1
LỜI MỞ ĐẦU
DNNN là tế bào kinh tế của một quốc gia, hoạt động kinh doanh bình
đẳng với các thành phần kinh tế khác trong khuôn khổ quy định của nhà
nước thông qua hệ thống pháp luật.Nhiệm vụ chính cảu doanh nghiệp nhà
nước là thực hiện có hiệu quả các hoạt động về kinh tế xã hội và không
ngừng phát triển theo quy luật, phát triển kinh tế có định hướng của chính
trị xã hội, của nhà nước, trên cơ sở vật chất nguồn vốn nhà nước.
Dưới thời bao cấp DNNN hoạt động hoạt động theo cơ chế mệnh
lệnh sản xuất kinh doanh, theo kế hoạch tập trung. Việc sử dụng nguồn
vốn và nguồn lực thiết bị đều được nhà nước bao cấp.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần kinh tế phát
triển và sự ạnh tranh ngày càng gay gắt đã tạo sự tác động ngược lại đối
với doanh nghiệp nhà nước làm không ít doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn. Sự bao cấp của nhà nưcớ không còn, việc chuyển đổi cơ cấu nhà
nước sang hình thức kinh doanh và tự phát triển cạnh tranh đã làm cho
không ít nhà nước tự mình nhìn lại mình. Lịch sử và thực trạng là những
vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết đối với DNNN
Qua chuyên đề này chúng tôi đề cập nhiều đến hoạt động huy động
và sử dụng vốn của DNNN .Tuy đã ccó nhiều cố gắng nhưng do phương
pháp luận còn hạn chế, kiến thức hiểu biết chưa sâu nên bài tập còn nhiều
thiếu sót mong sự góp ý của thày cùng các bạn.
2
NỘI DUNG
Phần I: Lý luận chung
I. Đầu tư
1. Khái niệm về đầu tư :
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư, trên các góc độ
khác nhau:
Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác trong
hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi
trong tương lai.
Trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để
thu được một mức tiêu dùng lớn hơn trong tương lai.
Trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ
đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Đầu tư trong doanh nghiệp là hoạt động chỉ định vốn cùng các nguồn
lực khác trong hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng tài sản cho
doanh nghiệp tạo thêm việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên
trong đơn vị.
2. Vai trò của hoạt động đầu tư đối với doanh nghiệp.
Đầu tư giữ vai trò quyết định để nghiên cứu chất lượng, sản phẩm, dich
vụ của doanh nghiệp.
Đầu tư là cơ sở để đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ kĩ thuật
Đầu tư tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ cơ sở
nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm giá thành tăng lợi nhuận.
II. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp
1. Khái niệm:
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và
phân phối cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà
nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong
nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2. Vai trò của nguồn vốn đầu tư
Khi muốn tiến hành bất kì một hoạt động đầu tư nào, yếu tố đầu tiên và
quan trọng nhất là nguồn vốn để đầu tư, làm sao để có thể huy động được
nguồn vốn đó? Như vậy có thể nói nguồn vốn đầu tư là một trong những
yếu tố chính quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của một doanh
nghiệp.
3
Sở dĩ có thể nói vậy vì khi một doanh nghiệp muốn sản xuất, kinh
doanh thì đều phải xây dựng cơ sở vật chất cho mình như xây dựng nhà
xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ,
tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn
liền với sự hoạt động trong một chu kì của các cơ sở vật chất kĩ thuật vừa
được tạo ra.
Đối với các cơ sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời
gian hoạt động, các cơ sở vật chất – kĩ thuật đã hư hỏng, hao mòn. Để duy
trì được hoạt động bình thường cần định kì tiến hành sửa chữa lớn hoặc
thay mới những cơ sở vật chất – kĩ thuật đó.
Doanh nghiệp không những phải duy trì sản xuất mà còn phải đổi mới
để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kĩ
thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các
trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ lạc hậu, lỗi thời.
Muốn làm được những việc này cần phải có nguồn vốn đầu tư.
3. Bản chất của nguồn vốn đầu tư.
Xét về bản chất thì nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm
hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái
sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học
Mác – Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith, môt
điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển cho rằng: “ Tiết kiệm là
nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ
cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù cho có tạo ra bao nhiêu chăng nữa,
nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên.”
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ
giữa các khu vực của nền kinh tế xã hội, về các vấn đề liên qua trực tiếp
đến tích luỹ, K. Mark đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai
khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất, khu vực II sản xuất tư liệu
tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm ( c + v + m )
trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v + m) là phần giá trị mới sáng tạo ra.
Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền
sản xuất xã hội phải đảm bảo:
(v + m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
4
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không
chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế mà còn phải dư thừa
để là tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II yêu cầu phải đảm bảo:
(c+ v + m)II < ( v + m )I + ( v+m)II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn,
nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng.
Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy theo Mark, để tái sản xuất mở rộng và phát triển sản xuất cần
phải phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm trong cả sản xuất và tiêu
dùng.
- Kinh tế học hiện đại: trong tác phẩm nổi tiếng “lý thuyết tổng quát về
việc làm, lãi xuất và tiền tệ”của mình, John Maynard Keynes đã chứng
minh được rằng: đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển thành
tiêu dùng. đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra
của thu nhập so với tiêu dùng:
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
(I)
(S)
Tuy nhiên điều kiện cân bằng trên chỉ xảy ra trong điều kiện nền kinh tế
đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu
vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Trong nền kinh tế mở, đẳng thức
này không phải lúc nào cũng đúng. Chẳng hạn phần tích lũy của nền kinh
tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại một nước, khi đó vốn có thể chuyến
sang nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh
tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm
từ nước ngoài. Trong trường hợp này mức chênh lệch giữa tiết kiệm và
đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó CA là tài khoản vãng lai
Như vậy trong điều kiện nền kinh tế mở nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn
tích luỹ của nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể
huy động vốn từ đầu tư nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ
của nền kinh tế có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan
5
trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu của
đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia
đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
III. Nguồn vốn của doanh nghiệp
1. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp
a. Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải
có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông – chủ sở hữu góp gọi là
vốn góp ban đầu
Đối với DNNN, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp khác, theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh
nghiệp phải có số một số vốn góp ban đầu cần thiết để xin đăng kí thành
lập doanh nghiệp.
b. Thặng dư vốn
Trong quá trình đầu tư doanh nghiệp không sử dụng hết số vốn đã huy
động nên đem số vốn thừa đó để cho các tổ chức khác vay lại gọi là thặng
dư vốn.
Vị trí : Giảm chi phí vốn vay khi không sử dụng hết lượng vốn đi vay.
c. Thu nhập giữ lại
Khái niệm: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả thì một phần lợi nhuận không chia sẽ trở
thành nguồn vốn tích lũy được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Vị trí: Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một phương thức tạo
nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp vì doanh
nghiệp giảm được chi phí và sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh
nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục
tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu
cầu vốn ngày càng tăng.
d. Vốn khấu hao
Khái niệm: Vốn khấu hao là nguồn vốn được trích lại từ lợi nhuận của
doanh nghiệp để sửa chữa lớn hoặc thay mới những cơ sở vật chất – kĩ
thuật hư hỏng, hao mòn sau một thời gian hoạt động.
Vị trí : Để doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động bình thường trong
một thời gian dài.
2. Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu
6
a. Khái niệm:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn
chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới.
b. Các loại cổ phiếu
Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu
thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị
trường chứng khoán. Nó có thể được trao đổi, mua bán trên thị trường
chứng khoán.
Cổ phiếu ưu tiên: Thường chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng số cổ
phiếu được phát hành . Cổ phiếu ưu tiên thường có đặc điểm là có cổ tức
cố định Người chủ cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các
cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì cổ
đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kì đó. Việc giải quyết chính
sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ công ty.
c. Những ưu nhược điểm của doanh nghiệp khi huy động vốn bằng phát
hành cổ phiếu
Ưu điểm: Có thể huy động một lượng vốn lớn để phát triển doanh
nghiệp.
Nhược điểm: Có nguy cơ bị thôn tính công ty. Cần phải tính đến tỉ lệ cổ
phần tối thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm soát của công ty.
3. Nguồn vốn từ phát hành trái phiếu
a. Khái niệm:
Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn bao
gồm: trái phiếu chính phủ, và trái phiếu công ty. Trái phiếu còn gọi là trái
khoán
b. Các loại trái phiếu
Trái phiếu có lãi suất cố định: Loại này thường được sử dụng phổ biến
nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên
mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kì hạn của nó. Việc thanh toán
lãi trái phiếu cũng thường được qui định rõ. Mức độ hấp dẫn của trái phiếu
phụ thuộc vào:
Lãi suất của trái phiếu
Kỳ hạn của trái phiếu
Uy tín của doanh nghiệp
Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Là trái phiếu có lãi suất phụ thuộc vào
một nguồn lãi suất quan trọng khác.
7
Trái phiếu có thể thu hồi: Là loại trái phiếu mà doanh nghiệp có thể mua
lại vào một thời gian nào đó. Doanh nghiệp phải quy định rõ thời hạn và
giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu.
Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển
đổi thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ
phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
4. Tín dụng ngân hàng
4.1. Đặc điểm
Vốn tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn phổ biến của các
doanh nghiệp hiện nay.Nhưng để vay được vốn từ ngân hàng doanh
nghiệp cần phải có điều kiện nhất định.
Điều kiện tín dụng: các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp
vay vốn luôn luôn phải đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng
thông qua một hệ thống bảo đảm tín dụng. Trước tiên, ngân hàng phải
phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh gía các thông tin liên quan đến dự án
đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn.
Doanh nghiệp phải cung cấp những báo cáo tài chính và những thông tin
cần thiết khác theo yêu cầu của ngân hàng
Các điều kiện bảo đảm tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói
chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phaỉ có bảo đảm
tín dụng phổ biến nhất là tài sản thế chấp.Việc yêu cầu người vay có tài
sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng
các điều kiện vay kể cả thủ tục pháp lý về giấy tờ …
Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn
ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về
mục đích và tình hình sử dụng vốn vay.Tuy sự kiểm soát của ngân hàng
không gây ra vấn đề lớn nhưng doanh nghiệp vẫn có cảm giác bị kiểm soát
Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi
suất vốn tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào tình hình sử dụng vốn tín dụng
trên thị trường trong từng thời kỳ.Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh
nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của
doanh nghiệp
4.2. Các hình thức cho vay
Về mặt thời gian có thể phân thành :
Vay dài hạn: thường là từ 5 năm trở lên
Vay trung hạn : từ 1 đến 5 năm
Vay ngắn hạn: dưới 1 năm
8
Tuỳ theo hình thức sử dụng mà ngân hàng có các hình thức cho vay
khác nhau: Vay đầu tư tài sản cố định, vay vốn lưu động, vay để phục vụ
dự án
Cũng có những hình thức cho vay khác như: vay theo ngành kinh tế,
theo lĩnh vực phục vụ hoặc vay theo hình thức bảo đảm các khoản vay
4.3. Vai trò của vốn tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp
Vốn tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng của
doanh nghiệp.Trên thực tế các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô sản
xuất đều có sự trợ giúp của hoạt động ngân hàng .
Có thể nói rằng : Không một công ty nào có thể hoạt động tốt mà
không vay vốn ngân hàng nếu công ty đó muốn tồn tại vững chắc trên
thương trường.Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp thường vay
ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư
chiều sâu.
5. Tín dụng Thương mại
Nguồn vốn tín dụng thương mại là một nguồn hình thành tự nhiên trong
quan hệ mua bán trả chậm trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh
hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà đối với toàn
bộ nền kinh tế.
Trong một số công ty nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các
khoản phải trả có thể chiếm tới 20% trên tổng số nguồn vốn, thậm chí có
thể chiếm tới 40%.
Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện
dụng và linh hoạt trong kinh doanh; mặt khác nó còn tạo khả năng mở
rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền.
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất
các khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm
hay dịch vụ. Khi mua bán hang hoá trả chậm chi phí này có thể “ẩn” dưới
hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc vào quan hệ và thoả thuận cụ thể
giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới,
các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính
chất cạnh tranh hơn; Do đó, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để lựa chọn
nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
IV. Các hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp
9
DN muốn tồn tại và phát triển thì phải không ngừng nâng cao chất
lượng sản phẩm, dịch vụ.DN muốn cạnh tranh thì sản phẩm và dịch vụ của
doanh nghiệp phải bắt kịp với nhu cầu của thị trường. Muốn như vậy thì
DN phải luôn tiến hành đổi mới dây chuyền sản xuất, áp dụng công nghệ
tiên tiến hiện đại, mở rộng qui mô sản xuất và nâng cao năng suất lao
động….Đấy chính là các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Các hoạt động đầu tư của DN bao gồm:
1. Đầu tư xây dựng cơ bản: bao gồm các hoạt động xây lắp, mua sắm
máy móc và thiết bị. Đây là hoạt động đầu tư quan trọng trong DN,là hoạt
động tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho DN. Trong DN vốn chi cho hoạt
động này chiếm một tỷ trọng rất lớn. Thường chiếm trên 50% vốn bỏ ra
ban đầu của DN.
2. Đầu tư bổ sung hàng dự trữ: để cho DN luôn trong thế chủ động đáp
ứng được nhu cầu thị trường và hoạt động một cách hiệu quả nhiều DN tỷ
trọng vốn đầu tư cho mua sắm hang dự trữ là lớn.
3. Đầu tư nghiên cứu triển khái (R&D) công nghệ khoa học - kỹ thuật
nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Đây là hoạt động
quan trọng nằm trong chiến lược hoạt động của doanh nghiệp vì KH-CN
càng ngày càng phát triển với tốc độ rất nhanh chon. Nếu DN không đầu tư
cho hoạt động này thì sẽ bị tụt hậu và không thể cạnh tranh được trên thị
trường
4.Đầu tư phát triển nguồn nhân lực(NNL): NNL là yếu tố quan trọng
trong hàm sản xuất của doanh nghiệp. Một DN có chất lượng nguồn nhân
lực cao sẽ có nhiều tiềm năng để đưa DN đi lên và luôn phát triển.
5.Đầu tư cho hoạt động quảng cáo, tiếp thị sản phẩm:
Quảng cáo không thể thiếu trong kinh doanh. Quảng cáo, tiếp thị giúp cho
sản phẩm và dịch vụ của DN có thể đến với khách hang. Hiện nay, trong
các DN thì hoạt động quảng cáo và tiếp thị diến ra liên tục và hoạt động
này sử dụng một lượng vốn chiếm tới 5% trong vốn chi cho hoạt động
trong DN.
6.Các hoạt động đẩu tư khác.
Đầu tư bất động sản; đầu tư tài chính; Đầu tư tín dụng chứng
khoán….các hoạt động này không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ
cho DN nhưng nó mang lại một nguồn thu nhập đáng kể cho DN.
Khi tiến hành cáchoạt động đầu tư thì DN sẽ tiến hành đầu tư theo
chiều sâu hoặc đầu tư theo chiều rộng.
Đầu tư theo chiều rộng: là hình thức đầu tư trên cơ sở cải tạo, mở
rộng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, xây dựng mới nhưng với kỹ thuật
công nghệ như cũ
10
Đầu tư theo chiều sâu : là hình thức đầu tư trên cơ sở nâng cấp
đồng bộ hoá , hiện đại hoá, cơ sở vật chất hiện có. Là việc đầu tư mới
nhưng với công nghệ kỹ thuật hiện đại mức thiết bị tiên tiến của nghành,
địa phương.
Phần II. Thực trạng huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
nhà nước hiện nay.
I. Thực trạng huy động vốn trong các DNNN hiện nay.
1. Thực trạng cổ phần hoá.
Các DNNN ở nước ta do yếu lịch sử đã và đang đóng góp vai trò to lớn
gần như tuyệt đối trong mọi lĩnh vực nhưng lại hoạt động kém hiệu quả.
Quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tất yếu phải
đổi mới căn bản DNNN.
Sắp xếp chuyển đổi sở hữu DNNN mà trọng tâm là cổ phần hoá DNNN
được coi là xương sống của công cuộc đổi mới về kinh tế. Đổi mới, sắp
xếp và phát triển DNNN là một chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta.
Chủ trương này đã được triển khai thực hiện trong gần 20 năm qua.
Qua CPH, DNNN đã chuyển thành DN có nhiều chủ sở hữu, tạo động
lực và cơ chế quản lý năng động, huy động thêm được nguồn vốn của xã
hội vào sản xuất, kinh doanh, hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng hội
nhập của DN được nâng lên.
Mặc dù có những thăng trầm, nhưng công cuộc sắp xếp lại DNNN ở
nước ta đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp DNNN
được thực hiện bằng các giải pháp: sáp nhập, hợp nhất, CPH, giao, khoán,
bán cho thuê DN, tổ chức lại các tổng công ty và thành lập các tập đoàn
kinh tế. Trong tất cả các giải pháp đó, CPH được coi là giải pháp cơ bản và
quan trọng nhất để cơ cấu lại DNNN. Sau 15 năm kể từ khi thực hiện đổi
mới chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở CPH
DNNN và bộ phận DNNN. Đến hết tháng 8-2006, cả nước đã sắp xếp
được 4.447 doanh nghiệp, trong đó, cổ phần hoá 3.060 doanh nghiệp.
Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.389 doanh nghiệp (bằng
68% số DNNN có vào đầu năm 2001). Hình thức sắp xếp phổ biến nhất là
cổ phần hoá.
Hình thức CPH phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại
doanh nghiệp, kết hợp phát hành thêm cổ phần (hình thức này chiếm
43,4%), tiếp đó là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp
(hình thức này chiếm 26%), còn lại là bán toàn bộ vốn (hình thức này
11
chiếm 15,5%), giữ nguyên vốn nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu
(chiếm 15,1%).
Hiệu quả CPH: Số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá (DN CPH) tăng
mạnh: Tính đến 30/6/2006, cả nước đã cổ phần hoá được 3.365 doanh
nghiệp, bộ phận doanh nghiệp, trong đó chỉ tính riêng năm 2005 thực hiện
cơ chế cổ phần hoá theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã có 967 đơn vị
được phê duyệt phương án cổ phần hoá. Thông qua cổ phần hoá đã huy
động được trên 22.000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư vào sản
xuất kinh doanh.
DN CPH có quy mô vốn lớn hơn trước đây: Trong số 967 đơn vị đã
được phê duyệt phương án cổ phần hoá trong năm 2005 thì có tới 310 đơn
vị có số vốn trên 10 tỷ đồng (chiếm 32%), trong đó có gần 10 doanh
nghiệp có vốn nhà nước trên 300 tỷ đồng. Nếu như trước năm 2005 vốn
nhà nước trong 2.307 đơn vị cổ phần hoá chỉ khoảng 20 ngàn tỷ đồng,
bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì chỉ riêng năm 2005
vốn nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hoá đã đạt 20 ngàn tỷ đồng, bằng
8% tổng số vốn nhà nước.
Theo điều tra cho thấy, sau CPH vốn bình quân một doanh nghiệp tăng
từ 24 tỷ $ (2001) lên 63,6 tỷ $ (2004), có tới 92,5% số doanh nghiệp được
điều tra cho rằng có lãi, LNTT tăng 149,8%, LNST tăng bình quân
182,3%, mức nộp NSNN bình quân tăng 26,53%, NSLĐ tăng trung bình
63,9%, TN bình quân của người lao động tăng 35,4% so với trước CPH,
lao động tăng do mở rộng sản xuất, cổ tức cao hơn nhiều so với lãi suất
ngân hàng.
Năm 2004, theo kết quả điều tra của Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp
Trung ương đối với trên 500 doanh nghiệp nhà nước hoàn thành việc cổ
phần hoá và đa dạng hoá quan hệ sở hữu trên một năm cho thấy, hiệu quả
sản xuất kinh doanh đã có những chuyển biến tích cực: vốn điều lệ tăng từ
50 đến 100%; doanh thu tăng 60%; lợi nhuận trước thuế tăng 130%, nộp
ngân sách tăng 45%; thu nhập người lao động tăng 63%.
CPH tuy đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng so với yêu cầu đổi
mới còn chậm. vốn nhà nước trong các DNNN đã CPH còn nhỏ và việc
huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian CPH dài.
Nhìn chung các doanh nghiệp được cổ phần hoá đến nay vẫn còn nhỏ,
chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư có tiềm năng lớn về vốn, công nghệ,
thị trường và kinh nghiệm quản lý; chưa thật sự đổi mới trong quản lý nội
bộ doanh nghiệp, chưa phân biệt và có nhận thức rõ về vai trò người đại
diện sở hữu phần vốn nhà nước và người trực tiếp sở hữu doanh nghiệp cổ
12
phần. tình trạng các cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu không đúng thủ tục
luật pháp còn nhiều và có hiện tượng mua gom cổ phiếu…
DNNN chiếm tỷ trọng ít về số lượng nhưng lại nắm một phần rất lớn về
vốn. lượng vốn nằm trong các DNNN lên tới 270 ngàn tỷ đồng nhưng
không được sử dụng có hiệu quả, sự thất thoát vốn không phải là nhỏ.
Ngoài ra DNNN còn sử dụng tới 70-80% vốn tín dụng của ngân hàng quốc
doanh. nhiều DNNN đã lợi dụng lợi thế vị thế “chủ đạo” của mình biến
độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp gây ra những xáo động
không nhỏ trong nền kinh tế. trong số hơn 3000 DN và bộ phận DN đã cổ
phần hoá thì chỉ có 30% nhà nước không giữ một đồng vốn nào, nhà nước
giữ cổ phần chi phối trên 51% tại 29% DN. Thí dụ Tổng công ty Điện lực
Việt Nam còn nắm tới 65% vốn của nhà máy thuỷ điện Vĩnh Sơn-Sông
Hinh, 75% vốn của nhà máy thuỷ điện Thác Bà và nhiệt điện Phả Lại. Với
tỷ lệ cao như vậy các cổ đông bên ngoài hầu như không có quyền hạn gì.
Điều này cho thấy, mặc dù đã cổ phần hoá nhưng nhà nước vẫn là cổ đông
lớn nhất. Điều đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà nhà nước còn nắm tại các
cty cổ phần không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu (1992-1998)
tỷ lệ cổ phần mà nhà nước nắm trong các cty cổ phần là 28% thì đến thời
kỳ 2001-2004, tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,5%.
Đây chính là điều hạn chế sự tham gia tiến trình cổ phần hoá của các nhà
đầu tư chiến lược.
Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá họ vẫn sử dụng gần như
toàn bộ bộ máy quản lý cũ. Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, thì sau khi cổ phần hoá, 81,5% giám đốc doanh nghiệp
được giữ nguyên chức vụ; khoảng 78% chức vụ phó giám đốc; kế toán
trưởng không có sự thay đổi và không có doanh nghiệp nào sau cổ phần
hoá sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành. Điều này làm giảm sức sáng
tạo, tư duy kinh tế, trình độ và cung cách điều hành DN ít có sự thay đổi sẽ
gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Theo quy định hiện nay, toàn bộ tiền thu về cổ phần hoá sau khi trừ các
khoản chi phí cổ phần hoá; chi cho người lao động thôi việc, mất việc, đào
tạo lại theo phương án cổ phần hoá được duyệt được chuyển về tổng công
ty (cổ phần hoá đơn vị thành viên tổng công ty), công ty mẹ (cổ phần hoá
bộ phận doanh nghiệp) hoặc về Quỹ sắp xếp cổ phần hoá Bộ Tài chính (cổ
phần hoá các đơn vị độc lập thuộc bộ, ngành, địa phương). Quy định này
có hạn chế là trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá dưới
hình thức phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn, toàn bộ khoản chênh
lệch do bán đấu giá cổ phần đều phải nộp cho Nhà nước hoặc cho tổng
công ty, công ty mẹ mà không được để lại cho doanh nghiệp thực hiện đầu
13
tư, mở rộng sản xuất nên thực tế nhiều DNCPH chỉ chú trọng hình thức
bán bớt vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
2. Thực trạng huy động vốn từ tín dụng ngân hàng
Đối với hoạt động tín dụng ngân hàng, việc đổi mới cơ chế tín dụng
phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước được tiến hành
đồng thời với quá trình sắp xếp đổi mới DNNN đã và đang có những tác
động tích cực, nhưng cũng phát sinh những khó khăn vướng mắc và rủi ro
tín dụng ở nhiều DN thuộc các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh
quản lý.
Mặt tích cực: DNNN được phân cấp mạnh hơn trong quyết định đầu tư,
quản lý tài chính, đấu thầu, thực hiện tiết kiệm chi phí, đầu tư đổi mới
công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều này tạo điều kiện cho các
NHTM rút ngắn khả năng tiếp cận, thẩm định nhu cầu vay vốn, đánh giá
khả năng trả nợ để xử lý và phân loại và phản ánh chính xác hơn chất
lượng tín dụng.
Hạn chế: Tỷ trọng dư nợ vau có đảm bảo đã được nâng lên nhưng tỷ lệ
lớn các tài sản thế chấp của DNNN không đảm bảo điều kiện đăng ký giao
dịch do giấy tờ không đủ, chưa chuẩn mực, giá trị tài sản thế chấp còn
đánh giá chưa sát thị trường. Việc giám sát mục đích sử dụng và hiệu quả
vốn vay đối với các khoản vay của DN còn khó khăn, nhiều lúc bị động
theo khách hàng.
Các Ngân hàng thương mại mặc dù vẫn rất tích cực trong hỗ trợ vốn
cho hệ thống các DNNN nhưng nghi ngại tính khả thi, hiệu quả sử dụng
vốn và khả năng hoàn vốn của DNNN và bởi một số các lý do khác sau:
Việc tài trợ cho các DNNN gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thu
hồi vốn để tái đầu tư. Nợ xấu, nợ quá hạn lớn phần nhiều cũng nảy sinh từ
hoạt động tài trợ cho các DN này, dẫn đến khả năng sinh lời của các
NHTM thấp do phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro lớn theo quy định
hiện hành
Nợ tồn đọng trong các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp
ngành xây lắp chưa được giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp không
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng trong khi các NHTM lại chưa
nhận được sự hỗ trợ để thu hồi nợ vay từ các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
Phát mại tài sản bảo đảm hiện nay là trở ngại lớn cho các NHTM (đặc
biệt là tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước) vì đa phần các tài sản chưa
đủ cơ sở pháp lý để thế chấp, cầm cố. Vì vậy, khi xử lý tài sản đảm bảo
Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn và làm giảm sút giá trị của tài sản.
14
Xử lý tranh chấp liên quan đến nợ vay giữa Ngân hàng và doanh nghiệp
nhiều khi còn chưa công bằng, quyền lợi của Ngân hàng chưa được bảo
đảm khi doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán
Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày
càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa
đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm,
công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý
của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn ,
bộ máy quản lý cồng kềnh, trình độ quản lý tài chính và hiệu quả sản xuất
kinh doanh không cao... khiến các ngân hàng e ngại khi xem xét cho vay
đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước thường có nguồn vốn tự có thấp nên khả năng tự
chủ về tài chính không cao. Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động các đơn vị
này thường phải vay vốn ngân hàng có những phương án tỷ lệ vay vốn có
thể lên đến 100% nhu cầu thanh toán. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà
nước không có tài sản bảo đảm nên việc cho vay thường thực hiện theo
hình thức tín chấp. Việc cho vay tín chấp mang nhiều rủi ro tiềm ẩn cho
ngân hàng. Một số trường hợp khách hàng có tài sản là bất động sản có giá
trị khá lớn nhưng giấy tờ chứng minh sở hữu thường không đầy đủ. Ngân
hàng muốn lấy tài sản này làm đảm bảo cho khoản vay nhưng lại không
thực hiện được việc ký hợp đồng thế chấp và không đăng ký được giao
dịch bảo đảm.
Theo hội nghị phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp của Trung tâm
Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước: "Doanh nghiệp Nhà nước là loại
hình doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả nhất. Qua phân tích cho thấy
doanh nghiệp nhà nước vay nợ nhiều, khả năng tự chủ tài chính thấp, khả
năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao". Tất cả những điều đó đã dẫn đến rủi ro
đối với nguồn vốn tín dụng cao và kết quả là nhiều doanh nghiệp nhà nước
đã bị mất niềm tin đối với ngân hàng và các ngân hàng tuy không "ngoảnh
mặt" lại với doanh nghiệp nhà nước nhưng họ rất thận trọng khi tài trợ mới
hoặc tiếp tục tài trợ
Các doanh nghiệp trong ngành xây dựng hiện đang trong tình trạng thiếu
vốn trầm trọng. Để bảo đảm kế hoạch đầu tư, các tổng công ty hầu như
phải đi vay là chính, vốn tự cho các doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước nói chung khi chuyển sang công ty cổ phần
hoạt động theo Luật doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong vay vốn ngân
hàng và các tổ chức tín dụng, mặc dù thắt chặt tín dụng không có nghĩa là
15
phân biệt đối xử.có chỉ đạt 2- 3% tổng mức đầu tư, áp lực trả nợ rất căng
thẳng.
Song, chính các công ty cổ phần (CTCP) lại là những doanh nghiệp đang
hoạt động theo Luật doanh nghiệp gặp khó khăn nhất về vốn, bởi vì những
quy định thắt chặt trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây
cũng là một trong những lý do khiến nhiều lãnh đạo các cấp còn băn
khoăn, chưa chỉ đạo quyết liệt, người lao động lo lắng, bất an… gây ảnh
hưởng đến chỉ tiêu kế hoạch CPH từ đầu năm đến nay.
Công ty cơ khí và xây lắp Thái Bình (COMA 16) là doanh nghiệp không
nằm trong danh sách các đơn vị của COMA trong Đề án tổng thể sắp xếp,
đổi mới doanh nghiệp của Bộ Xây dựng. Song vì mục tiêu đẩy nhanh hơn
nữa việc CPH doanh nghiệp, COMA 16 trở thành 1 trong 3 công ty được
tổng công ty trình Bộ phê duyệt CPH trong năm 2004. COMA 16 đã quán
triệt nghiêm túc chủ trương của Đảng, Nhà nước, tích cực tổ chức thực
hiện các quy định của Bộ, quyết tâm đến tháng 10/2004 sẽ hoàn thành
xong các bước chuyển sang công ty cổ phần.
Sẽ không có gì khó khăn bởi đây là doanh nghiệp cơ khí làm ăn đang
có hiệu quả, là một điển hình của các doanh nghiệp trên địa bàn Thái Bình
trong hoạt động vay và trả nợ ngân hàng đúng hạn. Nhưng ngay từ khi vừa
nhận được quyết định CPH, cán bộ của ngân hàng đã đến tận công ty
thông báo: ngân hàng cấp trên đã có "chỉ đạo" sẽ thực hiện hạn chế tối đa
các hợp đồng vay vốn, tích cực thu hồi nợ cho đến khi công ty thực hiện
CPH xong để chuyển sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp thay vì theo
Luật doanh nghiệp nhà nước trước đây. Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt
động sản xuất của công ty.
Hiện nay, công ty đang thực hiện khối lượng lớn chế tạo cột điện cho
đường dây tải điện 500 KV đoạn Đà Nẵng - Thường Tín và Việt Trì - Sơn
La, chế tạo thiết bị cho dự án Nhà máy xi măng Sông Gianh... nhưng chỉ
ứng được 7 - 8% giá trị hợp đồng, nên nhu cầu vốn vay lưu động để duy trì
sản xuất thường xuyên cần từ 5 - 6 tỷ đồng. Theo sổ sách kế toán, công ty
đang quản lý tài sản trị giá 7 tỷ đồng, có khả năng vay tới 10 tỷ đồng.
Ông Vũ Đức Dũng, Giám đốc công ty lo ngại: "Sau khi xác định lại để
CPH, giá trị doanh nghiệp chỉ còn khoảng 3- 4 tỷ đồng, trong đó bao gồm
cả giá trị thiết bị, nhưng đa số các ngân hàng chỉ quan tâm đến tài sản có
giá trị thế chấp lớn nhất là quyền sử dụng đất. Như vậy, khả năng được vay
3 tỷ đồng cũng là khó".
Cũng trong tình trạng tương tự, ông Nguyễn Văn Tài, Giám đốc công ty cổ
phần xây dựng Bình Dương cho biết: "Khi còn là doanh nghiệp nhà nước,
công ty có thể vay vốn gấp 20 lần giá trị tài sản của đơn vị nhưng nay chỉ
16
còn được vay bằng 70% giá trị tài sản đơn vị có. Thậm chí, có dự án đầu tư
cũng khó mà vay được tiền".
Không chỉ các doanh nghiệp ngành xây dựng mà doanh nghiệp nhà
nước nói chung khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật
doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức
tín dụng. Bởi lẽ trước đây chỉ cần bảo lãnh của tổng công ty là doanh
nghiệp có thể vay theo hình thức tín chấp nhưng khi chuyển sang công ty
cổ phần sẽ phải tuân thủ quy định chặt chẽ hơn: phải có bảo lãnh của tổng
công ty (bằng văn bản bảo lãnh hoặc hợp đồng cam kết bảo lãnh) đối với
toàn bộ nghĩa vụ trả nợ gốc và các khoản lãi công ty đã vay và sẽ vay;
doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp, bảo đảm tiền vay.
Đây là một trong những thực trạng mà DN sau CPH gặp phải trong việc
huy động vốn.
3. Huy động vốn qua cổ phiếu
Công tác CPH DNNN đã đạt được kết quả trên nhiều mặt, các kết quả
này có tác tích cực đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
CPH đã được triển khai rộng rãi đã trực tiếp làm tăng hàng hoá cho
TTCK: theo số liệu của cục Tài chính DN, tính đến hết tháng 6 năm 2006,
cả nước đã CPH được trên 3000 DN và bộ phận DNNN. Đặc biệt đã từng
bước tiến hành CPH một số DN có giá trị hàng ngàn tỷ đồng như công ty
sữa Việt Nam (giá trị DN 2.500 tỷ đồng), nhà máy thuỷ điện Sông HinhVĩnh Sơn 2.144 tỷ đồng, Công ty Bảo hiểm TPHCM 1.311 tỷ đồng… CPH
rộng khắp là nguồn hàng hoá quan trọng làm phong phú nguồn hàng hoá
trên thị trường chứng khoán.
CPH đã huy động được một lượng vốn nhàn rỗi cho đầu tư qua thị
trường chứng khoán. với 2.242 DNNN được CPH năm 2004, 12.411 tỷ
đồng cổ phiếu đã được bán, nhà nước nhờ đó đã có 10.169 tỷ đồng (chiếm
58% tổng số vốn nhà nước đã CPH) để tái đầu tư phát triển kinh tế.
Mặt khác quy mô vốn điều lệ của DN sau CPH tăng bình quân 44% đã
cho thấy CPH đã thực sự mở ra một cánh cửa để các DNNN tiếp cận với
một kênh dẫn vốn mới đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển. Tính đến hết
tháng 1/2006 trung tâm GDCK Hà Nội đã đấu giá 28 phiên lớn cho các
DNNN CPH hoặc các DNNN đã CPH bán bớt phần vốn nhà nước (chưa
kể có 17 phiên phối hợp với TTDGCK TP HCM). Tổng giá trị cổ phần
trúng giá đạt 2.039,2 tỷ đồng, với 2.880 nhà đầu tư trúng giá trên 4.085
tổng số lượt nhà đầu tư đăng ký đấu giá.
Bán đấu giá cổ phần đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng đối
với các DNNN thông qua TTCK. Từ tháng 7/2003 đến nay, đã có khoảng
17
40 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bán đấu giá cổ phần tại Việt Nam để
các chuyển sang hình thức công ty cổ phần. Nhiều chuyên gia đánh giá thị
trường này đang càng ngày càng sôi động.
Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam, Công ty
chứng khoán Ngân hàng ngoại thương, Công ty chứng khoán Ngân hàng
công thương, Công ty chứng khoán Bảo Việt... hiện là những đơn vị hàng
đầu trong việc nhận làm đại lý bán cổ phần cho các công ty chuyển từ
DNNN sang công ty cổ phần. Ngoài ra, nhiều công ty cổ phần cũng tự
thành lập hội đồng bán đấu giá và tự tổ chức bán đấu giá.
Theo Công ty chứng khoán của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam, từ tháng 7/2003 đến nay, Công ty này đã nhận bán đấu giá cho 5
khách hàng là Gamex, Vifon, Vinamilk, Badaco, TIE. Kết quả bán đấu giá
cổ phần lần đầu của các doanh nghiệp này rất khả quan.
Ngày 24/2/2004, Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu TIETp.HCM đã thông báo bán đấu giá cổ phần lần đầu để chuyển từ DNNN
sang công ty cổ phần. Công ty này đã đưa mức giá khởi điểm để đấu giá
lên 115.000 đồng, được coi là mức khởi điểm cao nhất từ trước tới nay
trong số các công ty bán đấu giá cổ phần.
Công ty Vinamilk, khi bán đấu giá chỉ chào giá khởi điểm là 105.000 đồng
một cổ phần, nhưng cho đến khi vào phiên đấu giá, người mua cao nhất đã
trả giá 181.000 đồng. Sau khi bán đấu giá, trị giá tiền thu về của Vinamilk
từ 72 tỷ đã tăng thêm 42 tỷ đồng nữa.
Những tồn tại của quá trình CPH làm cản trở đến việc niêm yết/đăng ký
trên thị trường chứng khoán. Tiến độ CPH chậm. kết quả thực hiện CPH
mới đạt khoảng 80%, trong đó nhiều bộ ngành, địa phương đạt dưới 50%.
Thời gian để CPH một DN trung bình mất 437 ngày, nhiều nơi là vài năm
trong khi theo quy định chỉ là 9 tháng. Theo kế hoạch, cho tới cuối năm
2007, còn 1700 DN cần CPH, bằng gần 70% số đã thực hiện của cả giai
đoạn 2000- 2005, đay thực sự là một bài toán cho các Bộ, ngành, và lời
giải của bài toán này cũng chính là chìa khoá cho việc gia tăng hàng hoá
trên thị trường chứng khoán.
Nhiều DN CPH khó có thể trở thành công ty đại chúng. Phần lớn DN
được CPH là DN nhỏ (có đến 40% DN được CPH có vốn điều lệ dưới 5 tỷ
đồng). không những thế, tuy được CPH song phần vốn nắm giữ của nhà
nước tại các DN này vẫn rất lớn. Kể cả với DN đang niêm yết trên
TTGDCK TP HCM, tỷ lệ phần vốn nhà nước vẫn chiếm trung bình
khoảng 30%. Mặt khác, có tới 38,4% số DN CPH không bán cổ phần ra
bên ngoài. Cổ phần ít được chào bán ra bên ngoài là một cản trở để DN
đến với TTCK
18
4. Thực trạng huy động từ trái phiếu
Nhiều người vẫn cho rằng, một doanh nghiệp tốt là một doanh nghiệp
có tỷ lệ nợ thấp. Điều này hiện không còn phù hợp nữa mà còn có thể nói
là lạc hậu. Theo một số chuyên viên tài chính thì tỷ lệ nợ cao chưa hẳn là
xấu mà còn thể hiện khả năng chiếm dụng vốn và nhất là uy tín của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp có vị thế càng cao càng dễ huy động. Việc phát
hành trái phiếu ra công chúng cũng góp phần quan trọng quảng bá hình
ảnh doanh nghiệp và nâng cao vị thế của chính doanh nghiệp PHTP.
Những thuận lợi
Tổng khối luợng vốn huy động góp phần đáp ứng một phần nhu cầu
vốn; các đơn vị đã chủ động trong việc quyết định số lưọng, thời hạn phát
hành và thời điểm phát hành; thủ tục nhanh gọn hơn so với vay ngân hàng
đòi hỏi nhiều thủ tục, điều kiện và hạn chế khả năng cho vay; chi phí phát
hành từ trái phiếu, cổ phiếu thấp hơn chi phí đi vay ngân hàng hay vay
ECA. Các Dn có thể đưa ra những kế hoạch giải ngân, hay chủ động hơn
trong phòng ngừa rủi ro vỡ nợ. Đó là những lợi cích mà khi PHTP mang
lại cho DN .
Ta có thể lấy EVN là ví dụ: chi phí đợt phát hành EVNBOND0406 là
9,9%/năm lãi suất traí phiếu 9,6%/năm và chi phí phát hành là 0,3%/năm
trong khi mức cho vay của các NHTMQD đối với dự án trung và dài hạn
của EVN là 11,52% tiết kiệm hàng năm là 1,62%.
Trong tính toán lãi suất trái phiếu, việc sử dụng lãi suất của các ngân
hàng quốc doanh làm tham chiếu vẫn đảm bảo cạnh tranh về giá và hấp
dẫn nhà đầu tư, lãi suất trái phiếu EVNBOND 0406 là 9,6%/ năm bằng với
mức lãi huy động cao nhất của khối ngân hàng là 9,6%/ năm do
Sacombank công bố và cao hơn mức bình quân của khối ngân hàng
thương mại cổ phần là 9,13%/năm.
EVN chủ động phòng ngừa rủi ro vỡ nợ cho phát hành bằng các kế
hoạch sử dụng và trả nợ cụ thể. Dự án phát hành trái phiếu đưa ra kế
hoạch giải ngân chi tiết phù hợp với tiến độ xây dựng công trình, tránh tình
trạng thưa thiếu vốn do thiếu cân đối chi tiết.
Kế hoạch trả nợ được cân đối giữa nguyên tác tận dụng tối đa các
gnuồn vốn tự do của EVN, hạn chế sử dụng các nguồn vay khác để trả nợ.
Hạn chế vẫn còn gặp phải của DN khi phát hành trái phiếu:
a/ Khả năng đáp ứng nhu cầu nguồn vốn còn chưa cao
Khối lượng vốn huy động từ phát hành trái phiếu còn nhỏ chưa đáp ứng
đủ nhu cầu. Riêng 2006 nguồn vốn đầu tư mà EVN chưa cân đối được là
7584 tỷ trong đó 2004 đợt phát hành trái phiếu tính đến 30/9/2006 huy
19
động được 2006 tỷ đồng, mới đáp ứng được 34,28% giá trị vốn chưa cân
đối được nguồn.
b/ Về tính chất sử dụng vốn:
Việc sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu mới chỉ bó hẹp trong phạm vi
phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản mà chưa được sử dụng cho các mục đích
khác như: cơ cấu khoản vay trung dài hạn, tăng quy mô vốn kinh
doanh.Với EVN mới chỉ chú trọng phát hành trái phiếu có số năm huy
động vốn cho các công trình xây dựng có thời gian 3-5 năm, còn đối với
các công trình mà thờ gian xây lắp kéo dài > 10 năm Thuỷ điện Sơn La,
Thuỷ điện Lai Châu đòi hỏi phải có sự phù hợp về thời gian vay nợ thì
EVN chưa phát hành đợt trái phiếu dài hạn nào. Ngoài ra, trái phiếu của
EVN trái phiếu của EVN phát hành không có khả năng chuyển đổi để đảm
bảo cân đối tỷ lệ trên vốn
c/ Tính chủ động kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn chưa cao
Do nhiều DNNN vẫn tự phát hành trái phiếu nên thời gian huy động
vốn tương đối lâu, tiến hành giải ngân vốn chậm. Hiện nay DN vẫn chưa
có thói quen thuê tư vấn phát hành, chính vì thế việc thực hiện các thủ tục
vẫn còn phức tạp, rườm rà
d/ Chi phí huy động được xây dựng chưa thật sự chính xác, chủ yếu dựa
trên kinh nghiệm trực quan
CPHĐ = CPPH+LSTP
Các DN tiết kiệm chi phí bằng cách giảm lãi suất trái phiếu .Nhưng hiện
nay hiếm có những DN nào có một phương pháp khoa học để xác định lãi
suất , ví dụ bằng các công cụ toán, bản thân lãi suất trái phiếu chưa đủ độ
tin cậy để hình thành đường cong lãi suất chuẩn. Mà các DN buộc phải
xác định lãi suất trái phiếu trên cơ sở lãi suất ngân hàng làm tham chiếu.
Dựa trên khung lãi của ngân hàng( là đối thủ của DN trong huy động vốn
từ xã hội ) để xây dựng lãi suất trái phiếu gây ra sự sai lệch và giảm tính
cạnh tranh của trái phiếu, các ngân hàng có thể chấp nhận lãi ít và đột
ngột thay đổi mức biên vào thời điểm phát hành thì khả năng hấp dẫn của
trái phiếu chưa chắc đã còn.
Phát hành trái phiếu thông qua hình thức đấu thầu giúp hình thành lãi trái
phiếu một cách khách quan . Nếu trái phiếu phát hành theo hình thức đấu
giá, các DN chỉ cần xác định khung lãi suất tối đa có thể chấp nhận được,
việc xác định lãi suất sẽ do nhà thầu quyết định trên cơ sở cung- cầu. Tuy
nhiên phương thức lập giá này vẫn chưa được thực hiện rộng rãi.
e/ Khả năng chủ động hạn chế khả năng vỡ nợ chưa cao:
Việc lập kế hoạch sử dụng và trả nợ vẫn mang tính chủ quan, chưa
hoàn toàn triệt để cần thiết phải có thong tin đánh giá khách quan của đơn
20
vị độc lập về tình hình tài chính của các DN. Cho đến nay thì các DNNN
vẫn chưa chủ động thuê tư vấn xếp hạng tín nhiệm trái phiếu. Chỉ có qua
thông tin xếp hạng các DN mới thực sự có thể chủ động tiến hành các biện
pháp ngăn ngừa rủi ro vỡ nợ
Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế
1/ Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất: Uy tín và quy mô của doanh nghiệp
Nhiều DN còn phát hành theo hình thức riêng lẻ cho nhà đầu tư chiến lược
Ví dụ như EVN bán trái phiếu cho các ngân hàng quen biết, với uy tín
lâu năm các tổ chức sẵn sàng mua hết số trái phiếu đã phát hành, tuy
nhiên chỉ áp dụng với những đợt phát hành quy mô nhỏ, vì thế những dự
án có thời gian thực hiện dài thì không đủ đáp ứng, chưa phát huy hết tên
tuổi uy tín để phát hành trái phiếu rộng rãi ra công chúng
Thứ hai: Công ty tài chính chưa được hình thành
Các tập đoàn lớn thường phải hình thành những công ty tài chính làm
nhiệm vụ chuyên trách huy động vốn, đó là đầu mối tập chuyên lo tạo
nguồn, cân đối vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư. Nhưng hiện nay thì các doanh
nghiệp vẫn chưa hình thành các công ty tài chính như thế.
Nguyên nhân là do thái độ nhận thức phát hành trái phiếu, hầu hết đều
chỉ chú trọng cạnh tranh về lãi suất không chú trọng tới tính thanh khoản
của trái phiếu bằng nghiệp vụ mua bán nợ có kỳ hạn trên thị trường
chứng khoán (REPO), hoặc phát hành trái phiếu có khả năng chuyển đổi,
phát hành trái phiếu có khả năng thu hồi trước hạn,
Chưa nhận thức được vai trò của tổ chức trung gian tài chính làm nhiệm vụ
tư vấn là các công ty chứng khoán: tổ chức này không chỉ cung cấp dịch
vụ về bảo lãnh, đại lý, là nhà đầu tư mà còn là các tổ chức tư vấn hỗ trợ
phát hành.
Nhiều DN còn tổ chức phát hành khép kín từ nghiên cứu thăm dò thị
trường, tạo lập phương án phát hành, chuẩn bị và tổ chức phát hành nên
hiệu quả còn chưa cao, thời gian phát hành còn dài, chi phí lớn, không
chuyên nghiệp.
Thứ ba: Về năng lực sản xuất kinh doanh DN
Sản xuất kinh doanh có lãi là nơi hấp dẫn NĐT bỏ vốn cho vay .
Trong báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của EVN giai đoạn 0305: là DN có tình hình tài chính lành mạnh, luôn bảo toàn và phát triển
được vốn, tổng tài sản tăng bình quân 15%/ năm, doanh thu tăng bình quân
18,64%/năm, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) 4,1%, tỉ lệ nợ
phải trả là 55% tổng tài sản được đánh giá là khá hợp lý, khả năng thanh
toán nợ ngân hàng cao hơn hai lần.
- Xem thêm -