Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại quận gò vấp hiện nay – thực trạng và gi...

Tài liệu Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại quận gò vấp hiện nay – thực trạng và giải pháp

.PDF
83
196
124

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN THỊ PHƢƠNG MAI THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TẠI QUẬN GÒ VẤP HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN THỊ PHƢƠNG MAI THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TẠI QUẬN GÒ VẤP HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 03 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG D N HOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THANH THỦY Hà Nội - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy. Nội dung luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước với những trích dẫn và sử dụng tài liệu trong giới hạn cho phép. Các kết quả luận văn chưa được công bố trong các công trình nào khác. Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn. Hà Nội, ngày 07 tháng 11 năm 2017 Tác giả luận văn Phan Thị Phƣơng Mai MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN ...................................................... 10 1.1 Cơ sở lý luận về quyền làm chủ của nhân dân.................................... 10 1.2 Một số nội dung về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay ..................................................................................................... 19 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TẠI QUẬN GÒ VẤP HIỆN NAY ............................... 32 2.1 Đặc điểm về kinh tế, văn hóa – xã hội của Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................................. 32 2.2 Một số kết quả và hạn chế trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp ........................................................................ 35 2.3 Nguyên nhân của kết quả đạt được và nguyên nhân của hạn chế ...... 54 2.4 Bài học kinh nghiệm ........................................................................... 55 Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TẠI QUẬN GÒ VẤP HIỆN NAY ................................................................................................................ 58 3.1 Một số định hướng phát huy quyền làm chủ của nhân dân hiện nay . 58 3.2 Một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo thực hiện và nâng cao quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp ................................................... 64 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của mình…” [25, tr. 47 – 48]. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946 đã đề cập đến 2 quyền cơ bản mang tính nguyên tắc của người dân là: tại Điều 6 quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” và Điều 7 quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật…”. Đề cao vai trò của nhân dân lao động đã trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình. Gần 70 năm sau bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 mà quyền công dân được ghi đậm, tại điều 14, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật". Điều này khẳng định quyền làm chủ thực sự của nhân dân ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và được pháp luật bảo vệ. Thực hiện dân chủ với nghĩa quyền lực thuộc về nhân dân là khát vọng to lớn của nhân dân ta. Để đảm bảo quyền làm chủ của người dân, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản thực hiện dân chủ: Ch thị số 30 CT/TW ngày 18 tháng 02 năm 1998 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và thực 1 hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”; Nghị định số 71/1998/NĐ – CP, ngày 08 tháng 09 năm 1998 về việc “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan”… đã đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, sau nhiều năm triển khai, tình hình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm: một số nơi việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở chưa đạt yêu cầu, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm; một số cán bộ có trách nhiệm không muốn triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, hoặc triển khai một cách hình thức, chiếu lệ, nhiều người chưa nhận thức đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân vẫn còn xảy ra; một bộ phận nhân dân mới ch thấy quyền lợi nhiều hơn nghĩa vụ, vì vậy, hiện tượng lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn đang là nguy cơ đe dọa mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, gây không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội... Bản thân là một cán bộ đang công tác trong cơ quan Nhà nước với vai trò và nhiệm vụ, tôi nhận thức rõ về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của người dân, ở nơi nào quyền làm chủ của người dân được thực hiện hiệu quả thì ở nơi đó phát huy được sức mạnh và trí tuệ của người dân để cùng với chính quyền thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội, tạo được niềm tin của người dân đối với cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, việc đảm bảo quyền làm chủ của người dân có nơi vẫn còn những bất cập liên quan đến sự lãnh đạo, ch đạo và quản lý của cơ quan Nhà nước các cấp; đến trình độ và nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về dân chủ, thực hiện dân chủ và những bất cập liên quan đến nhận thức của người dân về các quyền của mình. Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài “Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp hiện nay – Thực trạng và giải pháp” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ, không ch có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý 2 nghĩa thực tiễn. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân tại quận Gò Vấp hiện nay. 2. T nh h nh nghiên c u đề tài Nghiên cứu về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đã có nhiều bài viết, đề tài khoa học nghiên cứu những công trình ở cả góc độ lí luận và thực tiễn về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở các địa phương trong cả nước. Trong thời gian vừa qua, có các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: 2.1. Một số nghiên cứu mang tính lý luận về phát huy quyền làm chủ của nhân dân PGS.TS Nguyễn Cúc: "Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã tập trung làm sáng tỏ một số khía cạnh chủ yếu về lý luận và thực tiễn của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong tình hình hiện nay ở nước ta. Đây là kết quả nghiên cứu từ đề tài khoa học cấp Nhà nước, trong đó tác giả đã tiến hành khảo sát để thấy được thực tiễn thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta qua đó thấy được trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân từ thực tiễn đất nước đặt ra trong bối cảnh hiện nay. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp trong thực hiện dân chủ cơ sở hiện nay. Trần Thị Băng Thanh (2002), Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã tiếp cận vấn đề dân chủ với tư cách là một chế độ chính trị, một hình thái Nhà nước và khẳng định: Với bản chất cách mạng và ưu việt của mình, Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng thể hiện rõ vai trò của mình là phương tiện để đảm bảo thực hiện dân chủ, thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân, đem lại và tạo cho họ khả năng thực tế để thực hiện các quyền dân chủ của mình và hưởng thụ 3 thành quả dân chủ. Tác giả nhấn mạnh vai trò của Nhà nước Việt Nam đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân trong lịch sử và nhất là trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà nước đối với quá trình thực hiện dân chủ của nhân dân trong lịch sử đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước. TS. Đoàn Minh Huấn "Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2004. Tác giả làm rõ vai trò, đặc trưng của dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, qua đó khẳng định: trong giai đoạn hiện nay, muốn mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát huy đúng ưu thế của mỗi hình thức dân chủ, đồng thời cần có sự kết hợp chặt chẽ dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Tác giả Đỗ Mười với cuốn cách “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh”(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998). Tác giả nói về vị trí, vai trò và bản chất của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và cho rằng việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu khách quan và tất yếu để xây dựng hoàn thiện Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tác giả Phạm Gia Khiêm với bài viết “Thực hiện dân chủ gắn với việc xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở” (Tạp chí Cộng Sản, số 09/2004) đã ch ra rằng, thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn bó chặt chẽ với hệ thống chính trị ở cơ sở, có tác động tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các đoàn thể nhân dân; hệ thống chính trị ở cơ sở đã có những quyết sách phù hợp, nhất là việc ban hành các ch thị và các quy chế thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở. Tác giả Hoàng Chí Bảo với bài viết “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong phát triển biền vững” (Tạp chí Triết học số 7/2008) đã ch ra vai trò của kinh tế trong quá trình thực thi dân chủ cũng như các mặt của đời sống 4 xã hội. Theo tác giả, việc đồng thuận trong xã hội là cơ sở cho tính chặt chẽ trong sự liên minh, liên kết giữa các tổ chức xã hội, đồng thời là điều kiện cho quá trình thực hiện dân chủ xã hội. Tuy nhiên, tác giả chưa ch ra cách thức, biện pháp để tạo nên sự đồng thuận xã hội. Tác giả Trịnh Ngọc Anh với bài viết “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh” (Tạp chí Cộng sản số 11/2013) đã ch ra tầm quan trọng của thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, mà đặc biệt là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ đó tác giả cũng đề ra một số giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở. TS. Dương Văn Duyên với bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế thực hiện dân chủ” (Tạp chí Triết học số 1(140)/2003) đã nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng. GS. Lưu Văn Sùng qua bài viết “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân” (Tạp chí cộng sản, số 15/1997) đã ch ra những vấn đề trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, phức tạp và nhiều mâu thuẫn và ch ra mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết là việc bảo đảm quyền làm chủ của người dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội. Trong đó, tác giả nhấn mạnh đến quyền làm chủ và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về chính trị. Lê Khả Phiêu với bài viết “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở” (Tạp chí cộng sản, số 3/1998) đã nghiên cứu về vấn đề mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân của Đảng ta. Qua bài viết, tác giả khẳng định muốn phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải thực hiện cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Muốn vậy, phải xây dựng được các thiết chế dân chủ ở cơ 5 sở phù hợp với từng đối tượng, phải xác định rõ những việc dân cần phải được thông tin, những việc dân cần phải biết. Có như vậy mới có thể phát huy được dân chủ, đảm bảo thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân. 2.2. Một số nghiên cứu về quyền làm chủ của nhân dân từ góc độ thực tiễn các địa phương Tác giả Vũ Gia Hiền trong cuốn “Phát huy dân chủ ở xã, phường” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) đã nghiên cứu, điều tra, khảo sát sau thời gian triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, đánh giá tổng quát những việc làm được, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp để tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hữu hiệu. TS. Nguyễn Văn Sáu – GS. Hồ Văn Thông với cuốn “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003) đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu ở nhiều địa phương trên cả nước, có tham khảo kinh nghiệm ở một số nước từ đó tác giả ch ra cách nhìn, giải pháp trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã trên một số lĩnh vực như quản lý xã hội, hoạt động kinh tế, thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo… Hồ Thị Tú (2006), Các Đảng bộ phường ở Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng Đảng. Tác giả đã làm rõ nội dung, phương thức, đề xuất các giải pháp chủ yếu để tăng cường sự lãnh đạo của các Đảng bộ phường ở quận Thanh Xuân thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tác giả khẳng định: Thực hiện dân chủ cơ sở là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để mọi công dân được hưởng quyền tự do dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi, đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân và góp phần làm phong phú hơn hình thức thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân. 6 Luận văn của Thạc sĩ Thân Trọng Minh về “Đảng bộ Quận Gò Vấp lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở giai đoạn hiện nay”, Học viện chính trị, 2014 nghiên cứu về việc thực hiện quy chế dân chủ ở Quận Gò Vấp từ năm 2006 đến 2014, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong giai đoạn hiện nay. Luận văn “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở từ thực tiễn Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh” của Thạc sĩ Vũ Anh Tài, Học viện Khoa học Xã hội, 2016 đã phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở, qua đó tác giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giám sát chính quyền địa phương trong thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở tại Quận Gò Vấp Thành phố Hồ Chí Minh. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và bài viết của các tác giả nêu trên đã làm rõ cơ sở lý luận về quyền làm chủ của nhân dân từ các khía cạnh khác nhau, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay, đồng thời phân tích những thuận lợi, khó khăn, kết quả thực hiện và đề ra một số giải pháp nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, nghiên cứu về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp, thực trạng và giải pháp vẫn còn là khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên c u 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền làm chủ của nhân dân, thực trạng việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, luận văn tập trung làm rõ vấn đề quyền 7 làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại quận Gò Vấp hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận về quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay. Thứ hai, phân tích thực trạng với những thành tựu, hạn chế của việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp trong thời gian qua. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên c u 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực quyền làm chủ của nhân dân tại quận Gò Vấp hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Xuất phát từ tình hình thực tế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp và các tài liệu mà tác giả có thể tiếp cận được, đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. - Về thời gian: Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, các số liệu, tư liệu, khảo sát chủ yếu từ năm 1975 đến năm 2016. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên c u 5.1. Phương pháp luận Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. 8 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng những phương pháp cơ bản như: quy nạp và diễn dịch, phân tích, tổng hợp, lịch sử - logic và các phương pháp chung của khoa học xã hội. Để có những tư liệu cụ thể, tác giả đã tiến hành khảo sát xã hội học ở một số địa phương. 6. ngh a l luận và th c tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại Quận Gò Vấp, đề xuất được các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân hiện nay. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy chuyên đề; đồng thời cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong việc tiếp tục đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân tại quận Gò Vấp hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nâng cao quyền làm chủ của nhân dân tại quận Gò Vấp hiện nay. 9 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN 1.1. Cơ sở lý luận về quyền làm chủ của nhân dân 1.1.1. Khái niệm quyền làm chủ của nhân dân Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, vấn đề đấu tranh để đảm bảo quyền làm chủ của con người, được phát triển trong suốt chiều dài lịch sử, trong quá trình đấu tranh giai cấp, tùy từng giai đoạn mà thể hiện ở các mức độ khác nhau. Thời kỳ công xã nguyên thủy với nền văn minh mông muội và điều kiện sống phụ thuộc chủ yếu vào giới tự nhiên, con người tổ chức lại thành từng cộng đồng để tạo ra sức mạnh chống lại thiên tai, thú dữ… Lúc này sức mạnh của cá nhân là sức mạnh của cộng đồng và sức mạnh của cộng đồng là sức mạnh của cá nhân. Trong cộng đồng đó, từng cá nhân có quyền bầu ra người xứng đáng làm thủ lĩnh của mình và phế bỏ nếu người thủ lĩnh không còn xứng đáng, mọi người đều có quyền bình đẳng. Cách tổ chức xã hội của công xã nguyên thuỷ cho thấy, hình thức dân chủ đầu tiên của xã hội loài người thể hiện sự bình đẳng, vai trò vị trí của con người trong công xã có quyền lực và chính quyền của nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực trong cộng đồng. Dân chủ bao hàm nội dung rộng lớn, được hiểu theo các khía cạnh khác nhau như dân chủ được hiểu là một chế độ chính trị (như dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản - dân chủ xã hội chủ nghĩa); dân chủ được hiểu như một giá trị nhân văn; phản ánh trạng thái và mức độ giải phóng con người, nó thể hiện ở quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, được quy định 10 bằng pháp luật và thể hiện trong cuộc sống... Nhưng vấn đề cốt lõi nhất của dân chủ vẫn là quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia giai cấp trong xã hội, nền “dân chủ nguyên thủy” tan rã thay bằng nền “dân chủ chủ nô”. Trong nền dân chủ chủ nô, quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp chủ nô, lúc này, giai cấp chủ nô thực hiện quyền lực của mình đối với nô lệ và quyền lực của giai cấp chủ nô được thể chế hóa bằng pháp luật và được duy trì, bảo vệ, thực hiện bởi nhà nước chủ nô. Khi nền dân chủ tư sản ra đời dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội về kinh tế, chính trị, xã hội. Dân chủ tư sản được xem là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của dân chủ khi mà nó quy định quyền phổ thông đầu phiếu, quyền ứng cử và bầu cử, quyền bất khả xâm phạm thân thể và nhà ở, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng… Tuy nhiên, dân chủ tư sản bộc lộ những hạn chế và được giai cấp tư sản xem như một công cụ, hình thức thống trị xã hội. Trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản, khi mà phương thức sản xuất dựa trên quan hệ bóc lột, áp bức, giai cấp tư sản nắm quyền lực chính trị thì lúc này dân chủ tư sản thực chất là bảo vệ cho thiểu số. Theo Lênin “chế độ dân chủ tư sản, tuy là một tiến bộ lịch sử vĩ đại so với thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là và dưới chế độ tư bản nó không thể không là một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường của bọn giàu có, một cái cạm bẫy và một cái mồi giả dối, đối với người bị bóc lột, đối với người nghèo” [35, tr. 305]. Khi giai cấp công nhân thông qua chính Đảng của mình lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động đứng lên đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ quyền cai trị của giai cấp tư sản và tự mình trở thành giai cấp cầm quyền và xây dựng nền dân chủ vô sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa thì giai cấp công nhân 11 mới thực sự trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ vận mệnh của mình. Ch có xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa thì mọi đặc quyền, đặc lợi mới bị xóa bỏ và quyền lực thực sự vào tay đại đa số nhân dân lao động. Ở dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân không ngừng được mở rộng ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, của xã hội. Mục đích cao nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội không còn sự phân chia giai cấp, không có áp bức bóc lột, không phân biệt nam nữ, chủng tộc, tôn giáo… Dân chủ xã hội chủ nghĩa ghi nhận toàn bộ những quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Ở đó, quyền lực thật sự thuộc về nhân dân, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền và nghĩa vụ tham gia vào công việc của nhà nước. Như vậy, quyền làm chủ của nhân dân là tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, thể hiện trên 3 mặt chủ yếu: chính trị - kinh tế - xã hội. 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền làm chủ của nhân Tư tưởng lấy dân làm gốc đã được ông cha ta đúc kết qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Như Trần Hưng Đạo với triết lý “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” hay như Nguyễn Trãi cũng từng nói “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Kế thừa và phát triển tư tưởng về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân của Mác – Lênin, quan điểm lấy dân làm gốc của ông cha, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định dân chủ là “dân là chủ” và “dân làm chủ”, là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự tổ chức và thực hiện quyền lực của mình thông qua nhà nước. Trong nhà nước đó, nhân dân là người làm chủ, còn cán bộ, công chức là đầy tớ, là công bộc phục vụ và bảo vệ nhân dân; nước lấy 12 dân làm gốc, địa vị cao nhất là nhân dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở dân. Dân ở đây theo Hồ Chí Minh là đông đảo quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột, là toàn thể nhân dân Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân là chủ tức là khẳng định vị trí của dân trong mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, trong quan hệ đó, dân có mọi quyền hạn đối với nhà nước và xã hội. Người dân được hưởng lợi ích và mọi lợi ích đều là của dân, ý của dân là ý chí tối thượng mà xã hội và nhà nước phải tuân theo. Dân làm chủ tức là người dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách tham gia vào các hoạt động của nhà nước, thực hiện trách nhiệm của mình đối với nhà nước, “đã là người chủ của nước nhà thì phải phụ trách đối với Tổ quốc” [44, tr. 259]. Người dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trao một phần quyền lực của mình cho một bộ phận thực thi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quyền lợi của người dân bằng cách bầu ra Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Đồng thời người dân sử dụng phần quyền lực còn lại của mình để giám sát , kiểm tra những người đại diện cho ý chí, quyền lực của mình và hoạt động của nhà nước. Dân là chủ và dân làm chủ theo Hồ Chí Minh có thể hiểu là: “ NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [44, tr. 232]. Dân chủ là quyền thiêng liêng của nhân dân và không ai được quyền xâm phạm, Đảng và Nhà nước phải có trách nhiệm trong việc phát huy quyền 13 làm chủ của nhân dân, phải đảm bảo các điều kiện để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình. Dân chủ là lợi ích thiết thực của nhân dân, là cái thúc đẩy nhân dân hành động vì đất nước, vì dân tộc và trở thành một trong những sách lược thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, là giải pháp hữu hiệu tạo nên sự nhất trí đồng lòng trong nhân dân. Người khẳng định “có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên” [46, tr. 376]. Theo Hồ Chí Minh, vấn đề cốt lõi của việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thể hiện ở bốn mặt: bảo đảm dân quyền, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí và nắm vững dân tâm. Chăm lo dân quyền là bảo đảm quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, coi trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, Người nhấn mạnh “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [ 39, tr. 515], mọi quyền hành và lực lượng đều là của dân, mọi công việc đều do dân. Theo Người, dân chủ có nghĩa là phải làm sao để nhân dân có quyền làm chủ, có điều kiện làm chủ và nhân dân phải biết sử dụng quyền làm chủ của mình. Để thực hiện được điều đó, trước hết Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng việc đề ra các chủ trương, chính sách, pháp luật; đồng thời mọi người dân phải tự mình phấn đấu, thực hành dân chủ. Ch có như vậy, quyền làm chủ của nhân dân mới thực sự được thực hiện. Tại Điều 1, Hiến pháp 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ch đạo biên soạn đã đặt nền móng cho nền dân chủ công hòa quy định rõ “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền hành trong nước là của nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. 14 Theo Hồ Chí Minh, muốn đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, trước hết phải xây dựng nhà nước của dân, ở Nhà nước đó, mọi quyền hành trong nước đều là của dân, những vấn đề quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước đều do nhân dân quyết định. Bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở đều do nhân dân bầu ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp và nhà nước lấy phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân làm tiêu chí để tổ chức và hoạt động. Nhà nước của dân là nhà nước phải làm cho dân có ăn, dân có mặc, dân có chỗ ở, dân được học hành, được tự do đi lại, được chăm sóc sức khỏe và mọi cán bộ, công chức đều là người đầy tớ trung thành của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Cải thiện dân sinh là quan tâm đến việc cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, người dân ch biết đến tự do dân chủ khi mà người dân được ăn no, mặc ấm và trách nhiệm của Nhà nước là phải làm sao để dân có ăn, có mặc, dân được học hành, được chăm sóc sức khỏe…. Người xem đây là việc cần làm ngay và làm thường xuyên. Nâng cao dân trí là một trong những thước đo quyền làm chủ của nhân dân, ch khi nào dân trí được mở rộng và nâng cao thì xã hội mới phát triển. Ch khi nào người dân Việt Nam hiểu biết hết về quyền lợi của mình, nghĩa vụ của mình và có kiến thức để tham gia vào các công việc của Nhà nước thì lúc đó mới giữ vững được nền độc lập, xã hội mới phát triển, dân chủ mới được thực hành rộng rãi. Chăm lo cho dân trí được Hồ Chí Minh xem là một việc làm cấp bách và lâu dài. Nắm vững dân tâm có nghĩa là hiểu rõ tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của nhân dân từ đó huy động được sức mạnh to lớn của nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được… Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó 15 mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt… Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong” [43, tr. 212]. Vì vậy, việc nào dù khó khăn đến đâu, nếu được nhân dân ủng hộ thì đều sẽ thành công; còn nếu dân không đồng lòng, không ủng hộ thì làm việc gì cũng không thể xong. Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi ra đời cho đến nay, quan điểm xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam là luôn đề cao vai trò của người dân và quyền làm chủ của nhân dân, luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và mục tiêu cao cả, động lực to lớn của cách mạng là độc lập, dân chủ, dân quyền cho toàn thể nhân dân lao động Việt Nam. Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng ta đã sớm xác định chế độ ta là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Tại Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đã đề ra nhiệm vụ có tính cương lĩnh là xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, sao cho nhân dân thực sự trở thành người làm chủ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Đến Đại hội VI năm 1986, trước tình hình đất nước đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng toàn diện, đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới toàn diện, xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân và từng bước xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội này, Đảng đã đề ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đây được xem là mốc đánh dấu việc đưa sự nghiệp xây dựng dân chủ ở cách mạng nước ta vào chiều sâu. Thực hiện dân chủ hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định là mục tiêu và động lực của Đổi mới. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan