có quan hệ buôn
bán thường xuyên.
- Hoàn giá: Khi nhận được chào hàng, nếu không chấp nhận mọi
nội dung trong đó thì đưa ra một đề nghị mới gọi là hoàn giá thì <đặt
hàng> trước coi như bị huỷ bỏ.
- Chấp nhận: Là sự chấp nhận hoàn toàn mọi điều kiện trong
chào hàng<Đặt hàng> chấp nhận này phải được chính người chấp
nhận ký phát dưới sự đồng ý vô điều kiện mọi nội dung trong thơì hạn
hiệu lực của hợp đồng và phải gửi đến chi người chào hàng<đặt hàng>
thì mới có giá trị pháp lý.
- Xác nhận: Là sự xác nhận mua bán hàng hóa theo những thảo
thuận đã thống nhất với nhau của các bên.
Trong giao dịch đàm phán nếu hai bên có thiện chí và có được
tiếng nói chung thì sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng mua bán. Hợp
đồng mua bán ngoại thương là sự thoả thuận của các đương sự có
quốc tịch khác nhau trong đó một bên là bên bán có
nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên kia gọi là bên mua một tài sản nhất định gọi là hàng hóa, đồng thời bên nhập
khẩu có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng.
19
Luật pháp Việt Nam quy định hợp đồng mua bán ngoại thương
giữa các đơn vị kinh tế trong nước và nước ngoài thì đều phải thể hiện
dưới dạng văn bản. Các bên tham gia ký kết phải có đầy đủ tư cách
pháp nhân, năng lực hành vi, năng lực pháp lý và đầy đủ thẩm quyền
theo quy định của pháp luật. Hợp đồng được gọi là có hiệu lực khi có
đầy đủ hai bên tham gia ký kết..
Nội dung của hợp đồng ngoại thương bao gồm:
- Số hiệu hợp đồng.
- Ngày, địa chỉ ký hợp đồng.
- Các bên tham gia: Tên, địa cchỉ, quốc
tịch, số điện thoại, Fax, số tài khoản tại ngân hàng, người đại
diện.
* Các điều khoản của hợp đồng.
+ Tên hàng, quy cách, số lượng, chất lượng bao bì, ký hiệu, mã hiệu.
+ Giá cả đơn giá, tổng giá.
+ Thời điểm, địa điểm, phương thức giao hàng.
+ Điều kiện thanh toán.
+ Điều kiện khiếu nại, trọng tài.
+ Các thỏa thuận khác.
+ Chữ ký, con dấu của các bên.
Ngoài ra đi kèm với hợp đồng có thể là các bản phụ lục, tài liệu
kỹ thuật để mô tả kỹ lưỡng hơn về hàng hóa, đôi khi là một bộ phận
không thể tách rời với hợp đồng.
20
- Xem thêm -