LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hóa, các nước trên thế giới đang hội
nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế khu vực cũng như nền kinh tế thế giới
trên cơ sở đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Để có
thể tiến hành từng bước hội nhập vững chắc và thành công, một nhân
tố không thể thiếu đó chính là hành lang pháp lý tiến bộ, theo kịp với
thực tiễn quốc tế. Xét trong lĩnh vực thương mại quốc tế, các nước
tham gia phải xây dựng và áp dụng nghiêm túc hệ thống các nguyên
tắc nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Trong hệ thống
các nguyên tắc đó, Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử quốc gia (NT) là
hai nguyên tắc cơ bản nhất.
Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử quốc gia (NT) có chung bản
chất là đối xử bình đẳng - cơ sở để tạo nên môi trường thương mại
quốc tế cạnh tranh lành mạnh. Hai nguyên tắc này được thể hiện rất rõ
qua các hiệp định của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), đồng thời
cũng là những nguyên tắc quan trọng áp dụng trong quan hệ hợp tác
kinh tế song phương và đa phương.
Nhằm tìm hiểu rõ hơn về hai nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN)
và Đối xử quốc gia (NT), nhóm nghiên cứu xin chọn đề tài “Thực tiễn
áp dụng nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử quốc gia (NT)
trong thương mại quốc tế” làm đề tài thuyết trình của nhóm trong quá
trình học tập môn Quan hệ kinh tế quốc tế.
Bố cục đề tài được chia làm ba phần chính sau:
I.
Giới thiệu chung về nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) và
nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT)
II.
Thực tiễn áp dụng hai nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) và
Đối xử quốc gia (NT)
III.
Tác động của hai nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử
quốc gia (NT)
I.
Giới thiệu chung về MFN ( Most Favoured National) và
NT( National Treatment):
1.
Nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN- Most Fovoured National)
a.
Lịch sử ra đời và khái niệm:
Thuật ngữ MFN là một thuật ngữ có lịch sử lâu đời, nó đã xuất
hiện từ thế kỷ 12 ở một số dạng khác nhau. Tuy nhiên nó chỉ chính
thức trở thành một nguyên tắc có ý nghĩa trong thương mại quốc tế
khi vào thế kỷ 17 các quốc gia châu Âu cạnh tranh với nhau trong việc
xây dựng hệ thống chính sách thương mại. Hiệp ước có điều khoản
MFN là hiệp ước giữa Hoa Kỳ và Pháp năm 1778. Tiếp theo đó, điều
khoản MFN cũng được đưa vào Hiệp ước Cobden-Chevalier năm
1860 giữa Pháp và Anh. Từ đó trở đi, nguyên tắc MFN đã được áp
dụng trong nhiều hiệp định thương mại khác của Châu Âu với những
mức độ khác nhau.
Tình hình chính trị căng thẳng trước và trong Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất đã làm cho nguyên tắc MFN bị mai một và gần như
bị mất hẳn. Khi chiến tranh gần kết thúc, nhiều quốc gia đã có những
nỗ lực nhằm phục hồi lại tầm quan trọng của MFN nhưng không thành
công. Mãi đến tháng 1 năm 1918, tại điểm thứ ba trong chương trình
14 điểm của mình, Tổng thống Hoa Kỳ Wilson đã kêu gọi dỡ bỏ càng
nhiều càng tốt tất cả các hàng rào cản trở kinh tế và thiết lập các điều
kiện thương mại bình đẳng giữa các quốc gia cùng đồng tâm phấn đấu
vì hoà bình và cam kết duy trì hoà bình.
Hội nghị Hoà bình thế giới sau chiến tranh thế giới thứ nhất
không bàn đến hàng rào cản trở thương mại, nhưng trong Hiệp ước
hoà bình, Đức và một số nước có quyền lực khác đã được yêu cầu mở
rộng vô điều kiện MFN trong thương mại với các nước đồng minh
trong 3 năm. Hội Quốc Liên cũng dẫn chiếu tới nguyên tắc "đối xử
bình đẳng” trong thương mại giữa các quốc gia thành viên, điều này
cũng tương đương với nguyên tắc MFN.
Hội nghị Kinh tế Thế giới Geneve tháng 5 năm 1927 đã tuyên
bố ủng hộ khả năng diễn giải nguyên tắc MFN, và nhấn mạnh rằng
nguyên tắc này cần được sử dụng rộng rãi trong các hiệp ước thương
mại.
Năm 1933, Hội Quốc Liên đã xuất bản một văn bản mẫu với
khoảng 300 từ về nguyên tắc MFN. Tuy nhiên, do tác động của khủng
hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, nguyên tắc MFN đã không nhận
được sự ủng hộ rộng rãi. Nguyên tắc này gần như đã biến mất vì cuộc
Chiến tranh Thế giới thứ hai, nhưng sau chiến tranh nguyên tắc lại hồi
sinh mạnh mẽ và cùng với sự phát triển của hệ thống thương mại đa
phương, với sự ra đời của Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại (GATT 1947), MFN đã trở thành nền tảng của thương mại quốc
tế.
Theo GATT 1947, MFN là nghĩa vụ ràng buộc chung, bất kỳ
một đối xử nào được dành cho một nước thì ngay lập tức cũng sẽ được
mở rộng tới tất cả các thành viên khác. Điều này cũng được quy định
trong một số hiệp định của WTO. Ví dụ, tất cả thành viên GATT dành
cho nhau đối xử thuận lợi trong việc áp dụng và điều hành các quy
định hải quan, thuế quan và các khoản thu khác có liên quan như đã
dành cho bất kỳ một nước khác. Năm 1948, quy chế này chính thức
được GATT đưa vào điều 1 của GATT, trở thành cơ sở quan trọng
trong việc giao dịch thương mại trên thế giới.
MFN là nguyên tắc cơ bản trong hiệp định chung về thương mại
hàng hóa (GATT) nhằm bảo đảm sự đối xử công bằng với các quốc
gia tham gia hiệp định, không cho phép đối xử đặc biệt hơn hoặc kém
giữa các nước tham gia GATT.
Không có một định nghĩa chung về MFN cho mọi lĩnh vực,
nhưng xét về bản chất MFN đơn giản có nghĩa là nếu một nước dành
đối xử thuận lợi nhất cho bất kỳ một nước thì cũng dành đối xử như
vậy cho tất cả các thành viên khác của WTO. Do đó, bản chất của
MFN là đối xử bình đẳng, không phân biệt đối xử và nguyên tắc này
đã góp phần thúc đẩy tự do hoá thương mại .
b.
Cơ sở pháp lý và cách thức áp dụng
Cơ sở pháp lý:
Cơ sở pháp lý của đãi ngộ tối huệ quốc thường là điều khoản
quy định về MFN. Căn cứ vào điều khoản này mà bên ký kết cùng
một bên hoặc nhiều bên ký kết khác phải thực hiện nghĩa vụ đối với
nhau, dành cho nhau những đãi ngộ tối huệ quốc trong phạm vi áp
dụng do WTO quy định.
Có 2 phương pháp để đạt được sự đãi ngộ MFN từ một hay
nhiều nước khác:
+ Kí kết các hiệp định thương mại và trong hiệp định thương
mại đó có các điều khoản quy định về MFN.
+ Quy định của các tố chức quốc tế mà các quốc gia thành viên
của tổ chức phải tuân thủ.
Thông thường quy chế tối huệ quốc mang tính song phương.
Tuy nhiên quy chế này cũng có thể áp dụng đơn phương nhằm đáp
ứng tình trạng kinh tế đặc biệt của một quốc gia hay do áp lực chính
trị.
VD: Mỹ không áp dụng nguyên tắc MFN đối với Cuba mặc dù Cuba
và Mỹ đều là thành viên của WTO.
Cách áp dụng tối huệ quốc:
Áp dụng MFN ngay lập tức và vô điều kiện(áp dụng tối huệ
quốc kiểu châu Âu): Các nước dành cho nhau MFN(ký kết các hiệp
định ưu đãi và miễn trừ thuế cho bất kì một quốc gia thứ ba nào) mà
không kèm theo bất kì điều kiện ràng buộc nào.
VD: Năm 1641, đãi ngộ tối huệ quốc lần đầu tiên được áp dụng trong
điều ước kí kết giữa Hà Lan và Bồ Đào Nha.
Áp dụng MFN có điều kiện (áp dụng tối huệ quốc kiểu châu
Mỹ): quốc gia được hưởng MFN phải chấp nhận những điều kiện về
kinh tế hoặc chính trị mà quốc gia cho hưởng đòi hỏi.
VD: Năm 1778 lần đầu tiên được áp dụng cho điều ước thương mại
mà Mỹ kí với Pháp.
Năm 1979, Trung Quốc ký hiệp định thương mại với Mỹ quy định
2 bên sẽ dành cho nhau những đãi ngộ tối huệ quốc về lĩnh vực xuất
nhập khẩu…Nhưng hàng năm quốc hội Mỹ vẫn phải xét và phê chuẩn
cho Trung Quốc được hưởng những ưu đãi tối huệ quốc từ Mỹ. Đây
chính là loại ưu đãi tối huệ quốc có điều kiện.
c.
Ngoại lệ MFN
Tương tự như trong lĩnh vực thương mại hàng hoá và sở hữu trí
tuệ, Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) là một nguyên tắc nền tảng trong
thương mại dịch vụ. Điều II, GATS quy định “Đối với bất kỳ biện
pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của hiệp định này, mỗi Thành viên
phải ngay lập tức và không điều kiện dành cho dịch vụ và người cung
cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác, sự đãi ngộ không kém
thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và người
cung cấp dịch vụ của bất kỳ nước nào khác”. Nghĩa vụ này có thể
được hiểu là các thành viên WTO sẽ dành cho các thành viên khác và
đồng thời được hưởng từ các thành viên đó đãi ngộ ưu đãi nhất mà
mỗi thành viên dành cho bất kỳ quốc gia nào, bất kể quốc gia đó có là
thành viên WTO hay không. Như vậy, về nguyên tắc, mọi biện pháp
mở cửa thị trường đối với các dịch vụ thuộc GATS, bất kể được cam
kết đơn phương, song phương hoặc đa phương đều phải được áp dụng
vô điều kiện với mọi thành viên WTO.
Tuy nhiên, trên thực tế, đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ là
một nội dung hết sức phức tạp bởi chính những thuộc tính của thương
mại dịch vụ. Trước hết, do tính chất vô hình của dịch vụ nên rất khó
định lượng tác động của các biện pháp bảo hộ cũng như giá trị của các
cam kết tự do hoá trong lĩnh vực này. Bởi vậy, trong đàm phán về
dịch vụ không có được những công thức cắt giảm chung như trong
thương mại hàng hoá và mỗi quốc gia tự đưa ra một lịch trình cam kết
riêng. Với trình độ phát triển, năng lực đàm phán khác nhau, mỗi quốc
gia có một Danh mục cam kết riêng và không nước nào giống nước
nào. Thứ hai, các nhóm nước có cách tiếp cận rất khác nhau trong
đàm phán dịch vụ. Trong khi các nước công nghiệp phát triển muốn
thúc đẩy mạnh mẽ các thoả thuận mở cửa thị trường thì các nước đang
phát triển lại hết sức dè dặt trong việc đưa ra các cam kết. Bên cạnh lý
do về trình độ phát triển, một nguyên nhân không kém phần quan
trọng là sự e ngại việc mở cửa thiếu kiểm soát các dịch vụ nhạy cảm
(tài chính, viễn thông, vận tải, giáo dục…) có thể dẫn đến mất ổn định,
tác động tiêu cực tới phát triển kinh tế-xã hội. Cụ thể, trong số các
thành viên đang phát triển của WTO, 44 nước cam kết dưới 20 phân
ngành và 47 nước cam kết từ 21 đến 60 phân ngành. Các nước phát
triển đều cam kết từ 60 đến 130 phân ngành. Từ hai lý do cơ bản nêu
trên, nếu áp dụng cứng nhắc nguyên tắc MFN sẽ không thúc đẩy được
tiến trình đàm phán dịch vụ. Bởi điều này sẽ mâu thuẫn với một
nguyên tắc quan trọng của đàm phán là nguyên tắc có đi có lại và
không khuyến khích các thành viên tự nguyện đưa ra các cam kết tự
do hoá dịch vụ.
Một số ngoại lệ được nêu rõ trong những bản dự thảo ban đầu
của các Điều khoản MFN, ví dụ như trong GATT. Khi xây dựng Hiệp
định GATT, thực tế đã có một loạt các hệ thống ưu đãi có hiệu lực,
đặc biệt là Hệ thống Ưu đãi của Khối Thịnh Vượng chung. Hiệp định
GATT 1947 đã thừa nhận sự tiếp tục tồn tại của các hệ thống ưu đãi
này như những ngoại lệ có từ trước GATT với giả thiết rằng ảnh
hưởng của các ưu đãi này sẽ giảm bớt theo thời gian. Trên thực tế,
cùng với sự sụp đổ của hệ thống thực dân cũ, các ưu đãi được ghi tại
phụ lục kèm theo Điều I của GATT đã mất đi hiệu lực (ví dụ như
“thương mại ưu đãi” của Pháp đối với Đông Dương theo phụ lục B).
Các ngoại lệ của nghĩa vụ MFN quy định trong Hiệp định GATT
và các Hiệp định khác gồm có:
-
Thoả thuận thương mại khu vực (liên minh thuế quan, khu vực
thương mại tự do): Các thể chế thương mại khu vực đã và đang được
hình thành trên nhiều khu vực theo Điều khoản XXIV của GATT
1994 (quy định về áp dụng theo lãnh thổ, vận chuyển biên giới, liên
minh quan thuế và các khu vực thương mại tự do).
-
Thương mại biên giới: Thương mại biên giới được xem là một
thực tế thương mại quốc tế đặc biệt mà cư dân hai bên biên giới của
các nước láng giềng được phép buôn bán không theo những quy định
xuất nhập khẩu thông thường. Các nước láng giềng thường có những
chính sách riêng để tạo điều kiện cho quan hệ thương mại của cư dân
hai bên biên giới và những chính sách này không phải áp dụng đối với
những nước không có cùng biên giới.
-
Mua sắm của Chính phủ: Nghĩa vụ MFN của Điều I, GATT
không áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu vì mục đích tiêu dùng
tức thời hoặc tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ và không nhằm mục
đích bán lại hoặc sử dụng cho sản xuất hàng hoá để bán.
-
Ngoại lệ chung theo Điều XX của GATT 1994: Điều khoản XX
của GATT 1994 cho phép các thành viên được hạn chế nhập khẩu từ
hoặc xuất khẩu đến những nguồn cụ thể. Những biện pháp này được
áp dụng vì những mục đích cụ thể, gồm:
•
Bảo vệ đạo đức công cộng
•
Bảo vệ cuộc sống của con người, động vật hay thực vật
và bảo vệ sức khoẻ
•
Bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không bất
tương thích với các quy định của hiệp định này
•
Liên quan tới các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân
•
Bảo vệ di sản quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay
khảo cổ
•
Liên quan tới việc gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn
kiệt, nếu các biện pháp đó cũng được áp dụng hạn chế cả với
sản xuất và tiêu dùng trong nước
•
Thi hành nghĩa vụ của một hiệp định liên chính phủ về
một hàng hoá cơ sở ký kết phù hợp với các tiêu thức đã được
đệ trình và không bị phản đối
•
Hạn chế với xuất khẩu nguyên liệu do trong nước sản
xuất và cần thiết có đủ số lượng thiết yếu nguyên liệu đó để
đảm bảo hoạt động chế tác trong thời kỳ giá nội được duy trì
dưới giá ngoại nhằm thực hiện một kế hoạch ổn định kinh tế
của chính phủ, với điều kiện các hạn chế đó không dẫn tới
tăng xuất khẩu hay tăng cường mức bảo hộ với ngành công
nghiệp trong nước và không vi phạm các quy định của GATT
về không phân biệt đối xử
•
Nhằm có được hay phân phối một sản phẩm thuộc diện
khan hiếm chung trong nước hay tại một địa phương.
-
Ngoại lệ về an ninh theo Điều XXI của GATT 1994: Điều XXI
của GATT cho phép các thành viên được hạn chế nhập khẩu từ và
xuất khẩu đến những nước cụ thể vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia.
-
Ngoại lệ liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc đối xử khác
biệt và thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển. Ngoại lệ này cho
phép các nước dành các đối xử khác biệt và thuận lợi hơn cho các
nước đang phát triển mà không đòi hỏi có sự đối đẳng từ các nước
đang phát triển và không phải áp dụng cho các nước phát triển khác.
Ngoại lệ này được áp dụng trong các trường hợp sau:
•
Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP): đây là hệ thống thuế
quan ưu đãi mà các nước phát triển dành cho các nước đang
phát triển;
•
Đối xử khác biệt và thuận lợi hơn đối với các biện pháp
phi thuế quan dành cho các nước đang phát triển;
•
Các thoả thuận giữa các nước đang phát triển với nhau
không phải áp dụng cho các nước phát triển;
•
-
Đối xử đặc biệt dành cho các nước kém phát triển.
Các ngoại lệ khác được GATT công nhận (thuế chống phá giá,
thuế chống trợ cấp, trả đũa theo quy định về giải quyết tranh chấp):
Các hiệp định WTO cho phép áp dụng những biện pháp cụ thể sau khi
đã áp dụng các thủ tục cụ thể dưới hình thức thuế đối kháng, thuế
chống phá giá, các biện pháp trả đũa theo quy trình giải quyết tranh
chấp. Các biện pháp này được áp dụng dưới hình thức sản phẩm bắt
nguồn từ các nước thành viên cụ thể của WTO.
-
Các hiệp định nhiều bên: Các Hiệp định của WTO bao gồm 4
Hiệp định được gọi là các Hiệp định nhiều bên. Đó là: Hiệp định
Thương mại về Máy bay Dân dụng, Hiệp định về Mua sắm Chính
phủ, Hiệp định Quốc tế về Sữa và Hiệp định Quốc tế về Sản phẩm
Thịt bò. Các Hiệp định này chỉ áp dụng cho các thành viên thoả thuận
chấp nhận chúng, nên những quyền lợi dành cho các thành viên của
các hiệp định này chỉ giới hạn cho những thành viên nào đã chấp nhận
từng hiệp định đó. Trường hợp này gọi là MFN có điều kiện: là việc
dành MFN căn cứ vào một số điều kiện mà nước được hưởng phải đáp
ứng. Do đó quy chế thành viên của một hiệp định có thể là một điều
kiện. Điều này đôi khi được gọi là MFN với điều kiện cùng tham gia
một hiệp định.
2.
Nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT- National Treatment)
a.
Lịch sử ra đời và khái niệm
Cùng với MFN, nguyên tắc NT được đề cập trong nhiều hiệp
định thương mại song phương và đa phương. Nguyên tắc này nhằm
đảm bảo rằng những sản phẩm nước ngoài và đôi khi là nhà cung cấp
những sản phẩm đó được đối xử trong thị trường nội địa không kém
ưu đãi hơn các sản phẩm nội địa hay các nhà cung cấp những sản
phẩm đó. Trong một số tài liệu cũ, đôi khi nguyên tắc này còn được
gọi là "sự ngang bằng nội địa".
NT tưởng như là một vấn đề đơn giản, nhưng nguyên tắc này đã
gây ra nhiều sự tranh chấp, một phần là vì sự giải thích chặt chẽ của
nguyên tắc NT trên thực tế có thể gây ra sự bất lợi cho các nhà cung
cấp nước ngoài. Vì lý do này, nguyên tắc NT đã được chỉnh lý qua
nhiều năm để cho phép đối xử khác nhau hoặc ưu đãi hơn một cách
chính thức đối với các sản phẩm nước ngoài nếu như đó là cách duy
nhất để bảo đảm rằng các sản phẩm nước ngoài không bị kém lợi thế
hơn. Tất nhiên, đôi khi các nước cố tình dành cho các nhà đầu tư nước
ngoài những ưu đãi hơn so với chế độ NT nhằm thu hút đầu tư.
Trước GATT 1947, không một Hiệp ước đa phương nào có quy
định về NT. Sau khi được đưa vào Điều III của GATT 1947, NT đã
trở thành nguyên tắc phổ biến trong các hiệp định thương mại song
phương và đa phương. Theo Điều III của GATT, NT đối với hàng hoá
là sự bình đẳng về cơ hội cạnh tranh.
Trong Tuyên bố của OECD năm 1976 về Đầu tư Quốc tế và các
công ty đa quốc gia, đã đề cập đến NT. Văn kiện này thiết lập một tiêu
chuẩn được quốc tế công nhận về sự đối xử nhằm giúp xoá bỏ sự phân
biệt đối xử đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong các nước thành
viên OECD. Đây không phải là sự cam kết có tính chế định nhưng dựa
trên những thủ tục định chế được thoả thuận.
WTO được thành lập là một bước ngoặt trong việc mở rộng
phạm vi áp dụng của nguyên tắc NT. Lần đầu tiên có một điều khoản
liên quan đến Đối xử quốc gia trong dịch vụ, (Điều XVII Hiệp định
chung về thương mại và dịch vụ-GATS), để đảm bảo cho các nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài và các dịch vụ tương ứng của họ được
đối xử ngang bằng so với các nhà cung cấp dịch vụ trong nước và các
dịch vụ mà họ cung cấp.
-
Quy tắc NT được hiểu là hàng hóa nhập khẩu,dịch vụ và quyền
sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn
so với hàng hóa cùng loại trong nước.
-
Quy chế này thể hiện sự đối xử công bằng giữa hàng hóa nhập
khẩu và hàng hóa nội địa, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các
loại hàng hóa này.
Theo BTA về quy chế đối xử quốc gia, 2 bên chấp nhận dành
cho nhau quy chế đối xử quốc gia như quy định của WTO:
+
Phía Hoa Kỳ cam kết dành ngay quyền kinh doanh XNK tại
Hoa Kỳ cho mọi pháp nhân và thể nhân ở Việt Nam.
+
Còn Việt Nam sẽ thực hiện từng bước theo lộ trình từ 0 đến 7
năm sau khi HĐ có hiệu lực, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
từ Hoa Kỳ được phép kinh doanh XNK và sản xuất tại Việt Nam.
b.
Cơ sở pháp lý và cách thức áp dụng
Cơ sở pháp lý:
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (National Treatment - NT), quy định
tại Điều III Hiệp định GATT, Điều 17 GATS và Điều 3 TRIPS.
Cách thức áp dụng:
Trong lĩnh vực hàng hóa:
Đối với hàng hóa, việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ
chung có nghĩa là hàng hóa nước ngoài sau khi đã đóng thuế quan
hoặc được đăng ký bảo vệ hợp pháp được đối xử bình đẳng như hàng
hóa và trong nước đối với thuế và lệ phí nội địa, các quy định về mua,
bán, phân phối vận chuyển.
Trong lĩnh vực dịch vụ:
Điều 17 GATS quy định “Mỗi thành viên phải dành cho dịch vụ và
nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác sự đối xử không
kém thuận lợi hơn sự đối xử mà thành viên đó dành cho dịch vụ và
nhà cung cấp dịch vụ của mình”.
Theo hiệp định, Việt Nam cam kết mở cửa cho Hoa Kỳ tham gia
từng bước vào kinh doanh 53 phân ngành trong số 155 phân ngành
theo quy định của WTO. Tùy từng lĩnh vực, Việt Nam sẽ cho phép
Hoa Kỳ lập các công ty liên doanh hoặc 100% vốn theo một lộ trình
với các thời hạn khác nhau.
Về phía Hoa Kỳ, Hoa Kỳ cam kết mở cửa thị trường cho 103 phân
ngành dịch vụ của Hoa Kỳ cho Việt Nam như các thành viên WTO
khác.
Trong lĩnh vực đầu tư:
Theo nguyên tắc đối xử quốc gia được quy định tại điều 2 TRIMS,
có 5 biện pháp đầu tư cụ thể bị cấm áp dụng: Cấm các quốc gia đặt ra
biện pháp đối xử với hàng hóa nhập khẩu kém thuận lợi hơn hàng hóa
trong nước, nếu làm như thế sẽ vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia:
- Yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa
- Yêu cầu cân bằng mậu dịch, quy định không được sử
dụng các hạn chế số lượng đối với hàng nhập khẩu và
xuất khẩu.
- Yêu cầu cân bằng mậu dịch dẫn đến hạn chế nhập khẩu.
- Hạn chế giao dịch ngoại hối dẫn đến hạn chế nhập khẩu.
- Yêu cầu tiêu thụ nội địa dẫn đến hạn chế xuất khẩu.
Các nước phải chỉnh lý các biện pháp trái với hiệp định này trong
một khoảng thời gian ấn định và chỉ có một số trường hợp ngoại lệ.
Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ:
Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, mỗi bên ký kết, phù hợp với luật và
các thủ tục của mình, phải dành cho những tác phẩm của những nhà
sáng tạo và nghệ sĩ là công dân hoặc người thường trú của bên ký kết
kia và cho các tác phẩm công bố lần đầu tại lãnh thổ của bên ký kết
kia sự bảo hộ bản quyền không kém thuận lợi hơn sự bảo hộ mà bên
đó dành cho công dân của chính mình.
Việt Nam sẽ tuân thủ ngay lập tức Hiệp định về sở hữu trí tuệ liên
quan đến thương mại (TRIPS), không có giai đoạn chuyển đổi.
c.
Ngoại lệ NT
Điều kiện có ngoại lệ:
Không được tạo ra sự phân biệt đối xử phi lý giữa các nước có điều
kiện như nhau hay hạn chế, ngăn cản thương mại quốc tế.
Áp dụng trong trường hợp cần thiết:
- Bảo vệ đạo đức công cộng
- Bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ con người, động vật hay
thực vật
- Liên quan đến việc xuất hoặc nhập khẩu vàng và bạc
Ví dụ: Việc quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng và bạc được
quy định tại Điều 31: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng của
tổ chức tín dụng và các tổ chức được phép kinh doanh vàng.
Liên quan đến các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân.
Bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không trái với
các quy định về áp dụng các biện pháp hải quan, duy trì hiệu lực của
chính sách độc quyền, bảo hộ bản quyền, nhãn hiệu thương mại,
quyền tác giả và các biện pháp ngăn ngừa gian lận thương mại; di sản
quốc gia; gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt.
Ví dụ : Theo Điều 4 Luật Thương mại thì Nhà nước thực hiện
độc quyền Nhà nước có thời hạn về hoạt động thương mại đối với một
số hàng hóa, dịch vụ hoặc tại một số địa bàn.
Cách thức thực hiện :
Những ngoại lệ này được quy định trong các văn bản liên quan
như Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương
mại quốc tế, Luật Hàng hải, Luật Xuất bản, Luật doanh nghiệp, Luật
thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật an ninh quốc gia,
Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước, Pháp lệnh bưu chính viễn thông và
một số văn bản dưới luật khác.
Ví dụ: Điều 10 Luật bưu chính viễn thông còn cấm việc cung
cấp, sử dụng dịch vụ bưu chính, viễn thông hoặc sử dụng tần số vô
tuyến điện và thiết bị vô tuyến điện, thiết bị bưu chính, viễn thông
nhằm mục đích chống lại Nhà nước, gây rối an ninh, trật tự, an toàn xã
hội.
Điều 10 Luật Xuất bản cấm một số hành vi như tuyên truyền
chống lại Nhà nước; kích động chiến tranh xâm lược
II.
Thực tiễn áp dụng MFN và NT
1.
Thực hiện theo MFN và NT
a.
Thực hiện theo MFN
Nghĩa vụ MFN và NT là hai nghĩa vụ cơ bản mà các nước thành
viên của WTO phải tuân thủ. Đồng thời nó cũng là nghĩa vụ bắt buộc
trong các Hiệp định thương mại song phương, các thoả thuận thương
mại khu vực. Vì vậy, hầu như tất cả các nước trên thế giới đều phải
thực hiện nghĩa vụ này. Tuy nhiên, song song với các quy định ràng
buộc về nghĩa vụ MFN các hiệp định thương mại song phương, đa
phương hay các thỏa thuận khu vực cũng cho phép áp dụng các trường
hợp ngoại lệ. Nghĩa là một nước có thể sử dụng các ngoại lệ của MFN
để dành đối xử MFN cho một hoặc một số nước thay vì toàn bộ các
nước thành viên của hiệp định. Mục tiêu cuối cùng của việc áp dụng
các ngoại lệ MFN này là làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa xuất
khẩu từ các nước không được hưởng đối xử MFN.
Thực tế cho thấy đã có nhiều trường hợp trong đó một nước quy
định dành MFN cho một nước khác chỉ khi một số điều kiện không
liên quan đến thương mại được đáp ứng. Ví dụ điển hình là trường
hợp Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Luật Jackson-Vanik sửa đổi Luật
Thương mại 1974 hạn chế việc dành MFN cho các nước cho các nước
có nền kinh tế phi thị trường nếu các nước này từ chối quyền di cư đối
với công dân của họ, đánh thuế di cư cao hơn mức thuế danh nghĩa, và
áp dụng mức thu cao hơn mức danh nghĩa đối với ai muốn di cư.
Động cơ đưa ra Luật Jackson-Vanik ban đầu nhằm vào Liên xô cũ,
cho đến nay nó vẫn còn hiệu lực và đã được sử dụng trong quan hệ
thương mại giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc, Việt Nam, Rumani, Mông
cổ... Việc Hoa Kỳ từ chối không cho các nước nói trên hưởng MFN có
nghĩa là hàng hoá của các nước đó sẽ bị Hoa Kỳ áp dụng thuế suất cao
theo Luật Smoot-Hawley. Điều này sẽ làm giảm đáng kể sức cạnh
tranh của hàng hóa xuất khẩu của các nước đó trên thị trường Hoa Kỳ.
Một ngoại lệ MFN khác được các nước sử dụng khá phổ biến là
ngoại lệ về các thoả thuận thương mại “khu vực” mà gần đây thường
được gọi đó là “chủ nghĩa khu vực” (regionalism) và thậm chí một số
trường hợp còn gọi là “chủ nghĩa song phương” (bilateralism). Do
GATT thừa nhận sự tồn tại của các thoả thuận thương mại khu vực
như một ngoại lệ của MFN nên trong 4 thập kỷ từ 1950 đến 1990 có
75 thoả thuận thương mại khu vực được hình thành và riêng thập kỷ
1990 đến 2000 đã có tới 82 thoả thuận như vậy ra đời. Tuy nhiên, có
tới hơn 100 kiểu “thoả thuận thương mại khu vực” chỉ mang danh
nghĩa vì chỉ có một số hàng hoá được đưa vào diện thực hiện. Do đó,
nghĩa vụ MFN đang bị đe doạ nghiêm trọng và WTO đã buộc phải
thành lập một Uỷ ban để rà soát và kiểm tra các thoả thuận thương
mại khu vực này nhưng cho đến nay, các thoả thuận thương mại khu
vực và song phương có chiều hướng ngày càng tăng lên. Ngày nay
khoảng 50% tổng giao dịch thương mại toàn cầu được tiến hành thông
qua các thoả thuận thương mại khu vực.
Việc áp dụng MFN có thể chia thành các giai đoạn :
Giai đoạn đầu (từ 1947-1954)
Việc đối xử công bằng là thực sự cần thiết về cả kinh tế và
chính trị đối với các nước sáng lập GATT nhằm tránh được cuộc ganh
đua về thuế trong cuộc khủng hoảng 1929-1933 khiến thương mại thế
giới giảm hai phần ba giá trị danh nghĩa, do đó, việc không tuân thủ
nguyên tắc này chỉ được tuân theo các trường hợp ngoại lệ.
Từ 1954 đến 1979
Các quy định ban đầu của GATT, điển hình là MFN, không
phân biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Tất cả
các bên tham gia đều có quyền và nghĩa vụ như nhau bất kể trình độ
phát triển như thế nào. Tuy nhiên, đến đầu những năm 50, trật tự này
bắt đầu bị đặt dấu hỏi, cả ở bên trong và bên ngoài GATT. Bên cạnh
đó, số lượng các nước đang phát triển trở thành thành viên GATT
cũng tăng lên, nhiều nước quan điểm rằng sẽ là không thực tế nếu kì
vọng các nước đang phát triển nghèo với nền kinh tế dễ bị tổn thương
có thể canh tranh trong cùng điều kiện với các nước phát triển.
Vì vậy, đến năm 1979, vòng đàm phán Tokyo đã đưa ra nguyên
tắc đối xử đặc biệt đối với các nước đang phát triển, được gọi là điều
khoản thi hành. Điều khoản này hợp pháp hóa các ưu đãi thuế quan
cho các nước đang phát triển trong khuôn khổ Hệ thống Ưu đãi thuế
quan phổ cập (GSP) và đồng thời cho phép các ngoại lệ đối với
nguyên tắc nhân nhượng lẫn nhau trong đàm phán thuế quan, ý tưởng
là các nước phát triển cần giảm thuế quan với các hàng hóa của các
nước đang phát triển mà không đòi hỏi đổi lại việc cắt giảm thuế quan
tương tự. Ngoài ra điều khoản này còn cho phép các nước đang phát
triển dễ dàng tham gia vào các khu vực thương mại tự do hơn. Thêm
vào đó, chính phủ của các nước đang phát triển cũng có thể tăng
cường khả năng bảo vệ đối với các doanh nghiệp trong nước nhờ khả
năng linh hoạt hơn về rào cản thương mại đối với quyền cung cấp hỗ
trợ của chính phủ.
Từ 1980 đến nay
Nhiều ý kiến muốn các nước đang phát triển tham gia nhiều hơn
vào các vòng đàm phán vì người ta ngày càng nhận ra rằng đối xử đặc
biệt cũng có cái giá của nó vì đàm phán mà ko có sự phụ thuộc lẫn
nhau khiến cho các nước đang phát triển trở nên kém hấp dẫn hơn đối
với các đối tác khác. Do đó, khi vòng đàm phán Uruguay bắt đầu,
nhiều nước đang phát triển quyết định tham gia tích cực hơn vào vòng
đàm phán nhằm đạt được những hỗ trợ cho lợi ích xuất khẩu của họ.
Họ chấp nhận tuân thủ MFN ở nhiều phân ngành hơn so với trước (Cụ
thể, trong số các thành viên đang phát triển của WTO, 44 nước cam
kết dưới 20 phân ngành và 47 nước cam kết từ 21 đến 60 phân ngành.
Các nước phát triển đều cam kết từ 60 đến 130 phân ngành.) Tuy
- Xem thêm -