I.Lời nói đầu
Với khoảng 70 % dân số là nông dân, Việt Nam luôn coi
trọng những vấn đề liên quan đến nông dân, nông nghiệp
và nông thôn.
Nền kinh tế Việt Nam trong hơn 20 năm Đổi mới vừa qua
(1986-2008) đã đạt được nhiều thành tựu phát triển khả
quan. Trong lĩnh vực nông nghiệp, sản lượng các loại nông
sản đều tăng, nổi bật nhất là sản lượng lương thực đều tăng
với tốc độ cao từ năm 1989 đến nay. Năm 1989 là năm đầu
tiên sản lượng lương thực vượt qua con số 20 triệu tấn, xuất
khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 310 triệu USD. Đến
năm 2007 vừa qua sản lượng lương thực đã đạt đến con số
kỷ lục 39 triệu tấn và đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, đạt
kim ngạch 1,7 tỷ USD.
1
Với những chuyển biến trên nhà nước cũng rất chú trọng
tới công tác hỗ trợ chuyển giao công nghệ các giống cây
trồng vật nuôi mới hiệu quả và năng suất cao tới người
dân.Một trong những hướng đi đã được bà con nhân dân
chấp thuận về tính kinh tế cũng như phù hợp với trình độ
người đông đảo người dân đó chính là hoạt động trông
Nấm xuất khẩu.Ngành sản xuất nấm ăn đã hình thành và
phát triển trên thế giới từ hàng trăm năm. Hiện nay có
khoảng 2.000 loài nấm ăn được, trong đó có 80 loài nấm ăn
ngon và được nghiên cứu nuôi trồng nhân tạo (UNESSCO2004). Việc nghiên cứu và sản xuất nấm ăn trên thế giới
ngày càng phát triển mạnh mẽ và đã trở thành một ngành
công nghiệp thực phẩm thực thụ..Mặc dù là ngành còn mới
và gặp rất nhiều khó khăn nhưng với sự hỗ trợ của nhà
nước và các doanh nghiệp đã đưa ngành trồng nấm và xuất
khẩu nấm ở nước ta có nhiều tăng trưởng rõ rệt.Sau đây
2
chúng ta xẽ xem xét các vấn đề liên quan tới ngành trồng
Nấm và xuất khẩu Nấm ở nước ta
II.Nội dung
1.Thực trạng ngành xuất khẩu Nấm của Việt Nam và
trên thế giới
1.1 Tình hình xuất khẩu Nấm tại Việt Nam
Ở Việt nam đang nuôi trồng 6 loại Nấm phổ biến là:nấm
rơm,mộc nhĩ,nấm hương,nấm mỡ ,nấm sò,nấm dược liệu
(Linh chi ,Vân chi,Đầu khỉ).Nghề trồng nấm ở nước ta
đang phát triển nhưng trong quy mô nhỏ lẻ hộ gia
đình.Tổng sản lượng các loại Nấm ăn và Nấm dược liệu
của Việt Nam là trên 150.000 triệu tấn /năm.Kim ngạch
xuất khẩu khoảng 60 triệu USD/năm
3
Mặc dù đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu, nhưng hiện sản
xuất nấm của nước ta vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún và phải
bán qua tay người khác. Một số doanh nghiệp cảnh báo,
mục tiêu đạt 1 triệu tấn nấm vào năm 2010 sẽ khó đạt được
nếu chúng ta không biết điều tiết thị trường, hình thành
vùng nguyên liệu và nhất là xây dựng thương hiệu để nâng
cao giá bán.
Nấm ăn là loại thực phẩm sạch, giàu dinh dưỡng được
nhiều người ưa chuộng. Thị trường nấm ăn trên thế giới rất
lớn, trung bình tiêu thụ khoảng 15 triệu tấn nấm rơm/năm.
Giá các loại nấm ăn đang ở mức cao: nấm mỡ muối khoảng
1.200 USD/tấn; mộc nhĩ, nấm hương, nấm rơm 1.700 6.500 USD/tấn. Trong khi đó, giá nấm sản xuất trong nước
ở thời điểm đắt nhất cũng chỉ 28.000 - 30.000 đồng/kg,
4
nấm rơm 10.000 - 15.000 đồng/kg. Điều đáng nói là giá
nấm xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 60% so với sản
phẩm cùng loại được sản xuất tại Thái Lan, Trung Quốc.
Nguyên nhân là do nguồn nguyên liệu không đảm bảo về
chất lượng, sản phẩm không đồng đều về kích thước, mẫu
mã...
Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để phát triển nghề trồng
nấm, riêng lượng rơm rạ 20-30 triệu tấn/năm đủ để cho "ra
đời" 2 triệu tấn nấm tươi, trị giá 1 tỷ USD, thậm chí, nếu
chế biến thành đồ hộp, giá trị còn cao hơn. Năm 2002, cả
nước mới sản xuất được 100.000 tấn nấm thực phẩm thì
đến nay đã đạt 150.000 tấn/năm.
Ở Việt Nam Nấm chủ yếu được dùng làm thuốc là chủ
yếu.Việc tiêu thụ Nấm làm thực phẩm cũng chưa thực sự
phổ biến.Hiện tại Nấm chỉ được côi là mặt hàng bổ xung
5
cho các thực phẩm khác,chưa thực sự trở thành mặt hàng
được tiêu dùng rộng rãi. uy nhiên, giá cả đầu ra của nấm
rơm luôn tăng giảm thất thường đã và đang gây không ít
khó khăn và lo ngại cho những người trồng nấm, đặc biệt là
những lúc có nhiều người trồng nấm như trong những
tháng mùa lũ này. Cách nay vài tháng, giá nấm rơm có lúc
đã lên ở mức 20.000 - 30.000 đồng/kg, nhưng hiện tại do
nguồn cung tăng, giá nhiều loại nấm rơm tại TP Cần Thơ
và các tỉnh ĐBSCL chỉ ở mức 11.000 - 16.000 đồng/kg.
Nhiều người trồng nấm rơm cho rằng: Thời gian qua, các
ngành chức năng đã quan tâm hỗ trợ về kỹ thuật, về vốn...
người sản xuất nấm rơm, tạo điều kiện cho nghề nấm phát
triển tốt. Song, việc trồng nấm đang còn phát tiển tự phát
nên đầu ra của sản phẩm còn bấp bênh. Vì vậy, có đầu ra
ổn định cho sản phẩm, việc sản xuất nấm tại các tỉnh, thành
ĐBSCL cần phải được quy hoạch phát triển gắn với những
6
dự báo về cung cầu của thị trường hằng năm. gKim ngạch
xuất khẩu nấm năm 2009 tăng 34% so với năm ngoái
Trong những mặt hàng rau xuất khẩu năm 2009 thì kim
ngạch xuất khẩu nấm luôn đạt cao nhất. Theo số liệu thống
kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu nấm 11
tháng năm 2009 đạt 17 triệu USD, tăng 26,7% so với cùng
kỳ 2008. Ước tính trong tháng 12/09, kim ngạch xuất khẩu
nấm các loại đạt 3 triệu USD, nâng tổng kim ngạch của cả
năm 2009 lên 20,2 triệu USD, tăng 34% so với năm 2008.
Trong 11 tháng năm 2009 có 31 thị trường nhập khẩu nấm
của Việt Nam, trong đó thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch
cao nhất với 7,7 triệu USD, tăng 29,7% so với cùng kỳ
2008. Đây là lần đầu tiên thị trường Mỹ vượt qua Italia để
vươn lên vị trí dẫn đầu trong số những thị trường nhập
khẩu nấm của Việt Nam. Các sản phẩm nấm xuất khẩu
7
sang thị trường này chủ yếu là nấm rơm muối và nấm rơm
đóng hộp.
Tiếp đến là thị trường Italia với kim ngạch đạt 4,4 triệu
Usd, tăng 63,3% so với cùng kỳ 2008. Đáng chú ý, kim
ngạch xuất khẩu nấm sang thị trường Pháp, Bỉ và Cộng hòa
Séc tăng rất mạnh, tăng lần lượt 151,6%, 156,1% và 269%.
Tuy nhiên, cũng có một số thị trường giảm nhẹ như Nhật
bản giảm 9,1%, Hồng Kông giảm 46,4%, Hàn Quốc giảm
69,8%...
Xuất khẩu nấm tiếp tục đà tăng trưởng vững: trong 11
tháng năm 2009 có khá nhiều mặt hàng giảm kim ngạch
xuất khẩu như rau cải, cà, rau cần, đậu...nhưng xuất khẩu
nấm các loại vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định (tăng
50% so với cùng 2008). Nhìn chung các sản phẩm nấm
xuất khẩu đều tăng, đặc biệt là nấm rơm muối đạt kim
ngạch 8,4 triệu USD, tăng 86,7% so với cùng thời điểm
8
2008. Nấm mèo đạt 63,5 nghìn USD, tăng 93,5%...Tuy
nhiên, cũng có một số mặt hàng nấm giảm khá mạnh như
nấm rơm đóng lon đạt 4,9 triệu USD giảm 7,4%. Nấm
hương và mộc nhĩ khô giảm giảm lần lượt 18,1% và 57,3%
so với cùng kỳ 2008.
Thị trường xuất khẩu nấm rơm muối nhìn chung ổn định,
Italia vẫn là thị trường nhập khẩu nhập khẩu nhiều nấm
rơm muối nhất với kim ngạch đạt 4,3 triệu USD, tăng
111%. Xuất khẩu nấm rơm muối sang thị trường Mỹ cũng
tăng rất mạnh, đạt 1,7 triệu USD, tăng 136% so với cùng kỳ
2008. Đáng chú ý, Trung Quốc, Ba Lan, Hà Lan, Malaisia
và Hàn Quốc là những thị trường mới nhập khẩu nấm rơm
muối của Việt Nam trong tháng 11 tháng qua, kim ngạch
xuất khẩu nấm rơm muối sang 4 thị trường này đạt 126,4
nghìn USD. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nấm
rơm muối sang những thị trường này chưa cao nhưng đây
9
cũng là những thị trường tiềm năng mà các doanh nghiệp
xuất khẩu nấm cần khai thác.
Đơn giá xuất khẩu nấm tăng mạnh: Giá trung bình xuất
khẩu nấm rơm muối tăng khá mạnh, từ mức 1299,2
USD/tấn trong tháng 1/09 lên 1790 USD/tấn trong tháng
11/09. Giá một số loại nấm xuất khẩu sang Mỹ, Italia, Nhật
Bản, Pháp, Thái Lan có xu hướng tăng lên. Cụ thể, giá nấm
rơm muối xuất khẩu sang thị trường Italia tăng từ 1,4
USD/kg lên 1,95 USD/kg, tăng 39,35% so với tháng 10/08.
Tương tự giá nấm rơm muối xuất khẩu sang thị trường Mỹ
tăng từ 18,5 USD/thùng lên 27USD/thùng, tăng 45,9%. Tại
Pháp, đơn giá xuất khẩu một tấn nấm rơm muối là 1101,75
USD/tấn, tăng 18,8%...Đáng chú ý, đơn giá xuất khẩu nấm
rơm muối sang Trung Quốc, Thái lan và Italia thường cao
hơn so với đơn giá xuất khẩu sang thị trường Pháp. Mỹ đã
10
vượt qua Italia để vươn lên vị trí thứ nhất về nhập khẩu
nấm của VN, với giá trị nhập 4,2 triệu USD trong 10 tháng
đầu năm nay.
Xuất khẩu nấm các loại sang Italia chỉ đạt 4 triệu USD,
Nhật Bản đạt 1 triệu USD...
Giá xuất khẩu nấm của VN cũng đang có xu hướng tăng ở
hầu hết các thị trường Mỹ, Italia, Nhật Bản, Pháp, Thái
Lan...
Cụ thể, giá nấm rơm muối xuất khẩu sang thị trường Italia
tăng từ 1,4 USD/kg lên 1,95 USD/kg, tăng 39,35% so với
cùng kỳ năm ngoái.
Tương tự giá nấm rơm muối xuất khẩu sang Mỹ tăng từ
18,5 USD/thùng lên 27 USD/thùng, tăng 45,9%; nấm rơm
đóng hộp sang Mỹ cũng tăng từ 21 USD/thùng lên 27
11
USD/thùng, sang Nhật tăng từ 26,2 USD/thùng lên 29
USD/thùn
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng rau quả của cả nước trong tháng 10/06
đạt 19,3 triệu USD, giảm 22,14 % so với tháng 9/06 và tăng
10,6% so với tháng 10 năm 2005. Tuy nhiên, xuất khẩu các
loại rau củ như nấm rơm tăng khá so với tháng 9 năm 2006.
Trong đó, nấm rơm vẫn là chủng loại rau củ được xuất
khẩu nhiều nhất của nước ta với kim ngạch xuất trong
tháng 10 năm 2006 đạt 2,5 triệu USD, tăng 0,8% so với
tháng 9/2006.
Số lượng các doanh nghiệp xuất khẩu nấm rơm của nước ta
trong thời gian qua tương đối ổn định và dao động không
12
nhiều. Tháng 10 năm 2006, có 23 doanh nghiệp tham gia
xuất khẩu nấm rơm, ít hơn tháng 9/2006 một doanh nghiệp
nhưng nhiều hơn tháng 8/2006 một doanh nghiệp.
Dẫn đầu danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu nấm rơm
của nước ta trong tháng 10 năm 2006 là Xí nghiệp chế biến
nấm xuất khẩu Tư Thao, Sóc Trăng với kim ngạch đạt
374,2 nghìn USD, tăng 39,5. Nguyên nhân chính là do kim
ngạch xuất sang Italia - thị trường xuất khẩu nấm rơm
chính của doanh nghiệp tăng vọt, đạt kim ngạch 319,6
nghìn USD, tăng 44% so với tháng 9 năm 2006.
Trong khi đó, xuất khẩu nấm rơm của Công ty cổ phần chế
biến thực phẩm xuất khẩu miền Tây –doanh nghiệp đứng
đầu về xuất khẩu nấm rơm của nước ta trong tháng 9/2006
đã giảm vào tháng 10/2006. Kim ngạch xuất mặt hàng này
của doanh nghiệp chỉ đạt 298 nghìn USD, giảm 29% so với
13
tháng 9 năm 2006. Các thị trường xuất khẩu chính của
doanh nghiệp là Mỹ, Australia, Anh, Ailen. Trong đó, kim
ngạch xuất sang Mỹ - thị trường lớn nhất của doanh nghiệp
tháng 10 năm 2006 giảm, chỉ đạt 217,4 nghìn USD, giảm
36% so với tháng 9/2006.
Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu nấm rơm của DNTN Chế
biến nông sản xuất khẩu Trần Minh trong tháng 10 năm
2006 tăng vọt, đạt 289,5 nghìn USD, tăng 78% so với tháng
9 năm 2006. Các thị trường xuất khẩu chính mặt hàng này
là Mỹ, đài loan và Italia
1.2.Thị trường Nấm thế giới
Ở châu âu và Bắc mĩ công nghiệp trồng Nấm được cơ giới
hóa hoàn toàn nên hiệu quả rất cao.Ỏ nhiều nước châu Á
trồng Nấm còn mang tính manh mún,thủ công chủ yếu là
14
quy mô gia đình và trang trại sản lượng chiếm 70% lượng
Nấm ăn trên toàn thế giới
Ở Nhật bản nghề trồng Nấm truyền thống là Nấm hương
mỗi năm đạt 1 triệu tấn
Hàn quốc nổi tiếng với Nấm linh chi,mỗi năm xuất khẩu và
thu về hàng trăm triệu USD.
Năm 1960, Trung quốc đã bắt đầu cải tiến kĩ thuật,năng
suất tăng 4 5 lần,sản lượng tăng hàng chục lần.Tổng sản
lượng Nấm ăn của Trung Quốc chiếm 60%lượng Nấm ăn
toàn thế giới gồm nhiều loại Nấm như Nấm hương,nấm sò
,nấm kim châm và 1 số loại Nấm chỉ xuất hiện tại trung
quốc như Đông trùng hạ thảo ,tuyết nhĩ.Hàng năm trung
quốc xuất khẩu hàng triệu tấn Nấm sang các nước phát
triển thu về hàng tỉ USD.Hiện nay trung quốc đang dùng kĩ
thuật „Khuẩn thảo học‟ để trồng nấm nghĩa là dùng các loại
15
cỏ cây thân thảo để trồng Nấm thây cho dùng gỗ rừng như
xưa giúp giải quyết được vấn đề cạn kiệt tài nguyên.
Sự hỗ trợ của chính phủ đóng vai trò quan trọng trong
ngành này. Điều này có thể nhận thấy ở Trung Quốc. Với
sự hỗ trợ của chính phủ, Trung Quốc hiện sản xuất được 5
triệu tấn nấm, mang lại giá trị 20 tỷ USD. Ngành này cũng
tạo việc làm cho hơn 30 triệu người Trung Quốc.Sự cải tổ
từ phía chính phủ đem lại sự tăng trưởng lớn cho ngành
trồng nấm từ con số chỉ 60 nghìn tấn trước năm 1978.
Tại Pennsylvania, Mỹ - nơi được coi là vương quốc nấm
của thế giới, ngành này tạo việc làm cho hàng chục nghìn
người, mang lại lợi nhuận hàng chục triệu USD.
Tổng sản lượng nấm toàn cầu lên tới hàng triệu tấn tạo
nguồn thu hàng chục tỷ đô la. Sự tăng trưởng của ngành
16
trồng nấm được coi là một hiện tượng do có tốc độ tăng
mạnh từ con số 350 tấn vào năm 1965.
Hiện tại có tới hơn 10 nghìn loại nấm. Có loại nấm ăn
được, dùng để làm thuốc, có loại nấm độc và một số loại
nấm chưa được phân loại. Cho đến nay, trong 10 nghìn loại
nấm, 5 nghìn loại được coi là ăn được, hơn 1 nghìn loại
được dùng làm thuốc và 1 nghìn loại bị coi là nấm độc.
Ngành trồng nấm là hoạt động sản xuất nông nghiệp mà
mọi người đều có thế tham gia. Đây có thể được coi là công
việc phụ tạo thêm nguồn thu đối với một số người. Đây là
ngành sinh lợi lớn và người trồng nấm có thể biết được
mình thu được lợi nhuận bao nhiêu sau khoảng thời gian có
khi chỉ 3 tháng.
17
Thị trường nấm gồm có các dạng nấm tươi, nấm đông lạnh,
nấm hộp và nấm khô.Theo nghiên cứu của cơ quan
Ìformanaliz, hàng năm thị trường Nga tiêu thụ khoảng 500
ngàn tấn nấm các loại. Mức tiêu thụ bình quân hơn 3
kg/người/năm, cao hơn so với các nước khác. Tính trung
bình theo đầu người hàng năm ở Pháp và Mỹ tiêu thụ
chừng 2,5 kg, tại các nước EU- hơn 2 kg. Nấm cung cấp
cho thị trường bao gồm nguồn nội địa và nhập khẩu.Nguồn
nội địa do các cơ sở trồng, chế biến và người dân thu hái
nấm
tự
nhiên
trong
rừng
theo
mùa
vụ.
Sản xuất nấm của Nga chỉ đáp ứng một phần nhu cầu tiêu
thụ của thị trường. Năm 2006, trong 110 cơ sở sx nấm, thu
hoạch được 11 901 tấn. Năm 2007 so với năm 2006, tăng
19%, đạt 14 182 tấn tại 129 cơ sở sx. Một trong những
nguyên nhân cơ sở sx tăng chậm là do thiếu nguyên liệu
18
(phân trộn để giep cấy nấm-NV). Theo số liệu thống kê,
nấm hương chiếm 68% tổng lượng nấm thu hoạch hàng
năm. Trong đó 82% lượng nấm hương được gieo trồng và
thu hoạch tại các cở sở sx nấm có quy mô lớn và trung
bình. Nấm thu hái có thể bán ở dạng tươi, đông lạnh, đóng
hộp họăc phơi khô. Các cơ sở sx nấm hộp có tiêng ở Nga,
như
công
ty
Ekoproduc,
Ryazhsky.
Hiện nay, Nga NK hơn 140 ngàn tấn nấm mỗi năm. Lượng
nấm NK năm sau tăng hơn năm trước. Cụ thể, năm 2007
tăng 9% so với năm 2006.
Sau đây là biểu số liệu các loại nấm NK năm 2006,
2007: (Đơn vị: tấn)
Loại nấm
2006
2007
19
Nấm tươi (kod TN 27 337
31 738
VED 07095)
Nấm sơ chế (- 56 092
65 427
2003)
Nấm
muối
(- 31 008
28 250
Nấm đông lạnh (- 19 355
22 048
2001)
071080)
Nấm bảo quản thời 1 850
hạn
829
ngắn(-
071151)
Nấm
khô
(- 327
562
07123)
Tổng số
135 969
148 854
(Nguồn: Cơ quan Thống kê LB Nga)
20
- Xem thêm -