Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố đà nẵng...

Tài liệu Thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố đà nẵng

.PDF
95
144
73

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC ANH TUẤN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC ANH TUẤN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật hiến pháp và Luật hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN LINH GIANG HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Qua thời gian học tập tại Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề về tôn giáo và tình hình thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng tôi đã lựa chọn và hoàn thành Luận văn Thạc sỹ với đề tài “Thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”. Để hoàn thành Luận văn này, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến: Ban Giám hiệu Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; các Giáo sư, phó Giáo sư, tiến sỹ trong Viện đã tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại Học Viện, Đặc biệt, tôi cũng xin được gửi lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS Nguyễn Linh Giang đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thiện Luận văn này Tôi cũng xin được cảm ơn Hòa thượng Thích Thiện Toàn, Thượng tọa Thích Từ Nghiêm, các bạn bè và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua. Tác giả luận văn Nguyễn Ngọc Anh Tuấn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Ngọc Anh Tuấn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀTỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO.................................................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ................7 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ............................................................................................................................10 1.3. Nội dung, hình thức, phương pháp thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ............................................................................................................................15 1.4. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo........21 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .....................................29 2.1. Quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo........................................................................................................29 2.2. Các yếu tố đặc thù của thành phố Đà Nẵng có ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo .............................................................................40 2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng ..........................................................................................................................54 CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .......................................................................................69 3.1. Dự báo tình hình .................................................................................................69 3.2. Quan điểm tăng cường thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng ....................................................................................71 3.3. Giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.............................................................................................72 KẾT LUẬN ..............................................................................................................84 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BCĐ : Ban chỉ đạo BNV : Bộ Nội vụ BTG : Ban Tôn giáo CNXH : Chủ Nghĩa Xã Hội T98 : Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo thành phố Đà Nẵng SNV : Sở Nội vụ MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em và mỗi dân tộc lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Thực tế cho thấy, các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo vừa thể hiện nhu cầu về tinh thần của nhân dân, vừa đóng góp nhiều giá trị đạo đức, văn hóa cho xã hội. Lịch sử Việt Nam cho thấy, nhiều tín ngưỡng, tôn giáo đã đồng hành cùng dân tộc trong các phong trào đấu tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, coi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền con người, quyền công dân căn bản cần được thúc đẩy và bảo vệ. Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương và được xem là một trong những thành phố năng động, đáng sống bậc nhất của Việt Nam. Đây cũng là nơi có điều kiện thuận lợi để du nhập và phát triển các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Trong những năm qua, các hoạt động tôn giáo của các tổ chức tôn giáo cơ sở diễn ra ổn định, thuần túy tôn giáo, gắn với sự phát triển chung của thành phố, tuân thủ pháp luật và thực hiện đúng phương châm hành đạo. Tuy nhiên, xuất phát từ vị trí kinh tế, văn hóa – xã hội đặc thù, Đà Nẵng cũng là địa bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch trong âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta nói chung, thành phố nói riêng. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định như: Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo có lúc, có nơi chưa thực sự đồng bộ, kịp thời; nhận thức của một bộ phận người dân, tổ chức tôn giáo, cán bộ, công chức, viên chức vẫn còn hạn chế; các cơ quan quản lý còn thiếu gần gũi với tín đồ và chức sắc tôn giáo, nên không kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng chính đáng của đồng bào. Vẫn còn tình trạng cán bộ nhà nước không nắm vững tình hình tôn giáo ở địa bàn, chưa dựa vào tổ chức tôn giáo và chức sắc tôn giáo ở cơ sở để giải quyết những vấn đề phát sinh có liên quan đến tôn giáo. Một số nơi, cơ quan quản lý nhà nước chưa hiểu đầy đủ do thiếu thông 1 tin và thiếu tầm nhìn bao quát về chính sách tôn giáo, dẫn đến tình trạng xử lý các vấn đề máy móc, cảm tính chủ quan. Nhiều vấn đề lẽ ra cần phải động viên khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho chức sắc, nhà tu hành hoạt động thì lại gây khó dễ; ngược lại có những vấn đề cần phải chủ động giải quyết kịp thời thì bỏ mặc, tạo nên sự phức tạp không đáng có. Trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và cán bộ được giao theo dõi quản lý hoạt động tôn giáo nói riêng còn hạn chế, thiếu tính hệ thống, thiếu chuyên môn nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm trong công tác tôn giáo; công tác đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về tôn giáo cũng chưa được chú trọng đúng mức. Còn chưa có sự thống nhất trong cách xử lý một số vụ việc cụ thể liên quan đến tôn giáo; công tác quản lý nhà nước hiện tập trung nhiều vào các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận. Việc ngăn chặn, đấu tranh với các tôn giáo không hợp pháp và những hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật còn bị động, tại nhiều thời điểm chưa khôn khéo, kịp thời. Tiến độ giải quyết các thủ tục hành chính về lĩnh vực tôn giáo có lúc còn chậm; việc phối hợp các cấp, các ngành xử lý các vấn đề nảy sinh trong tôn giáo, liên quan đến các hoạt động đối nội, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, xã hội còn thiếu đồng bộ. Công tác xử lý vi phạm về hoạt động tôn giáo trái với quy định pháp luật đang gặp khó khăn, vướng mắc do hiện nay chưa có chế tài cụ thể, thời gian qua chỉ dừng lại việc lập biên bản, giải tán... Thực tế trên đã cho thấy, việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng ở thành phố Đà Nẵng vẫn còn nhiều bất cập, cần được hoàn thiện trong thời gian tới. Do vậy, tác giả chọn đề tài: "Thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng" để làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Luật hành chính của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ năm 1999 đến nay, có nhiều công trình, nhiều bài viết về tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chẳng hạn như bài viết “Cơ sở lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của Nguyễn Ngọc Huấn, Tạp chí Thanh tra, số 11/2015; "Hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới" của Lê Văn 2 Lợi, Tạp chí Quản lý nhà nước,số 4/2014; "Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo" của Nguyễn Hoài Sanh, Tạp chí Triết học,số 8/2012; "Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Luận văn thạc sĩ luật học" của Nguyễn Thị Diệu Thuý thực hiện tại cơ sở đào tạo Đại học Luật Hà Nội năm 2010… Ở góc độ quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, có một số Luận văn đã nghiên cứu như “Thực trạng tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Cà Mau” của Vũ Bình Lương thực hiện tại cơ sở đào tạo Đại học Chính trị năm 2003; “Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa” của Lê Văn Nhuần thực hiện tại cơ sở đào tạo Đại học Chính trị năm 2004); “Nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của Nguyễn Thị Kim Như thực hiện tại cơ sở đào tạo Đại học Chính trị năm 2004); Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa - Thực trạng và giải pháp" của Lê Văn Nhuần thực hiện tại cơ sở đào tạo Đại học Chính trị năm 2004; “Vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động của Đạo Công giáo ở Ninh Bình hiện nay” của Vũ Tuệ Minh thực hiện tại cơ sở đào tạo Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013… Các công trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, đặt vấn đề thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở từng lĩnh vực, từng địa phương khác nhau và có những nhận định, đánh giá sâu sắc, cụ thể về thực trạng thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, từ đó có những kiến nghị, đề xuất hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này trên thực tế. Những thông tin từ các công trình nghiên cứu này sẽ là nguồn tư liệu phong phú để tham khảo, chọn lọc để đưa vào Luận văn Thạc sỹ của Tác giả lần này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; đánh giá thực trạng và những yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, từ đó đề xuất 3 một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nội dung, hình thức, phương pháp thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. - Phân tích quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các yếu tố đặc thù của thành phố Đà Nẵng có ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng, trong đó chỉ ra được những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng, từ đó nêu rõ nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu Các tôn giáo đang hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và việc thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Trong phạm vi của Luận văn, tác giả nghiên cứu và đề cập đến vấn đề thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. - Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. - Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ khi có Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa IX về Công tác tôn giáo từ năm 2003 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu. 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – 4 Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về Nhà nước và Pháp luật về tự do tín ngưỡng về tôn giáo. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: - Phương pháp phân tích, tổng hợp; - Phương pháp thống kê, so sánh; - Phương pháp tiếp cận hệ thống; - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm; 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của Luận văn - Kết quả của Luận văn góp phần củng cố hệ thống lý luận về thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như vấn đề về khái niệm, đặc điểm, tính chất của các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nội dung, hình thức, phương pháp thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo - Luận văn nêu, phân tích quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các yếu tố đặc thù của thành phố Đà Nẵng có ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đánh giá về thực tiễn thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng, trong đó chỉ ra được những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế trong thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng, từ đó nêu rõ nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục. 6.1. Ý nghĩa và thực tiễn của Luận văn - Những đề xuất của Luận văn là luận cứ khoa học cho việc ứng dụng trong thực tiễn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng. 5 - Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác nghiên cứu cũng như công tác tổng kết thực tiễn, hoạch định chính sách và pháp luật về quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung và ở thành phố Đà Nẵng nói riêng. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, dự kiến Luận văn được cấu trúc gồm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại thành phố Đà Nẵng Chương 3. Quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng 6 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ DO TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO 1.1. Khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo 1.1.1. Khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo Theo Từ điển Luật học (Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp - Nhà Xuất bản Tư pháp, Nhà Xuất bản từ điển Bách khoa), “quyền” là khái niệm khoa học pháp lí, dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng động người trong lịch sử hàng ngàn năm qua. Về cơ bản, bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó cũng đều bao gồm hai bộ phận cấu thành là ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo với những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó. Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử cụ thể, xác định. Về bản chất, tôn giáo thể hiện tâm tư, nguyện vọng của con người trước tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, trong ý thức tôn giáo chứa đựng giá trị đạo đức, đạo lý con người. Trong lịch sử xã hội loài người, tôn giáo xuất hiện từ rất sớm. Nó hoàn thiện và biến đổi cùng với sự biến đổi của những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, chính trị. Tôn giáo ra đời bởi nhiều nguồn gốc khác nhau, nhưng cơ bản là từ các nguồn gốc kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lý. Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo là tín ngưỡng mang tính dân tộc nhiều hơn tôn giáo; tín ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo. Khi đề cập đến khái niệm tín ngưỡng, người ta thường nói đến tín 7 ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nhất định thì có thể sẽ phát triển thành tôn giáo. Ở góc độ pháp lý, tín ngưỡng được định nghĩa là “niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng” (Khoản 1 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo); còn tôn giáo là “niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức” (Khoản 5 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo). Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 của Liên Hợp Quốc là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên ghi nhận quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, trong đó tập trung chủ yếu vào việc cấm phân biệt đối xử về tôn giáo. Theo Điều 18 của Tuyên ngôn: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm (conscience), và tôn giáo; quyền này bao gồm cả tự do thay đổi tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình, và tự do bày tỏ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình bằng các hình thức truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, theo hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc riêng tư”. Quy định trên sau đó được khẳng định và cụ thể hóa trong Điều 18 và Điều 20 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR). Khoản 2 Điều 18 Công ước này quy định: “Không ai phải chịu ép buộc dẫn đến làm tổn hại quyền tự do lựa chọn có hoặc tin theo tôn giáo hay tín ngưỡng của họ”. Khoản 3 Điều 18 xác định quyền này có thể bị giới hạn bởi luật khi cần thiết để “bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xã hội, hoặc các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Khoản 4 Điều 18 yêu cầu các quốc gia thành viên ICCPR phải tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ hoặc những người giám hộ hợp pháp “để đảm bảo việc giáo dục về đạo 8 đức và tôn giáo của con cái họ phù hợp với ý nguyện riêng của họ”. Khoản 2 Điều 20 nghiêm cấm mọi hành động cổ vũ hằn thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo dẫn đến kích động phân biệt đối xử và bạo lực. Một số khía cạnh liên quan đến nội dung Điều 18 ICCPR sau đó được Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc làm rõ thêm trong Bình luận chung số 22 (được thông qua tại phiên họp lần thứ 48 của Ủy ban năm 1993), với một số nội dung chính như: giải thích về các quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tín ngưỡng; về thuật ngữ “tín ngưỡng” và “tôn giáo”; phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng; về việc không cho phép áp đặt bất kỳ sự giới hạn nào đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm; nghiêm cấm các hành vi lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để kích động chiến tranh, cổ vũ hận thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, hay kích động sự phân biệt đối xử, thù địch hoặc bạo lực; về việc hạn chế quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng… Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong hệ thống pháp luật của mình. Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháptừ năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013.Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được kế thừa và phát triển, trở thành một trong những quyền cơ bản của con người. Bên cạnh đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được ghi nhận cụ thể ở Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và trong các văn bản quy phạm pháp luật khác. Từ những phân tích trên, có thể hiểu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền được theo đuổi, thực hiện các hành vi tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân, cộng đồng một cách tự do. Quyền này cũng bao hàm cả ý nghĩa tự do thay đổi, theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó. 1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền nhân thân nên nó mang các đặc điểm chung của quyền nhân thân. Cụ thể: Thứ nhất, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền dân sự gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể khác và không thể là đối tượng trong các 9 giao dịch dân sự giữa các cá nhân. Thứ hai, mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ ba, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền mang tính chất phi tài sản, theo đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là tài sản và không định giá được thành tiền. Thứ tư, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền dân sự, thường được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành. Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận cả ở trong Hiến pháp (văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật) và ở Luật tín ngưỡng, tôn giáo cùng các văn bản dưới luật. Ở Việt Nam, nghĩa vụ bảo đảm và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước được thể hiện ở các khía cạnh: Thứ nhất, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước tôn trọng, bảo đảm và thực hiện nhằm xóa bỏ mọi sự phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo; các tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật; mọi hành vi vi phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều bị xử lý theo quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi. Thứ hai, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được Nhà nước bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật. Các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ quy định của pháp luật; nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, chống phá Đảng và Nhà nước. Thứ ba, Nhà nước không ngừng giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tự do tín ngƣỡng, tôn giáo 1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục tiêu, 10 định hướng cụ thể [17, tr.18]. Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, thực hiện pháp luật là giai đoạn thứ hai sau khi đã tiến hành giai đoạn xây dựng pháp luật và là giai đoạn hết sức quan trọng. Thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp luật xuất hiện bởi pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh trong cuộc sống. Thực hiện pháp luật trước hết là một trong những hình thức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước được thể hiện bằng hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Tuy nhiên, thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau thì sẽ tiến hành với nhiều cách thức khác nhau, vì thế, bằng cách quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định, Nhà nước có thể tác động lên các quan hệ xã hội, điều chỉnh chúng theo chiều hướng Nhà nước mong muốn. Do đó, pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi hay xử sự của con người mà không thể điều chỉnh suy nghĩ hay tư tưởng của họ, bởi vì, không ai có thể “đọc” được hay dự đoán được chính xác ý nghĩ của người khác khi nó đang tồn tại trong đầu họ, tức là khi nó chưa được thể hiện ra bên ngoài thành những hành vi hay xử sự cụ thể để mà điều chỉnh. Vì lý do này mà chỉ có thể căn cứ vào hành vi xác định hay xử sự thực tế của một chủ thể nào đó rồi đối chiếu với các quy định cụ thể của pháp luật mà ta có thể xác định được là họ có thực hiện pháp luật hay không. Thực hiện pháp luật là quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể pháp luật khác, khi gặp phải tình huống thực tế mà quy phạm pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận thức của mình chuyển hóa một cách sáng tạo quy tắc xử sự chung mà Nhà nước đã quy định vào tình huống cụ thể thông qua hành vi thực tế hợp pháp của mình [47, tr.183]. “Dưới góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật được hiểu là hành vi pháp luật (hành động hoặc không hành động) hợp pháp, nghĩa là nó được tiến hành phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi trong phạm vi các quy định của pháp luật” [47, tr.183]. Tóm lại, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật [47, tr.185]. 11 Trên cơ sở khái niệm chung nhất về pháp luật và thực hiện pháp luật, chúng ta có thể xác định nội hàm cơ bản của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được hiểu là tổng thể các quy định của pháp luật (quy phạm pháp luật) do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền được thực hiện các hành vi tôn giáo, theo đuổi tín ngưỡng của một cá nhân một cách tự do đi theo đúng mục tiêu, định hướng của Nhà nước đặt ra. Còn thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. 1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo Thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nghĩa vụ của tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân; mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đối với Nhà nước, thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những hình thức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, đặc biệt là hai chức năng cơ bản của Nhà nước là quản lý và phục vụ. Còn đối với các tổ chức phi nhà nước và cá nhân, thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là hoạt động sử dụng quyền, tự do pháp lý và thi hành các nghĩa vụ pháp lý về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà pháp luật quy định cho họ. Thứ hai, thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Do vậy, đây là quá trình hoạt động có lý trí và có ý chí của các chủ thể pháp luật, làm cho những quy định của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi vào cuộc sống nhằm đạt được những mục đích nhất định vì lợi ích của 12 mỗi thành viên, cũng như của cả cộng đồng xã hội. Thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật thực định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và cơ chế thực thi, đưa pháp luật vào cuộc sống. Pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện nghêm minh sẽ tạo ra và duy trì trật tự để các quan hệ xã hội về tín ngưỡng, tôn giáo tồn tại, phát triển theo những định hướng mong muốn, có lợi cho xã hội, cho Nhà nước và cho các tổ chức, cá nhân. Thứ ba, thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tiến hành thông qua nhiều hình thức, quy trình khác nhau như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Tùy vào tính chất của các quy phạm pháp luật mà việc thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có thể được thực hiện thông qua những quy trình khác nhau. Quy trình đó có thể là đơn giản với sự tham gia của một hoặc một số cơ quan, tổ chức, cá nhân nhất định theo những trình tự, thủ tục đơn giản, nhưng quy trình đó cũng có thể phức tạp với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định. 1.2.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo Vai trò của thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau đây: Thứ nhất, giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Về nguyên tắc, để thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì trước hết các chủ thể pháp luật phải nhận thức đúng đắn, hiểu biết đầy đủ về các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Các quy định của pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo chính là sự cụ thể hóa các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thông qua việc thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có điều kiện thuận lợi để nhận thức và nắm được các quyền của mình, hiểu được các nguyên tắc cơ bản, hình thức thực hiện các quyền cũng như các hành vi bị nghiêm cấm. Nếu không triển khai 13 thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì có thể nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân sẽ không biết đến các quyền mà pháp luật trao cho họ. Thứ hai, thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo sẽ giúp các chủ thể hiểu rõ bản chất, tầm quan trọng của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện các quyền này. Khi nhận thức đúng đắn, hiểu biết đầy đủ về các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật, các chủ thể vẫn có thể chưa chủ động, tích cực thực hiện các quyền đó, nếu họ chưa hiểu rõ bản chất, tầm quan trọng của việc thực thi các quyền tự to tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ ba, từ sự nhận thức, hiểu biết về vai trò, ý nghĩa cũng như các quy định của pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các chủ thể sẽ chủ động, tích cực hơn trong việc tuân thủ, thi hành, chấp hành và sử dụng pháp luật để bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Đi từ nhận thức đến hành động thực tiễn, chuyển từ “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động” là logic biện chứng của quá trình triển khai hoạt động thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Đồng thời, đây cũng là mục tiêu của thực hiện pháp luật trên lĩnh vực này, bởi lẽ, việc các chủ thể hiểu, tuân thủ, thi hành, chấp hành và biết sử dụng pháp luật để bảo bệ cho lợi ích của các chủ thể là điều mà Nhà nước mong muốn khi ban hành pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ tư, khi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm thì quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng được bảo đảm. Việc thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo sẽ góp phần quan trọng trong việc hiện thực hóa các quy định của pháp luật, đưa các quy định của pháp luật vào cuộc sống, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tạo sự đồng thuận xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội nói chung. Đây được coi là kết quả của hoạt động thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ năm, thực hiện pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo là động lực, công cụ để xác định định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật. Theo đó, thông qua thực 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan