ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢƠNG THỊ UYÊN
Thực hiện pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm
qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢƠNG THỊ UYÊN
Thực hiện pháp luật về vệ sinh, an toàn thực
phẩm qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 8380101.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. MAI VĂN THẮNG
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lƣơng Thị Uyên
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM ............................................ 5
1.1.
Khái niệm thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ......... 5
1.1.1. Khái niệm về vệ sinh an toàn thực phẩm................................................ 5
1.1.2. Khái niệm pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm..................................... 8
1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm................... 10
1.2.
Các hình thức thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ....... 13
1.2.1. Tuân thủ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm ..................................... 13
1.2.2. Thi hành pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm ..................................... 14
1.2.3. Sử dụng pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm ...................................... 15
1.2.4. Áp dụng pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm ..................................... 16
1.3.
Đặc điểm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm ............. 18
1.4.
Các điều kiện đảm bảo việc thực hiện pháp luật vệ sinh an
toàn thực phẩm ................................................................................... 20
1.4.1. Yếu tố kinh tế ........................................................................................ 20
1.4.2. Yếu tố ý thức pháp luật và đạo đức của các chủ thể tham gia quan
hệ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm ................................................ 22
1.4.3. Yếu tố pháp luật .................................................................................... 23
1.4.4. Yếu tố hoạt động quản lý của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ......... 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 25
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM QUA THỰC
TIỄN TỈNH BẮC GIANG .................................................................... 26
2.1.
Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hƣởng đến thực
hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở tỉnh Bắc Giang ........... 26
2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên ................................................................. 26
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ...................................................................... 27
2.1.3. Đặc điểm văn hóa – đời sống................................................................ 29
2.2.
Thực trạng các quy định pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm của Việt Nam và tỉnh Bắc Giang ............................................ 30
2.2.1. Những quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm của
Việt Nam ............................................................................................... 30
2.2.2. Những quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở
tỉnh Bắc Giang ...................................................................................... 40
2.3.
Thực tiễn thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở
tỉnh Bắc Giang ..................................................................................... 44
2.3.1. Phân tích thực tiễn tuân thủ pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm ở tỉnh Bắc Giang ......................................................................... 44
2.3.2. Phân tích thực tiễn thi hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm ở tỉnh Bắc Giang ......................................................................... 49
2.3.3. Phân tích thực tiễn sử dụng pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm ở tỉnh Bắc Giang ......................................................................... 59
2.3.4. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm ở tỉnh Bắc Giang ......................................................................... 63
2.3.5. Thực tiễn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong phòng, chống
dịch Covid-19........................................................................................ 67
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 71
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VIỆC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM .......................72
3.1.
Quan điểm về thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm ở nƣớc ta hiên nay .................................................................... 72
3.2.
Giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu trong công tác đảm bảo
vệ sinh an toàn thực phẩm ................................................................. 73
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật trong công tác đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm ............................................................................................. 73
3.2.2. Giải pháp thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm
chung tại Việt Nam hiện nay ................................................................ 82
3.2.3. Giải pháp thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm cho
tỉnh Bắc Giang nói riêng ....................................................................... 88
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATTP:
An toàn thực phẩm
QCVN:
Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia
UBND:
Ủy ban nhân dân
VSATTP:
Vệ sinh an toàn thực phẩm
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề đƣợc Đảng, Nhà
nƣớc ta đặc biệt quan tâm, thƣờng xuyên chỉ đạo và đƣa ra các giải pháp để
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nƣớc về an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Thời gian qua báo chí, truyền thông đƣa tin hàng loạt vụ thực phẩm bẩn
không rõ nguồn gốc xuất xứ, những vụ ngộ độc thực phẩm, thực phẩm chứa
chất phụ gia cấm để chế biến, bảo quản thực phẩm; việc sử dụng hóa chất,
bảo vệ thực vật nhƣ thuốc trừ sâu, diệt cỏ, hóa chất kích thích tăng trƣởng và
thuốc bảo quản không đúng theo quy định, gây ô nhiễm nguồn nƣớc cũng nhƣ
tồn dƣ các hóa chất này trong thực phẩm. Các vụ vi phạm VSATTP phát hiện
thời gian gần đây cho thấy mức độ vi phạm đáng báo động. Đây là mối lo của
toàn xã hội, không chỉ ở thời điểm hiện tại mà còn ở tƣơng lai sắp tới.
Mặc dù nhà nƣớc đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trong đó có Luật
an toàn thực phẩm; Luật chất lƣợng sản phẩm, hàng hóa; Luật tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật; … cùng các chƣơng trình, công văn của hệ thống cơ quan
quản lý nhà nƣớc về an toàn thực phẩm từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Song
việc thực hiện pháp luật về VSATTP còn nhiều hạn chế, hành vi vi phạm về
VSATTP vẫn xảy ra, thậm chí ngày càng gia tăng ở Việt Nam nói chung và ở
tỉnh Bắc Giang nói riêng.
Thực trạng cho thấy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về
cơ sở lý luận và thực tiễn việc thực hiện pháp luật về VSATTP nhằm phân
tích và chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong hệ thống pháp luật vệ sinh an toàn
thực phẩm; việc thực hiện pháp luật về VSATTP, đồng thời đƣa ra các giải
pháp khắc phục những hạn chế, tồn tại đó, góp phần nâng cao hơn nữa ý thức
1
thực hiện pháp luật về VSATTP của ngƣời dân, bảo vệ, chăm sóc, nâng cao
sức khỏe của ngƣời dân trong tình hình hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn
nghiên cứu đề tài: “Thực hiện pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm qua
thực tiễn tỉnh Bắc Giang” là đề tài luận văn tốt nghiệp lớp Cao học Luật,
chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nƣớc và pháp luật là cần thiết, khách
quan trong giai đoạn hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tuy đóng vai trò rất quan
trọng, song pháp luật về an toàn thực phẩm ở nƣớc ta mới chỉ đƣợc quan tâm
đúng mức và bắt đầu có một số nghiên cứu quy mô trong thời gian gần đây
đƣợc thể hiện trong nhiều công trình khoa học công bố trên sách, báo, tạp chí
chuyên ngành và các luận văn thạc sỹ. Có thể nêu ra một số bài viết, công
trình nhƣ sau:
“Một số bệnh truyền qua thực phẩm”; “Điều tra vệ sinh An toàn thực
phẩm” – PGS.TS. Đỗ Thị Hà – Giảng viên chính Viện đào tạo Y học Dự phòng
và Y tế công cộng Cục VSATTP; “Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn
vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Hà Nội” (Luận văn Thạc sĩ Lê Thị Linh năm
2016, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội)… Bên cạnh đó còn có nhiều sách
chuyên khảo và bài viết đăng trên tạp chí điện tử: Quang Minh, (2015), “Tìm
hiểu về An toàn thực phẩm - Quy định mới về kiểm tra giám sát an toàn thực
phẩm và hướng dẫn quản lý, sử dụng phụ gia trong vệ sinh thực phẩm”, Nhà
xuất bản Lao động; Chủ biên Phạm Hải Vũ, Đào Thế Anh, (2016), “An toàn
thực phẩm nông sản”, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội; Như Phong, (2018),
“An toàn thực phẩm và trách nhiệm của doanh nghiệp”, Tạp chí Sức khỏe và
đời sống; Nguyễn Hạnh, (2018), “Đảm bảo vệ sinh An toàn thực phẩm – Cần sự
phối hợp đồng bộ của nhiều ngành”, VFA - Tạp chí điện tử chính thức của Cục
VSATTP… Cùng với đó là các Hội nghị tổng kết, báo cáo đƣợc tổ chức thƣờng
xuyên, gần đây nhất là Diễn đàn An toàn thực phẩm quốc tế lần thứ 7 do IFC 2
một thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới đƣợc tổ chức tại Thành phố Hồ
Chí Minh vào ngày 28 và 29/11 năm 2018 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, những công trình trên đã tập trung nghiên cứu một số quy
định của pháp luật về VSATTP, việc tổ chức thực hiện pháp luật về VSATTP,
phân tích, làm rõ những hạn chế, bất cập trong thực thi pháp luật về VSATTP.
Tuy nhiên cho đến nay chƣa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu
một cách cơ bản và có hệ thống việc thực hiện pháp luật về VSATTP qua thực
tiễn tỉnh Bắc Giang. Do đó, dƣới góc độ thực tiễn của việc thực hiện pháp luật
về VSATTP ở tỉnh Bắc Giang và dƣới góc độ khoa học, công trình này có ý
nghĩa góp phần hoàn thiện và triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật về
VSATTP, nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền địa phƣơng trong
công tác bảo đảm VSATTP, phục vụ cho sự nghiệp phát triển của tỉnh Bắc
Giang nói riêng và cả nƣớc nói chung.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Từ việc nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang, luận văn muốn đƣa ra những giải pháp,
khuyến nghị để khắc phục những hạn chế trong công tác thực hiện cũng nhƣ
hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm của tỉnh Bắc Giang nói riêng và cả nƣớc nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích và làm rõ cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về VSATTP
- Phân tích hệ thống quy định và cơ chế thực hiện pháp luật hiện hành về
VSATTP ở Việt Nam nói chung và Bắc Giang nói riêng
- Làm rõ các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về VSATTP ở
Bắc Giang
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật
trong lĩnh vực VSATTP ở Bắc Giang và chỉ ra những nguyên nhân của những
thành tựu và hạn chế
3
- Đƣa ra các giải pháp, khuyến nghị hoàn thiện pháp luật và thực hiện
pháp luật về VASTTP ở Bắc Giang nói riêng và cả nƣớc nói chung
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm, cơ sở khoa học của thực hiện pháp luật về VSATTP
- Hệ thống nguồn pháp luật, chính sách, đƣờng lối của Đảng và nhà
nƣớc về VSATTP
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về VSATTP
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Thực tiễn tại Tỉnh Bắc Giang, từ đó đƣa ra quan
điểm, nhận định, giải pháp về lĩnh vực thực hiện pháp luật VSATTP ở Việt
Nam hiện nay.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về
VSATTP qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2016 – 2019.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phƣơng pháp luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp
luận của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp thống kê,
phân tích, tổng hợp, kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các nội dung: Lời cam đoan, danh mục từ viết tắt, mục lục, mở đầu,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; nội dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về vệ sinh an
toàn thực phẩm qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao việc thực hiện pháp luật
về vệ sinh an toàn thực phẩm.
4
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm
1.1.1. Khái niệm về vệ sinh an toàn thực phẩm
Thực phẩm là nguồn cung cấp dinh dƣỡng hàng ngày cho cơ thể, giúp
cơ thể khoẻ mạnh, chống lại các nguy cơ của bệnh tật đang có mặt ở khắp nơi
trong môi trƣờng; giúp con ngƣời hoạt động và làm việc. Ngay từ khi có sự
xuất hiện của con ngƣời trên trái đất, con ngƣời đã biết lấy săn bắt động vật,
hái lƣợm hoa quả để ăn và duy trì sự sống. Khi con ngƣời phát triển hơn, biết
trồng trọt, chăn nuôi thì nhiều loại thực phẩm đã đƣợc ra đời để thỏa mãn nhu
cầu tiêu thụ thực phẩm của con ngƣời. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát
triển thì những thực phẩm tiện lợi hơn nhƣ: thực phẩm ăn liền, thực phẩm
đóng hộp, thực phẩm chức năng, ... đƣợc sử dụng rộng rãi bởi sự tiện ích,
nhanh gọn và dễ sử dụng.
Theo khái niệm mà các nhà khoa học đã đƣa ra thì thực phẩm là những
loại thức ăn mà con ngƣời có thể ăn và uống đƣợc để nuôi dƣỡng cơ thể. Thực
phẩm gồm ba nhóm chính đó là nhóm cacbohydrat (tinh bột), lipit (chất béo),
protein (chất đạm). Đây là những dƣỡng chất không thể thiếu để duy trì các
hoạt động sống của cơ thể [4]. Cách phân loại thực phẩm cũng nhƣ khái niệm
của nó hết sức đa dạng và không có tiêu chuẩn nào để đánh giá. Nhiều nơi
phân loại thực phẩm theo nguồn gốc của chúng nhƣ thực phẩm có nguồn gốc
động vật, thực phẩm có nguồn gốc thực vật. Đối với thực phẩm có nguồn gốc
động vật lại đƣợc chia thành trên cạn, dƣới nƣớc và trên trời. Thực phẩm có
nguồn gốc thực vật thì đƣợc chia thành rau, củ, quả, hạt, gia vị.
Theo định nghĩa của Luật an toàn thực phẩm năm 2010 đƣợc sửa đổi
5
bổ sung năm 2018 thì “Thực phẩm là các thức ăn, đồ uống của con người bên
dưới dạng tươi sống hay đã qua sơ chế, chế biến; gồm cả đồ uống, nhai ngậm
và những chất được dùng trong sản xuất, chế biến thực phẩm, không bao gồm
mỹ phẩm, thuốc lá và các chất được sử dụng như dược phẩm” [16, Điều 2]
Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ, các loại thực phẩm
cũng rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, vì những mục đích khác nhau, các
nhà sản xuất và kinh doanh thực phẩm sử dụng những biện pháp bảo quản,
kích thích tăng trƣởng không hợp lý làm thực phẩm trở nên không an toàn.
Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trở thành một đề tài nóng trong xã hội.
Khái niệm “An toàn thực phẩm” không còn là xa lạ đối với mỗi ngƣời
dân nhƣng không phải ai cũng hiểu rõ, chính xác và đầy đủ khái niệm này và
tầm quan trọng của nó đối với sức khỏe con ngƣời và sự phát triển kinh tế –
xã hội của một quốc gia. Mỗi loại thực phẩm đều có quy định riêng về
ngƣỡng an toàn và khi thực phẩm chứa những yếu tố nguy cơ đối với sức
khỏe con ngƣời thì gọi là thực phẩm không an toàn. Sử dụng các loại thực
phẩm vƣợt ngƣỡng an toàn, sức khỏe ngƣời tiêu dùng sẽ bị ảnh hƣởng, thậm
chí ảnh hƣởng đến tính mạng, ngộ độc thực phẩm và mầm mống gây ra căn
bệnh ung thƣ quái ác.
Theo định nghĩa của Tổ chức Lƣơng thực - Nông nghiệp thế giới (FAO),
VSATTP đƣợc định nghĩa “an toàn thực phẩm là việc bảo đảm thực phẩm không
gây hại cho ngƣời tiêu dùng khi nó đƣợc chế biến hoặc/và dùng theo mục đích
sử dụng của nó”. Theo định nghĩa này, VSATTP là hoạt động bảo đảm cho thực
phẩm không tác động xấu đến sức khỏe của ngƣời tiêu dùng cả khi chế biến và
sử dụng. Định nghĩa tuy đã thể hiện tính khái quát hóa nhƣng chƣa chỉ rõ đƣợc
tác động của thực phẩm không an toàn đối với ngƣời tiêu dùng, đó là gây hại gì
cho ngƣời tiêu dùng: sức khỏe, hay tính mạng, tinh thần, …?
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lƣơng thực – Nông
6
nghiệp thế giới (FAO) thì “An toàn thực phẩm là việc bảo đảm thực phẩm
không gây hại cho sức khỏe, tính mạng ngƣời sử dụng, bảo đảm thực phẩm
không bị hỏng, không chứa các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hoặc tạp
chất quá giới hạn cho phép, không phải là sản phẩm của động vật, thực vật bị
bệnh có thể gây hại cho sức khỏe ngƣời sử dụng” [7]. Đây là khái niệm khá
đầy đủ, tuy nhiên tính khái quát hóa chƣa cao.
Theo cách hiểu trực tiếp và cơ bản nhất, VSATTP là việc không để
thực phẩm có ảnh hƣởng, gậy hại lên sức khỏe con ngƣời. Theo giải thích tại
Luật an toàn thực phẩm năm 2010 đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2018, “an toàn
thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính
mạng con ngƣời” [3, Điều 2]. Đây là khái niệm khá khái quát khi nó chứa
đựng đầy đủ những nội dung cốt lõi của vấn đề về VSATTP. Theo khái niệm
này, VSATTP đƣợc hiểu là việc thực hiện những cách thức, biện pháp để bảo
đảm thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng của con ngƣời. Trong
luận văn, “an toàn thực phẩm” đƣợc định nghĩa là việc bảo đảm để thực phẩm
không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con ngƣời, định nghĩa này đồng nhất
với khái niệm về an toàn thực phẩm trong Luật ATTP năm 2010.
An toàn thực phẩm hay còn gọi là vệ sinh an toàn thực phẩm hiểu theo
nghĩa hẹp là một môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản
và lƣu trữ thực phẩm bằng những phƣơng pháp phòng ngừa, phòng chống
bệnh tật do thực phẩm gây ra. VSATTP cũng bao gồm một số thói quen, thao
tác trong khâu chế biến cần đƣợc thực hiện để tránh các nguy cơ gây ảnh
hƣởng xấu đến sức khỏe. Hiểu theo nghĩa rộng, VSATTP là tất cả điều kiện,
biện pháp cần thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển
cũng nhƣ sử dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại
cho sức khỏe, tính mạng ngƣời tiêu dùng. Vì vậy, VSATTP là công việc đòi hỏi
sự tham gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm nhƣ nông
nghiệp, thú ý, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế, ngƣời tiêu dùng.
7
Bảo đảm VSATTP có nghĩa là những hành động của con ngƣời nhằm
ngăn chặn các mối nguy, hạn chế và xử lý hậu quả do thực phẩm không an
toàn gây ra đối với con ngƣời, động thực vật. Cụ thể là: phòng ngừa các mối
nguy về an toàn và vệ sinh thực phẩm; kiểm tra, kiểm soát, xử lý các trƣờng
hợp vi phạm về VSATTP; và can thiệp để loại trừ hậu quả do thực phẩm gây
nên đối với con ngƣời, môi trƣờng và phát triển kinh tế - xã hội.
Nhƣ vậy, mục đích trực tiếp của việc bảo đảm VSATTP là bảo vệ sức
khỏe ngƣời tiêu dùng. Tuy nhiên, vấn đề VSATTP còn có ý nghĩa to lớn hơn
đó là vấn đề phát triển con ngƣời, vấn đề chất lƣợng cuộc sống, vấn đề công
bằng xã hội, vấn đề hội nhập quốc tế và văn hoá.
Trƣớc hết, xét về bình diện xã hội, VSATTP liên quan đến chất lƣợng
lao động của cả nền kinh tế hiện tại và tƣơng lai, duy trì và phát triển nòi giống
của dân tộc. Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập hiện nay VSATTP ảnh hƣởng
đến sức cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là những nƣớc đang phát triển mà
nguồn tích luỹ ban đầu dựa chủ yếu vào các nguồn lực tự nhiên. Các sản phẩm
nông nghiệp và thuỷ sản bảo đảm VSATTP là lợi thế cạnh tranh của các nƣớc
này trong thƣơng mại quốc tế, làm tăng khả năng tiếp cận thị trƣờng.
Thứ ba, bảo đảm VSATTP còn có vai trò quan trọng trong việc tạo môi
trƣờng thuận lợi thu hút ngoại lực nhƣ đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, du lịch,
nâng cao hình ảnh quốc gia trong con mắt của ngƣời nƣớc ngoài. Cuối cùng,
VSATTP còn liên quan đến các yếu tố văn hoá - xã hội. Văn hoá ẩm thực của
một vùng, một nƣớc là di sản vô cùng quý giá góp phần cho phát triển.
1.1.2. Khái niệm pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà
nƣớc ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân, đƣợc
nhà nƣớc đảm bảo thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục
đích bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của con ngƣời và sự phát triển bền
vững của xã hội [13].
8
Pháp luật về VSATTP là một phần trong hệ thống pháp luật của nhà
nƣớc để điều chỉnh các quan hệ VSATTP. Mục đích mà pháp luật VSATTP
hƣớng tới là bảo vệ sức khỏe, tính mạng và những lợi ích khác của ngƣời
tiêu dùng. Pháp luật VSATTP điều chỉnh mối quan hệ phát sinh trong chuỗi
cung ứng thực phẩm gồm: trồng trọt/chăn nuôi, thu hái/đánh bắt/khai thác,
sơ chế/chế biến, bao gói, bảo quản, vận chuyển, giới thiệu, buôn bán thực
phẩm. Nhƣ vậy, pháp luật VSATTP là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành
tập hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh giữa chủ thể trong quá trình các chủ thể trong chuỗi cung
ứng thực phẩm.
Đối tƣợng điều chỉnh của pháp luật VSATTP là các quan hệ xã hội phát
sinh trong qúa trình sản xuất, kinh doanh, phân phối và sử dụng thực phẩm.
Pháp luật VSATTP hƣớng tới chủ thể là các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng thực phẩm. Với phạm vi và đối tƣợng điều chỉnh nhƣ vậy,
có thể hiểu pháp luật VSATTP là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban
hành điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh và sử dụng thực phẩm của
các cá nhân, tổ chức với mục đích đảm bảo thực phẩm sạch sẽ, an toàn,
không gây hại cho sức khỏe và tính mạng của con người.
Nội dung chủ yếu của pháp luật trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm
bao gồm các nhóm quy định sau:
- Nhóm quy phạm quy định các hoạt động sản xuất thực phẩm nhƣ nuôi
trồng nông, lâm, thủy, hải sản, chế biến thực phẩm.
- Nhóm quy phạm quy định các hoạt động kinh doanh thực phẩm nhƣ:
vận chuyển, phân phối, xuất nhập khẩu thực phẩm.
- Nhóm quy phạm quy định việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng thực
phẩm và khắc phục sự cố khi có sự cố xảy ra.
- Nhóm quy phạm quy định hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm.
9
Pháp luật an toàn thực phẩm là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các cá nhân, tổ chức cũng nhƣ hoạt động quản lý của
nhà nƣớc trong lĩnh vực này.
Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm:
- Để điều chỉnh các hành vi trong các lĩnh vực đời sống xã hội rất cần có
các văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy pháp luật về an toàn thực
phẩm cũng là những quy tắc xử sự chung nằm trong khuôn khổ pháp luật.
- Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Pháp luật bảo
đảm an toàn thực phẩm vừa có những vai trò của pháp luật nói chung vừa có
những vai trò riêng của nó. Đó là những quy phạm pháp luật quy định về cơ
cấu tổ chức của các cơ quan nhà nƣớc trong lĩnh vực này, là cơ sở pháp lý cho
công tác kiểm tra giám sát an toàn thực phẩm trên địa bàn cả nƣớc,… Nó
đƣợc thể hiện nhƣ sau:
Thứ nhất, là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quy định hệ thống và
hoạt động của các cơ quan làm nhiệm vụ chức năng trong việc bảo đảm an
toàn thực phẩm trong cả nƣớc từ địa phƣơng đến trung ƣơng.
Thứ hai, là khuôn mẫu cho việc điều chỉnh các hành vi, các quan hệ xã
hội để bảo đảm an toàn thực phẩm. Pháp luật VSATTP là cơ sở để cho mọi
ngƣời biết mình đƣợc làm gì, không đƣợc làm gì, phải làm gì để giữ gìn an
toàn thực phẩm trong qúa trình sản xuất.
Thứ ba, là cơ sở cho việc thanh tra, giám sát, quản lý, xử lý các vi
phạm trong lĩnh vực này của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Từ đó góp
phần làm cho an toàn thực phẩm đƣợc nâng cao, ngăn chặn và đẩy lùi mọi
hành vi làm mất an toàn thực phẩm.
Thứ tư, là cơ sở pháp lý cho mọi ngƣời dân đƣợc kiểm tra, giám sát các
hành vi trái pháp luật, làm mất an toàn thực phẩm.
1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Ban hành pháp luật Nhà nƣớc mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh
10
các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của nhà nƣớc và xã hội. Điều
đó chỉ có thể đạt đƣợc khi các quy phạm pháp luật do Nhà nƣớc đặt ra đƣợc
các tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Do
vậy, vấn đề không phải chỉ là ban hành thật nhiều các văn bản pháp luật, điều
quan trọng là phải thực hiện pháp luật, làm cho những yêu cầu, quy định của
chúng trở thành hiện thực. Những quy phạm pháp luật chứa đựng trong các
văn bản do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành sẽ hoàn toàn mất
hết ý nghĩa nếu nó không đƣợc thực hiện, nghĩa là không đi vào đời sống
bằng hành vi của các chủ thể pháp luật. Thực hiện pháp luật là hành vi (hành
động hoặc không hành động) của con ngƣời phù hợp với những quy định của
pháp luật. Tất cả những hoạt động nào của con ngƣời, của tổ chức mà thực
hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì đều đƣợc coi là biểu hiện của sự
việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật.
Thực hiện pháp luật không chỉ là không vi phạm pháp luật, không làm
điều pháp luật cấm. Thực hiện pháp luật còn đƣợc thể hiện ở những hành vi
sử dụng pháp luật, ở tính tích cực pháp luật của mỗi cá nhân, tổ chức, ở việc
chấp hành các nghĩa vụ pháp lý của họ trong cuộc sống. Pháp luật chỉ có thể
phát huy vai trò và những giá trị của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi quy phạm pháp
luật đƣợc tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh trong cuộc sống.
Theo định nghĩa tại Giáo trình lý luận nhà nƣớc và pháp luật của Đại
học Luật Hà Nội thì “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục
đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể” [6, tr.228]
Giáo trình Nhà nƣớc và Pháp luật đại cƣơng của Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội cũng định nghĩa “Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt
động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện
các quy định pháp luật trong thực tế đời sống” [12, tr.121]
11
Theo đó bản chất của việc thực hiện pháp luật là sự chuyển hóa các yêu
cầu của pháp luật bao gồm các quy phạm pháp luật và các nguyên tắc pháp
luật vào trong hành vi cụ thể của các chủ thể. Phạm trù thực hiện pháp luật
cho biết, bằng những cách thức nào để các chủ thể pháp luật thực hiện các
quy định pháp luật, những yếu tố tác động và điều kiện bảo đảm cho pháp luật
đƣợc thực hiện.
Thực hiện pháp luật bao gồm bốn hình thức thực hiện:
- Tuân thủ pháp luật là việc các chủ thể thực hiện pháp luật không thực
hiện các hành vi xử sự mà pháp luật cấm.
- Thi hành pháp luật là việc các chủ thể thực hiện pháp luật chủ động
thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
- Sử dụng pháp luật là việc các chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện
các quyền của mình do pháp luật quy định.
- Áp dụng pháp luật là việc các cơ quan nhà nƣớc, cán bộ, công chức
nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do
pháp luật quy định.
Pháp luật VSATTP thuộc hệ thống pháp pháp luật của nhà nƣớc, là hệ
thống các quy tắc xử sự do nhà nƣớc ban hành điều chỉnh hoạt động sản xuất,
kinh doanh và sử dụng thực phẩm của các cá nhân, tổ chức với mục đích đảm
bảo thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức khỏe và tính mạng của
con ngƣời. Theo đó, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực
phẩm là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp
luật về VSATTP đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp
của các cá nhân, tổ chức, cơ quan.
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực VSATTP cũng bao gồm bốn hình
thức thực hiện là tuân thủ pháp luật VSATTP; thi hành pháp luật VSATTP;
sử dụng pháp luật VSATTP; áp dụng pháp luật VSATTP.
12
1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm
1.2.1. Tuân thủ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật. Giáo trình Lý
luận nhà nƣớc và pháp luật của Giáo sƣ Tiến sĩ Hoàng Thị Kim Quế, đinh nghĩa
tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn cấm [15].
Cũng là một trong những biểu hiện của việc tuân thủ pháp luật, tuân thủ
pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm là một hình thức thực hiện pháp luật an
toàn vệ sinh thực phẩm. Theo đó, các chủ thể thực hiện pháp luật không tiến
hành những hành vi mà pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm ngăn cấm.
Các chủ thể pháp luật VSATTP kiềm chế không làm những điều mà
pháp luật VSATTP có quy định cấm, tức là họ đã tuân thủ đúng các quy phạm
pháp luật VSATTP mang tính chất ngăn cấm thực hiện những hành vi nhất
định. Chẳng hạn không thực hiện hành vi tội phạm về VSATTP đƣợc quy
định trong Bộ luật Hình sự hay không gây ra những hành vi bị cấm đƣợc quy
định trong Luật An toàn thực phẩm ... . Tuân thủ pháp luật VSATTP là một
dạng thức của hành vi hợp pháp.
Ví dụ: Điều 5 Luật An toàn thực phẩm năm 2010 có quy định các hành
vi bị cấm nhƣ sau:
- Sử dụng nguyên liệu không thuộc loại dùng cho thực phẩm để chế
biến thực phẩm
- Sử dụng nguyên liệu thực phẩm đã quá thời hạn sử dụng, không rõ
nguồn gốc, xuất xứ hoặc không bảo đảm an toàn để sản xuất, chế
biến thực phẩm.
- Sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm đã
quá thời hạn sử dụng, ngoài danh mục đƣợc phép sử dụng hoặc
trong danh mục đƣợc phép sử dụng nhƣng vƣợt quá giới hạn cho
13
- Xem thêm -