Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại bệnh viện giao thông vận tải thành phố hồ ch...

Tài liệu Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại bệnh viện giao thông vận tải thành phố hồ chí minh hiện nay

.PDF
76
89
60

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................................1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ VÀ QUY CHẾ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ .........................................9 1.1 Khái niệm dân chủ và dân chủ cơ sở ....................................................................... 9 1.2 Đặc diểm, nội dung và vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. . 24 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TẠI BÊNH VIỆN GIAO THÔNG VẬN TẢI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY .....................................................................................................34 2.1 Đặc điểm, tình hình của Bệnh viện Giao Thông Vận tải .......................... 34 2.2 Thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ cở sở tại Bệnh viện Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh. .......................................................... 40 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TẠI BỆNH VIỆN GIAO THÔNG VẬN TẢI THÀNH PHỐ HÒ CHÍ MINH HIỆN NAY ........................................................................................................................................57 3.1 Những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại bệnh viện Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh. ......................................................................................................................... 57 3.2 Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại bệnh viện Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ......................................................................................................................... 60 KẾT LUẬN .................................................................................................................68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa HĐND : Hội đồng nhân dân MTTQ : Mặt trận Tổ quốc QCDC : Quy chế dân chủ UBND : Ủy ban nhân dân UBTVQH11 : Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 1 XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ trước đến nay, Đảng ta luôn coi thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Dân chủ còn là mục tiêu và động lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước ta theo định hướng XHCN “Không thể có một CNXH thắng lợi mà lại không thực hiện dân chủ hoàn toàn” [41, tr.324]. Bước sang thời kỳ đổi mới, việc mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề cấp thiết. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định phải “lấy dân làm gốc” và đã đề ra phương châm: “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị quan trọng nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân để phát triển kinh tế, ổn định chính trị, phát triển xã hội như Chỉ thị 30- CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11. Việc ban hành Qui chế dân chủ ở cơ sở là một chủ trương hết sức đúng đắn, hợp lòng dân, đáp ứng kịp thời tâm tư, nguyện vọng, những vấn đề bức xúc của người dân, được nhân dân hưởng ướng rất nhiệt tình và tích cực thực hiện. Đây là một bước tiến lớn thể hiện sự quyết tâm củng cố, hoàn thiện và phát triển nền dân chủ XHCN của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là phương thức giải quyết các nhiệm vụ, mục tiêu chung của đất nước trong công cuộc đổi mới. Quy chế dân chủ cơ sở đã thực sự đi vào cuộc sống, tác động tích cực tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong thời gian qua, đã thu được nhiều 1 thành tựu quan trọng, thu hút được sự quan tâm hàng ngày của tất cả các tầng lớp xã hội. Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, tình trạng vi phạm dân chủ, hay dân chủ hình thức còn diễn ra ở không ít nơi. Việc thực hiện dân chủ ở nhiều cơ sở làm thiếu nền nếp, hiệu quả chưa cao; dân chủ trực tiếp của nhân dân ở xã, phường tốt hơn ở khu vực cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Một số nơi hiện tượng vi phạm quyền dân chủ của người dân rất nghiêm trọng, gây bất bình trong nhân dân, làm giảm sút lòng tin đối với Đảng và Nhà nước. Triển khai và thực hiện Chỉ thị 30- CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại Thành Phố Hồ Chí Minh nói chung và tại Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm: một số nơi việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở chưa đạt yêu cầu, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm; một số cán bộ có trách nhiệm không muốn triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở, hoặc triển khai một cách hình thức, chiếu lệ, nhiều người chưa nhận thức đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân vẫn còn xảy ra; một bộ phận nhân dân mới chỉ thấy quyền lợi nhiều hơn nghĩa vụ, vì vậy, hiện tượng lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn đang là nguy cơ đe dọa mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, gây không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội,... Từ thực tiễn trên, tác giả nhận thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là thực hiện quy chế dân chủ cơ sở nơi công tác cần phải phát huy hơn nữa vần đề dân chủ và trực tiếp lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của những người xung quanh. Từ đó, Tác giả chọn đề tài "Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ khi có Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII), ngày 18/2/1998, về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn đã có nhiều công trình nghiên cứu về dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Trong đó có các công trình tiêu biểu như sau: Các tác giả Phạm Thành, Khắc Mai trong cuốn “Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh” .Nxb Chính trị, Hà Nội, 1991 khẳng định tư tưởng dân chủ là một trong những bộ phận quan trọng trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh. Các tác giả bước đầu đã phân tích những tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ nhằm khẳng định việc dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội là một trong những vấn đề then chốt nhằm khơi dậy và huy động những lực lượng cách mạng to lớn tiềm ẩn trong nhân dân tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tác giả Dương Xuân Ngọc: "Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một số vấnđề lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Tác giả đã làm rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã cả về mặt lý luận và thực tiễn. Tác giả Nguyễn Cúc: "Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã tập trung làm sáng tỏ một số khía cạnh chủ yếu về lý luận và thực tiễn của việc thực hiện QCDC ở cơ sở trong tình hình hiện nay ở nước ta. Tác giả Mạch Quang Thắng với công trình nghiên cứu đề tài cấp Bộ năm 1999 “Đảm bảo và phát huy dân chủ trong chế độ một Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay” đã xác định một số nội dung cơ bản của thực hiện dân chủ trong một số điều kiện nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, đề tài này bước 3 đầu đã khảo sát, đánh giá thực trạng của việc thực hiện dân chủ của nước ta và đề xuất một số giải pháp theo tinh thần dân chủ Hồ Chí Minh nhằm bảo đảm, phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay. Tác giả Nguyễn Thị Ngân: "Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay", Đề tài khoa học cấp bộ 20022003. Tác giả tiếnhành nghiên cứu thực trạng việc thực hiện QCDC cơ sở ở các tỉnh đồng bằng sôngHồng, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện QCDC ở khu vực đồng bằng sông Hồng. Trần Bạch Đằng: "Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số 35 (12/2003). Trong bài viết này, tác giả khẳng địnhthực hiện dân chủ ở cơ sở là một khâu rất quan trọng nhằm hoàn thiện cơ chế nhân dânlàm chủ xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo tác giả, đây là một vấn đề không chỉ mang ý nghĩa thời sự mà còn là một sự tiếp nối truyền thống, phát huy sứcmạnh của dân được hình thành trong lịch sử mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữnước của dân tộc ta. Trần Khắc Việt tác giả viết về: "Thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay: Vấn đề đặt ra và giải pháp", Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2004. Tác giả chỉ ra những vấn đề nảysinh trong quá trình thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội ở nước ta, đồng thời đưa ranhững giải pháp nhằm tiếp tục phát huy dân chủ trong tình hình hiện nay. Đoàn Minh Huấn tác giả bài viết "Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta", Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2004. Tác giả làm rõ vai trò, đặc trưng của dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, qua đó khẳng định: trong giai đoạn hiện nay, muốn mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta, cần phát huy đúng đắn ưu thế của mỗi hình thức dân chủ, đồng thời cần có sự kết hợp chặt chẽ dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. 4 Tác giả Đỗ Mười với cuốn cách “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghiã xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh”Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Đây là cuốn sách tổng hợp các bài phát biểu, bài viết của nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười về vị trí, vai trò và bản chất của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tác giả cho rằng việc phát huy dân chủ dân chủ xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu khách quan và tất yếu để xây dựng hoàn thiện Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa. GS.TS Hoàng Chí Bảo “Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tình hình đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Tác giả đã nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đồng thời nêu bật tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nguyễn Xuân Lãng “ Tuyên dương lao động giỏi, lao động sáng tạo ngành Y tế 2007” Nxb Y học, 2012. Giới thiệu quá trình xây dựng, trưởng thành và những sự kiện quan trọng trong hoạt động của Công đoàn Y tế Việt Nam trong 55 qua và tuyên dương những lao động xuất sắc của ngành y tế. Nguyễn Quang Huy “ Xử lý kỷ luật đối với cán bộ, viên chức y tế, biện pháp quan trọng của quản lý nhà nước về Y tế”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 145/2008. Tác giả nêu lên thực trạng cán bộ, viên chức ở một số cơ sở y tế vi phạm kỷ luật, xử lý theo pháp luật… làm ảnh hưởng đến chất lượng khám chữa bệnh của nhân dân và uy tính của ngành. Từ đó đưa ra những biện pháp xủa lý thực trạng của cán bộ, viên chức ngành Y tế. Nguyễn Thị Kim Tiến. “Bác Hồ với ngành y tế”, Nxb Y học, năm 2014. Cuốn sách tập hợp các bài viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhành Y tế và các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ Y tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dồng thời tôn vinh các thành tích của Ngành, đơn vị, cá nhân trong phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. 5 Nguyễn Quốc Triệu “Đội ngũ trí thức ngành Y yế Việt Nam hiện đại”, Nxb Y học, 2010. Tác giả giới thiệu tiểu sử, sự nghiệp của những Giáo sư, phó giáo sư, viện sĩ và Tiến sĩ thuộc ngành Y tế cách mạng Việt nam hiện nay cùng với những đóng góp chung của họ cho ngành Y tế Việt Nam. Nhìn chung, có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến lý luận và thực tiễn về dân chủ cũng như thực hiện dân chủ ở cơ sở ở nước ta hiện nay. Nhiều nhà khoa học đã khẳng định đúng rằng thực hiện dân chủ là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển của đất nước, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định vai trò quyết định và sự cần thiết phải thực hiện dân chủ ở cơ sở và dân chủ ở cơ sở. Nhiều công trình khác khẳng định tính tất yếu của việc thực hiện dân chủ để đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Một số tác giả chỉ rõ bản chất, mô hình của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, những hạn chế của các nền dân chủ khác trong lịch sử. Các bài viết cũng rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ chức, biện pháp... để thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở một cách khá sâu sắc. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào đi sâu, nghiên cứu các vấn đề về thực hiện dân chủ ở cơ sở của ngành y tế và đặc biệt là thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở các Bệnh viện Giao thông Vận tải. Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh với thực trạng và giải pháp chưa có công trình nghiên cứu và cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu để nâng cao hiệu quả quá trình dân chủ hóa trong cơ quan, tổ chức nhà nước, trong các bệnh viện công lập . 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn từ cơ sở lý luận chung về vấn đề dân chủ và thực hiện quy chế dân ở cơ sở, làm rõ thực trạng thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại Bệnh viện Giao thông vận tải Thành Phố Hồ Chí Minh. Từ 6 đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cở sở tại Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành Phố Hồ Chí Minh. Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ: - Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở - Phân tích thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ cở sở tại Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. - Nghiên cứu, đề xuất một số phương hướng và giài pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: khảo sát thực trạng của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành Phố Hồ Chí Minh - Về thời gian: Từ khi có Quyết định số 44/2007/QĐ-BYT ngày 12 tháng 12 năm 2007 của Bộ Trưởng Bộ y tế ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động bệnh viện công lập cho đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là kế thừa quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Quy chế dân chủ cơ sở. Ngoài ra, tác giả còn kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu đã được công bố có nội dung liên quan đến đề tài. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trên quan điểm của phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch,... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra. 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu có thể vận dụng cho việc triển khai Quy chế dân chủ cơ sở cho các Bệnh viện ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy chuyên đề về dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. 7. Cơ cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về dân chủ và quy chế thực hiện dân chủ cơ sở. Chƣơng 2: Thực trạng việc thực hiện dân chủ cơ sở tại Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay. Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 8 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ VÀ QUY CHẾ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ 1.1 Khái niệm dân chủ và dân chủ cơ sở Dân chủ là một phạm trù lịch sử, đồng thời là phạm trù chính trị, nó tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử của loài người. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn lịch sử xã hội khác nhau, sự biểu hiện dân chủ cũng khác nhau, đặc biệt trong xã hội có giai cấp đối kháng, dân chủ luôn mang tính gia cấp. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng: Dân chủ là một hình thức tổ chúc thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận, nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Thuật ngữ “Dân chủ” có xuất hiện từ rất sớm, được hiểu (demos - nhân dân, Kratos - chính quyền), có nghĩa là chính quyền của nhân dân hay sự cai trị của nhân dân. Dân chủ đã được hiểu là "quyền lực thuộc về nhân dân", hoặc "nhân dân cai trị". Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Theo Từ điển triết học (do M.M. Roodentan biên soạn), “ dân chủ là một trong những hình thức chính quyền mà điều đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do và bình đẳng của công dân” [45, tr.118]. Xét về mặt giá trị xã hội, dân chủ là một trong những thứ quý báu nhất của con người, là một giá trị vĩnh hằng mà từ khi có con người, từ khi chưa có chữ viết và chưa có khái niệm dân chủ, con người lúc đó đã có một đời sống “hoàn toàn” dân chủ. Con người lúc đó đã cùng nhau làm chủ, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, cùng lao động, cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra. Khi giai cấp và nhà nước ra đời, dân chủ đã trở thành một chế 9 độ chính trị với những nội dung và hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào sự phát triển trong mỗi kiểu nhà nước ở mỗi quốc gia, dân tộc. Dân chủ từ đó gắn liền với lợi ích giai cấp, với quyền làm chủ của giai cấp này và mất (hoặc hạn chế) quyền làm chủ của giai cấp khác. Trong xã hội nguyên thủy, dân chủ tồn tại với hình thức dân chủ công xã. Trên cơ sở phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy, các thành viên trong công xã sống bình đẳng và hợp tác. Do chưa có sỡ hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và của cải nên chưa có áp bức, bất công. Bộ máy công xã do các thành viên bầu ra và có thể bãi miễn. Tuy nhiên trong xã hội công xã nguyên thủy con người chưa có khái niệm về dân chủ. Khái niệm dân chủ chỉ xuất hiện khi trong xã hội có hiện tượng độc tài của giai cấp thống trị thông qua bộ máy nhà nước của giai cấp chủ nô. Hình thức dân chủ điển hình trong xã hội chiếm hữu nô lệ là dân chủ chủ nô ở Aten. Hình thức dân chủ này được thể hiện rõ nét thông qua việc các công dân Aten có quyền lựa chọn, bầu cử những người có uy tín vào Đại Hội đồng – cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước chủ nô. Dưới Đại hội dồng là Hội dồng điều hành gồm 500 hội viên. Hội đồng lại chia thành các úy ban, mỗi ủy ban gồm 50 hội viên. Hội đồng có chức năng quan trọng, song vai trò dân chủ và pháp luật được đề cao.Quyền dân chủ được thực hiện với các công dân thành bang Aten là quý tộc, thông thái, hiệp sĩ, thị dân. Những người thuộc giai cấp nô lệ hoặc không phải là công dân Aten thì không có quyền ứng cử, bầu cử. Dù nhà nước dân chủ chủ nô hay quân chủ chủ nô cũng điều là hình thức nhà nước của giai cấp chủ nô quý tộc, quyền lực chính trị thực chất thuộc về giai cấp chủ nô, nếu có dân chủ thì cũng chỉ là dân chủ của số ít trong nhân dân chứ không phải là dân chủ của tất cả quần chúng nhân dân.Trong xã hội phong kiến ở Châu âu, người dân hầu như không có quyền 10 dân chủ. Giai cấp địa chủ phong kiến kết hợp với Giáo hội Ki tô giáo đặt sự thống trị lên toàn xã hội. Pháp luật phong kiến, tòa án của Giáo hội đàn áp mọi tư tưởng tiến bộ. Những tư tưởng duy vật, khoa học, hoặc chỉ cần khác với tư tưởng tôn giáo phong kiến đều bị qui là “tà giáo” bị đàn áp, khủng bố. Giai cấp tư sản phương Tây trong vòng 300 năm đã tiến hành các cuộc cách mạng tư sản xóa bỏ chế độ phong kiến, thiết lập nên nhà nước pháp quyền tư sản, xã hội thần dân được thay bằng xã hội công dân. Nền dân chủ tư sản được thiết lập, nhờ đó các quyền tự do, bình đẳng của con người như tự do đi lại, tự do kinh doanh, tự do hôn nhân, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo được thực hiện. Dân chủ tư sản được xem như một hình thức nhà nước, pháp luật tư sản góp phần giải phóng con người khỏi sự lệ thuộc vào phong kiến và tôn giáo đã từng tồn tại hàng ngàn năm. Đây là một bước tiến dài của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên về bản chất thì tự do dân chủ tư sản dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, dân chủ được thực hiện đó với số ít đó là giai cấp giàu có, còn nhân dân lao động chỉ có quyền dân chủ tự do về hình thức, phần nào được nới lỏng chút ít về chính trị, còn về kinh tế dường như vẫn không được thừa nhận. Thực chất đây là dân chủ nửa vời. C. Mác chỉ rõ, dân chủ tư sản bị giai cấp tư sản bóp méo di, chỉ là: “ một thứ dân chủ hạn chế trong những điều mà cảnh sát cho phép”. Có thể nói, dân chủ là vấn đề nhạy cảm được nhiều các nhà khoa học, các học giả, các chính trị gia trên thế giới qun tâm nghiên cứu. Do đó các quan niệm, định nghĩa khác nhau về dân chủ ngày càng phong phú hơn, nhưng cốt lõi nhất của dân chủ vẫn là quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, dân chủ thường được hiểu với nghĩa chung nhất là dân làm chủ. Quan niệm dân chủ như là một nhiệm vụ và yêu cầu của nhân loại cùng hướng tự do, bình đẳng để giải phóng con người, nhân dân thật sự có quyền làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước và làm chủ bản thân mình. 11 1.1.1 Khái niệm dân chủ và dân chủ cơ sở Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định rằng, dân chủ với tính cách là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, là hình thức của nhà nước. C.Mác, trong Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel, đã gọi chế độ quân chủ và dân chủ là chế độ nhà nước. V. I. Lênin khẳng định: “ Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước” [43, tr.123]. Với tư cách là một phạm trù lịch sử, chế độ dân chủ ra đời, phát triển gắn liền với nhà nước và sẽ biến mất nhà nước không còn nữa. Nó biến đổi và phát triển không ngừng cả về chất và lượng trong từng giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội loài người. Tuy nhiên, các nhà kinh điển Mác - Lênin cũng nhận thấy rằng dân chủ với tính cách là giá trị xã hội, là thành quả giá trị nhân văn, trước hết được sinh ra từ phương thức tổ chức hợp tác sản xuất và kết cấu cộng đồng giữa người với người thì đã tồn tại ngay khi từ xã hội cộng sản nguyên thủy. C.Mác và Ph.Ănghen cho rằng dân chủ luôn gắn liền với khát vọng tự do, bình đẳng, công bằng và bác ái của con người, vì vấn đề dân chủ xét đến cùng là vấn đề vai trò của con người, chủ quyền của con người để đi đến tự do, bình đẳng cho mỗi cá nhân. Cho nên, khi lý luận về sự ra đời tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, hai ông đã khẳng định được dân chủ, tự do, bình đẳng mới thực sự trở thành hiện thực triệt để, nhân dân mới được hưởng quyền dân chủ và phát huy mọi khả năng sẵn có của mình. Từ khi Cách mạng tháng Mười Nga (1917) ra đời đã mở đầu cho sự ra đời của dân chủ vô sản với nhà nước vô sản hiện thực. Mục tiêu cao cả của nhà nước vô sản là xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, không có người bóc lột người, mọi người đều tự do bình đẳng, nhân dân lao động làm chủ thực sự về chính trị, kinh tế và xã hội, tham gia quản lý nhà nước. Đây là khác biệt về bản chất giữa dân chủ vô sản và dân chủ tư sản, giữa nhà nước tư 12 sản với nhà nước vô sản do nhân dân lao động làm chủ. Để thiết lập trong thực tế một nền dân chủ thực sự cho người dân, V.I Lênin đã khẳng định: “Không phải tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố ra sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho những người đại diện nhân dân cho những cơ quan đại biểu là đủ” [52, tr 336]. Đồng thời Lênin chỉ ra rằng: “ Giúp họ có khả năng thực tiễn, thực hiện được quyền tự do dân chủ” [53, tr.116]. Đối với nhà nước V.I Lênin đòi hỏi phải bắt tay ngay vào việc làm cho tất cả những người lao động, tất cả những công dân nghèo đều tham gia học quản lý nhà nước và chính quyền nhà nước phải tiếp tục nhiệm vụ đó một cách kiên định. Như vậy, trong quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin về dân chủ không phải là nhà nước chỉ biết lo cho dân từ bên trên, mà là nhà nước của dân, công cụ quyền lực phục vụ hoạt động tự do, là chủ thể của mọi người dân, để sáng tạo ra xã hội mới vì hạnh phúc của nhân dân trong sự nghiệp chung đó. Thước đo trình độ thực hiện dân chủ của một chế độ xã hội là mức độ và khả năng thu hút quần chúng tham gia vào công việc của nhà nước và xã hội. Ở thời đại ngày nay, dân chủ được thừa nhận là giá trị phổ biến của nhân loại. Nước nào cũng tuyên bố thực hiện dân chủ, cũng tự nhận là nước dân chủ và cùng phản ứng gây gắt khi bị chỉ trích vi phạm dân chủ. Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng dân chủ. Ngay cả những nước thực sự dân chủ thì mức độ dân chủ cũng có nhiều mức cao thấp khác nhau. Điều đó cho thấy cách hiểu về khái niệm dân chủ không thống nhất. 1.1.2 Quan điểm của Chủ nghĩa Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh về dân chủ và Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ vafthuwjc hiện quy chế dân chủ ở cơ sở Tiếp thu, vận dụng những tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin vào quá trình cách mạng ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm 13 bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó bổ sung những đặc điểm của xã hội Việt Nam và xây dựng một nền dân chủ mang đậm tính nhân dân và tính dân tộc phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã xây dựng một chế độ dân chủ mới, đó là chế độ “dân chủ nhân dân” được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946. Tại điềi 1 của Hiến pháp khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền trong nước là cuả toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” [30, tr.8]. Dân chủ được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, phát triển đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên gây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo quan điểm dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa, rằng: “dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ”. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ nghĩa là: thứ nhất, dân là chủ “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[37, tr.515]; thứ hai, dân làm chủ “nước ta là nước dân chủ, nghĩa là Nhà nước do nhân dân làm chủ...” [33, tr.452]; thứ ba, dân chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân và được thực hiện qua các tổ chức quần chúng: Mặt trận, Công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ [42, tr.66]. Có thể thấy, dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra không dừng lại ở nội dung chính trị, quyền lực chính trị, mà còn có nội dung nhân văn và nhân đạo. Theo Người, dân chủ là một nhu cầu tất yếu của con người, nó thuộc bản chất người. Và như vậy, không có ai có quyền tước bỏ đi cái thuộc 14 tính bản chất ấy, cái bản chất luôn muốn vươn tới sự tự do để khẳng định khả năng phát triển của con người. Tính dân chủ thể hiện ở chỗ mọi người có thể tự do trình bày ý kiến về mọi vấn đề. Dân chủ là tìm ra chân lý, và khi đã tìm được chân lý thì mọi sự sẽ trở nên rõ ràng, nhận thức và hành động sẽ thống nhất để đạt được mục tiêu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ được thể hiện trong thực tế. Với Người, dân chủ không phải là khái niệm chung chung, trừu tượng mà là cụ thể. Khi nói đến dân chủ thì chủ thể chính là nhân dân, là đồng bào, đồng chí, không giới hạn tầng lớp hay giai cấp nào, đó là tất cả những ai có lòng yêu nước, đấu tranh vì độc lập tự do cho dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, dù người đó trước đây có những lỗi lầm gì chăng đi nữa. Dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp. Để có một nền dân chủ thực sự, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc xây dựng một thể chế nhà nước thực sự của dân, do dân, và vì dân thường xuyên củng cố hoàn thiện chính sách và pháp luật. Để thực hiện dân chủ, sau khi đất nước vừa được độc lập, Người đã sớm chủ trương chuẩn bị ngay việc bầu của Quốc hội, lập ra nhà nước của nhân dân, do dân và vì dân. Coi đây là dịp để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mìn Ở nước ta, Cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt Nam thành công nền dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á được thiết lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lập nên là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ, phát huy mọi quyền làm chủ của nhân dân. Các công dân trong xã hội có quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, và làm chủ bản thân mình. Hiến pháp nước Việt Nam đầu tiên ra dời và trong nhiều văn bản pháp luật thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực, nhiều chính sách đã được ban hành từ trước đến nay. Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Việt Nam việc thừa nhận quyền làm chủ của nhân dân đặc biệt làm chủ trong 15 lĩnh vực chính trị là quan điểm tiến bộ so với xã hội lúc bấy giờ, đã đạt tới những quan niệm dân chủ, sánh ngang với bất cứ một thể chế dân chủ nào trên thế giới. Nổi bật ở đây là việc xác nhận về mặt pháp lý quyền làm chủ của nhân dân “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” [29, tr 33]. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và không ngừng hoàn thiện nội dung về quyền làm chủ của nhân dân cũng như cách thể hiện quyền làm chủ, trong đường lối lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt tiếp tục được thể hiện trong các bản Hiến pháp sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện về dân chủ. Có thể khẳng định về thực hiện quyền dân chủ, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở ở nước tangày càng được nâng cao nâng cao như một tất yếu khách quan trên con đường phát triển của nước ta. Bởi vậy, việc nhân dân tìm hiểu thế nào là dân chủ, làm thế nào để thực hiện dân chủ, làm thế nào để quyền dân chủ của họ không bị xâm phạm, được coi là nhu cầu chính đáng của người dân. Những điều này được thể hiện rõ nhất tại các kỳ họp Quốc hội, HĐND các cấp, tại các Hội nghị tiếp xúc cử tri, người dân đã thông qua những đại biểu dân cử chất vấn Quốc hội, chất vấn những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền và đặc biệt hơn là người dân đã thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo đối với những cá nhân, tổ chức được coi là vi phạm pháp luật. Đây có thể coi là bước tiến mới trong vấn đề dân chủ ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI (1986) của Đảng, mở đầu sự nghiệp đổi mới, thời điểm đánh dấu bước phát triển về chất trong tư duy của Đảng và cũng là thời điểm tổng kết kinh nghiệm 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc với vai trò lãnh đạo của Đảng, thứ nhất là “đổi mới phải lấy dân làm gốc”, mọi hành động, mục tiêu của Đảng lấy dân làm động lực đâe phát triển đồng thời giải thích rõ nội dung 16 của bài học kinh nghiệm đó để mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải luôn xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của đa số nhân dân lao động. Có thể thấy Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI (1986) của Đảng là kết quả của quá trình đúc kết các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn rất quý báu và kế thừa quan điểm của các kỳ đại hội trước…… Đúc kết từ những bài học king nghiệm của Đại Hội VI (1986) , Đại hội VII (1991) Đảng ta thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh nêu lên 5 bài học lớn, đặc biệt ở bài học thứ 2 Đảng ta nhấn mạnh “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”[19, tr.123]. Trong mô hình xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân làm chủ. Vì vậy “toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta là nhằm củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động” [28, tr.142], trong đó, việc xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, có khối liên minh công - nông - trí là nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo là một nhiệm vụ quan trọng. Nó chính là cơ chế đảm bảo và phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân lao động. Tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: "Xây dựng nền dân chủ XHCN là nội dung cơ bản đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước” [19, tr. 121]. Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 18/2/1998, về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ra đời từ tư tưởng của đường lối, Nghị quyết của Đại hội VII (1991).. Bộ Chính trị chỉ rõ phải ban hành Chỉ thị này là vì: "quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn 17 được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống” và "Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành QCDC ở cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện”. Cùng với việc đề ra phương hướng, chiến lược phát triển đất nước một cách toàn diện và lâu dài, Đại hội IX của Đảng (2001), Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới, Đảng ta đã coi sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh làm chủ của nhân dân là động lực chủ yếu để thực hiện thắng lợi mục tiêu “ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”, thể hiện sự kiên định và quyết tâm tiếp tục phát triển nền dân chủ XHCN trong tình hình mới. Đảng ta khẳng định “sự nghiệp đổi mới là vì lợi ích của nhân dân, do nhân dân thực hiện, do đó là sự nghiệp của chính nhân dân” [20, tr.81]. Ðáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ mới, Ðại hội X của Ðảng đã chỉ rõ: “Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối gắn bó giữa Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Ðảng. Mọi đường lối, chính sách của Ðảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”. Vậy việc mở rộng và phát huy dân chủ là xu hướng khách quan của tiến bộ xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi nước ta đang trong tiến trình hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế. Thực tiễn và lý luận đã khẳng định tính tất yếu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan