Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp từ thực tiễn tỉnh cao bằng...

Tài liệu Thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp từ thực tiễn tỉnh cao bằng

.DOC
100
32
62

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN THUẦN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG Ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của GS. TS Võ Khánh Vinh. Các tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Hà Nội, ngày 30 tháng 8 năm 2020 Học viên Nguyễn Văn Thuần MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP............................................10 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp..........................................................................................................10 1.2. Các hình thức và nội dung của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp...................................................................................................................15 1.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp .. 30 Kết luận chương 1.................................................................................................32 Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP, KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TẠI TỈNH CAO BẰNG..............................................................33 2.1. Hoạt động tư pháp tại Việt Nam.................................................................... 33 2.2. Kiểm sát hoạt động tư pháp............................................................................35 2.3. Quy định của pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp................................. 38 2.4.Thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp tại tỉnh Cao Bằng………………………………………………………………………….46 2.5. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Cao Bằng………………………….54 Kết luận chương 2.................................................................................................66 Chương 3. CÁC QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG.........67 3.1. Các quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp....................................................................................................................... 67 3.2. Các giải pháp nâng cao thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp . 80 Kết luận chương 3.................................................................................................90 KẾT LUẬN..........................................................................................................91 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT VKSND Viện kiểm sát nhân dân KSND Kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao KSV Kiểm sát viên Nxb Nhà xuất bản VKS Viện kiểm sát THPL Thực hiện pháp luật CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự TTHC Tố tụng hành chính GRDP Tốc độ tăng trưởng kinh tế UBND Ủy ban nhân dân BLHS Bộ luật hình sự KSĐT Kiếm sát điều tra MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm: (a) Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật; (b) Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; (c) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm 1 chỉnh; (đ) Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự, kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lí và giáo dục người chấp hành án phạt tủ, tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu. Các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân phải được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật. Qua thực tiễn hoạt động của VKSND nói chung và VKSND tỉnh Cao Bằng nói riêng, cho thấy rằng, thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng hoạt động kiểm sát được nâng cao, từ đó đảm bảo được pháp luật được thực thi triệt để trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức và Nhà nước. Đối với địa bàn tỉnh Cao Bằng, là một địa phương có nhiều nét đặc thù về văn hóa, kinh tế, xã hội nên vai trò của VKSND trong việc đảm bảo pháp luật được thực thi là rất quan trọng, đó không chỉ là tăng cường pháp chế mà chính là sự hỗ trợ quan trọng và cấp thiết để tạo nên một xã hội ổn định, một môi trường lành mạnh 2 để phát triển kinh tế. Trong thời gian qua, được sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương và sự lãnh đạo của Viện KSND tối cao, VKSND tỉnh Cao Bằng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp, tuy nhiên, so với những yêu cầu đặt ra trong nhà nước pháp quyền XHCN về vị trí, vai trò của VKSND trong việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền công dân, quyền con người và bảo đảm quyền tự do, dân chủ xã hội chủ nghĩa thì VKSND cần phải tiếp tục được cải cách một cách mạnh mẽ, toàn diện từ nhận thức, vấn đề pháp lý, đến nguồn lực vật chất để phục vụ cho công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Cao Bằng. Từ những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp từ thực tiễn tỉnh Cao bằng” làm đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn là thông qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận và thực hiện pháp luật tại tỉnh Cao Bằng. Qua đó, đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao việc thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt đông tư pháp tại tỉnh Cao Bằng nói riêng và ở Việt Nam nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp đang được đặt ra và là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp, chỉ có các công trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong hoạt động tư pháp nói chung và áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói riêng, hoặc các nghiên cứu về thực hiện pháp luật trong một lĩnh vực cụ thể như thực hiện pháp luật về các biện pháp điều tra, thực hiện pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự, dân sự, thi hành án dân sự. Các nghiên cứu này đã được thể hiện trong nhiều công trình khoa học được công bố trên sách, 3 báo, tạp chí chuyên ngành và các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dậy môn pháp luật, phần lớn đã tập trung làm rõ được các vấn đề lý luận và pháp lý có liên quan. Có thể nêu ra như sau: Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật ( Đại học Luật Hà Nội); Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (Viện Nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia HCM). Sổ tay kiểm sát viên hình sự của Viện khoa học kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Nxb Văn hóa dân tộc (2006). Nguyễn Đức Thanh: "áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc sử dụng các biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự Việt Nam", luận văn thạc sĩ luật học (2004). Nguyễn Văn Đồng: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội", luận văn thạc sĩ luật học (2003). Vũ Viết Tuấn: "Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh", luận văn thạc sĩ luật học (2006). Bùi Mạnh Cường: "áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", luận văn thạc sĩ luật học (2007). Nguyễn Minh Đồng: "áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh", luận văn thạc sĩ luật học (2007). Tạ Văn Hồ: "áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự đối với các tội phạm về chức vụ ở Việt Nam hiện nay", luận văn Thạc sĩ luật học (2007). Hà Văn Khanh: "áp dụng pháp luật trong quản lý hành chính Nhà nước về đất đai ở Thành phố Hà Nội", luận văn Thạc sĩ luật học (2007). Trần Minh Tạo: "áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu", luận văn Thạc sĩ luật học (2008). Đỗ Văn Chính: "Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng pháp luật trong công tác xét xử", Tạp chí Tòa án, tháng 3/2000. Nguyễn Văn 4 Nhật: "Khám nghiệm hiện trường trong hoạt động kiểm sát điều tra hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005. Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội (2006). Chu Thị Trang Vân: "Đặc trưng của áp dụng pháp luật hình sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2006. Bùi Đức Tiến: “Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam” - Luận án Tiến sỹ năm 2018 - Học viện Chính trị quốc gia HCM. Vũ Thị Nhiên: “ Thực hiện pháp luật kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự”-Luận văn Thạc sỹ năm 2017- Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề chung của thực hiện pháp luật; thực hiện pháp luật về hoạt đông tư pháp hình sự, dân sự, hành chính, thi hành án và những công trình nghiên cứu về vấn đề mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của thực hiện pháp luật về hoạt đông tư pháp. Nhưng đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu dưới góc độ lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt đông tư pháp, lý giải các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, đề ra các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp nói chung và ở tỉnh Cao Bằng nói riêng. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và những hiểu biết của mình, tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý luận, nội dung thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp và thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, đưa ra một số giải pháp đảm bảo hiệu lực các văn bản pháp luật đã ban hành trong lĩnh vực hoạt động tư pháp hình sự, dân sự, hành chính, thi hành án, đáp ứng vấn đề cấp bách của thực tiễn công tác kiểm sát hoạt động tư pháp ở địa phương mình. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh Cao Bằng, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong tác này, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Nêu và phân tích khái niệm về hoạt động tư pháp, các cơ quan hoạt đông tư pháp; - Phân tích cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp; - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh Cao Bằng hiện nay. - Xác định quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Thực hiện pháp luật là vấn đề rất rộng được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh Cao Bằng, thực trạng và giải pháp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: 6 Luận văn được giới hạn dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, các quy định của Hiến pháp năm 2013, các đạo luật tư pháp về hình sự, dân sự, hành chính, thi hành án mới ban hành có hiệu lực pháp luật liên quan đến hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp, thông qua thực tiễn về công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Cao Bằng từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thực hiện pháp luật hoạt động tư pháp, về công tác kiểm sát hoạt động tư pháp và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử, cụ thể. Ngoài ra luận văn còn kết hợp các phương pháp như: lôgíc, phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn, bài luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể là mô tả các hoạt động tư pháp và các khái niệm về kiểm sát hoạt động tư pháp, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND kết hợp với phương pháp so sánh chức năng của VKSND qua các giai đoạn lịch sử về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp bằng các công tác thực hiện chức năng đó là : (a) Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; (b) Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự; (c) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố; (d) Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự; (đ) Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; (e) Kiểm sát việc giải quyết các 7 vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; (g) Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; (h) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền; (i) Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận của việc thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, do đó làm phong phú thêm lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, việc đảm bảo thực hiện pháp luật nhất là thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cấp ủy và chính quyền của tỉnh Cao Bằng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác hoạt động tư pháp. Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo của các cơ quan tư pháp tỉnh trong việc nghiên cứu và chỉ đạo các hoạt động tư pháp hình sự, dân sự ,hành chính, thi hành án. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Thông qua việc làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp tỉnh Cao Bằng , những kết quả đã đạt được và những hạn chế, bất cập, luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp, từ đó nâng cao nhận thức của các cơ quan và người tiến hành tố tụng đối với việc thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh Cao Bằng. Khẳng định, củng cố nhận thức về vị trí, vai trò và ý nghĩa của thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp trong việc phát huy tính tích cực, 8 chủ động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức và công dân đối với pháp luật của Nhà nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn gồm 3 chương, Chương 1: Những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp; Chương 2: Quy định của pháp luật về hoạt động tư pháp và thực tiễn thực hiện pháp luật tại tỉnh Cao Bằng; Chương 3: Các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện đúng pháp luật về hoạt động tư pháp từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp 1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp Ban hành quy phạm pháp luật Nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của nhà nước và xã hội. Điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra được các tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Do vậy, vấn đề không phải chỉ là ban hành thật nhiều các văn bản pháp luật, điều quan trọng là phải thực hiện pháp luật, làm cho những yêu cầu, quy định của chúng trở thành hiện thực.Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật dân chủ và nhân đạo. Việc thực hiện chúng chính xác, đầy đủ càng thể hiện tính dân chủ và nhân đạo thực sự của xã hội chúng ta. Chính vì thế việc thực hiện chính xác, đầy đủ pháp luật xã hội chủ nghĩa là mối quan tâm không chỉ từ phía Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà từ cả mỗi người dân trong xã hội. Họ tự giác thực hiện pháp luật và đòi hỏi pháp luật phải được các tổ chức, các cá nhân khác tôn trọng, thực hiện chính xác và đầy đủ. Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con người phù hợp với những quy định của pháp luật. Nói khác đi, tất cả những hoạt động nào của con người, của các tổ chức mà thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì đều được coi là biểu hiện của việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật. Dưới góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành vi đó không trái, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật, phù hợp với quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho nhà nước và cho các cá 10 nhân. Pháp luật gồm rất nhiều các loại quy phạm pháp luật khác nhau và với mỗi loại thì những cách thức thực hiện chúng cũng khác nhau: có thể đó là xử sự chủ động (hành động) nhằm đạt được một cái gì đó như sử dụng quyền hoặc làm nghĩa vụ pháp lý; có thể đó là xử sự thụ động (không hành động) kiềm chế không làm những điều mà pháp luật cấm ... Do vậy, hành vi hợp pháp cũng rất đa dạng chúng có thể được thực hiện phụ thuộc ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc ý chí của Nhà nước. Hành vi hợp pháp có thể được thực hiện trên cơ sở nhận thức sâu sắc của chủ thể là cần thiết phải xử sự như vậy và do vậy họ tự giác làm theo. Cũng có thể chúng được thực hiện do ảnh hưởng của những người xung quanh (thấy người khác làm như thế thì cũng làm theo) chứ bản thân người thực hiện hành vi đó chưa hoặc không nhận thức được đầy đủ tại sao phải làm như vậy. Còn có thể có những hành vi hợp pháp được thực hiện do kết quả của việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc do sợ bị áp dụng những biện pháp đó. Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ...Do đó, “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” Kiểm sát hoạt động tư pháp là một chức năng quan trọng của VKSND được quy định trong Điệu 107 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa trong Luật tổ chức VKSND năm 2014, cụ thể tại Điều 4 quy định như sau: “Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và 11 gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm: Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật; Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Kiểm sát hoạt động tư pháp là một dạng của hoạt động giám sát nhà nước và được giao cho VKSND thực hiện để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trên thực tế. Vì vậy, Thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý do pháp luật quy định để tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động tư pháp nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh, đảm bảo pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. 1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp Thứ nhất, thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND do những người có thẩm quyền (Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên) tiến hành. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, VKSND là cơ quan duy nhất có chức kiểm sát hoạt động tư pháp. Thông qua 12 việc thực hiện chức năng này, VKS góp phần thực hiện quyền lực Nhà nước, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Thứ hai, thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. THPL trong các lĩnh vực nói chung đều đòi hỏi phải tuân thủ những trình tự, thủ tục chặt chẽ. Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS nhằm đảm bảo mọi hoạt động tố tụng phái được thực hiện đúng, đủ, kịp thời. Chính vì vậy, pháp luật hiện hành quy định rất chặt chẽ việc THPL về kiểm sát hoạt động tư pháp đối với trình tự, thủ tục cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Hoạt động THPL trong kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND phải được tiến hành theo thủ tục chặt chẽ nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể. Việc tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định (quy phạm luật hình thức) là điều kiện bắt buộc và là tiền đề cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật nội dung Thứ ba, THPL trong kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND chỉ được tiến hành đối với các hoạt động tố tụng bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính. Thứ tư, THPL trong kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt của các chủ thể có thẩm quyền. Hoạt động THPL trong kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS đối với từng vụ án, vụ việc cụ thể luôn mang sắc thái riêng, phù hợp với từng hành vi, hoàn 13 cảnh và đặc điểm nhân thân của mỗi con người cụ thể. Sự đa dạng của thực tiễn THPL không chỉ có ở từng vụ việc cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể mà còn ở từng Kiểm sát viên. Mặc dù quy phạm pháp luật luôn luôn mang tính khuôn mẫu chung, các tiêu chuẩn, quyền, trách nhiệm của Kiểm sát viên cũng là những quy định chung, thống nhất, nhưng trình độ, năng lực, kỹ năng thực hiện pháp luật ở mỗi Kiểm sát viên lại không giống nhau. Cùng một trường hợp phạm tội cụ thể nhưng cách nhìn nhận, đánh giá ở mỗi Kiểm sát viên lại khác nhau, dẫn đến kết quả giải quyết có thể không giống nhau. Do đó, có thể khẳng định hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp mang dấu ấn chủ quan của Kiểm sát viên khá sâu sắc. 1.1.3. Ý nghĩa của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp Pháp luật được Nhà nước ban hành với mục đích cao nhất là nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo đúng trật tự, đảm bảo sự hài hòa lợi ích của các chủ thể. Do đó, khi một quy định pháp luật được đưa vào thực tiễn sẽ phát sinh ý nghĩa to lớn không chỉ đối với những chủ thể trực tiếp mà còn đối với cả xã hội. Trong việc thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND mang ý nghĩa rất sâu sắc, cụ thể: Một là, Đối với những người trực tiếp tham gia vào các quan hệ tố tụng: trong quan hệ tố tụng phát sinh mối quan hệ giữa hai bên đó là người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, nếu như người tiến hành tố tụng tham gia với mục đích là đại diện cho quyền lực nhà nước để bảo đảm cho pháp luật được chấp hành trên thực tế, bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức và Nhà nước thì người tham gia tố tụng là những người tham gia tố tụng với mục đích cao nhất hoặc cũng có thể nói là duy nhất đó chính là bảo vệ tối đa quyền lợi của mình bị ảnh hưởng hoặc vi phạm. Do đó, để cho lợi ích của các bên được hài hòa và đảm bảo thì rất cần sự tham gia của VKSND 14 trong việc kiểm sát hoạt động tư pháp – kiểm sát hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhằm tạo ra một môi trường pháp lý dân chủ, trong sạch. Hai là, đối với xã hội: Khi xã hội phát sinh một quan hệ tố tụng thì ắt sẽ phát sinh nhiều hệ quả kèm theo, đó có thể là một vụ án hình sự, một vụ án tranh chấp dân sự hoặc một vụ án hành chính. Chính vì vậy, tác động của các quan hệ tố tụng cho xã hội sẽ là rất lớn, gây ảnh hưởng đến lợi ích về tinh thần và vật chất của chính những người tham gia tố tụng, những người thân của họ và cả Nhà nước. Chính vì lẽ đó,để đảm bảo cho các quan hệ tố tụng được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho các bên và cho xã hội thì vai trò của VKSND trong việc kiểm sát hoạt động tư pháp là rất cần thiết. Đây có thể coi như là yếu tố bắt buộc trọng mọi quan hệ tố tụng hiện nay. 1.2. Các hình thức và nội dung của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp 1.2.1 Các hình thức thực hiện pháp luật Các quy phạm pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện chúng cũng rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau: Tuân theo (tuân thủ) pháp luật (xử sự thụ động) là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Những quy phạm pháp luật cấm trong luật hình sự luật hành chính.... được thực hiện dưới hình thức này. Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc (những quy phạm quy 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan