Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội từ thực tiễn quận 1 ...

Tài liệu Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội từ thực tiễn quận 1 thành phố hồ chí minh

.PDF
89
20
92

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Võ Thị Cẩm LỜI CẢM ƠN Luận văn này được thực hiện tại Học viện Khoa học Xã hội, cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh. Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Thị Việt Hương đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô, những người đã đem lại kiến thức vô cùng hữu ích cho tôi trong suốt hai năm học qua. Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc, Phòng Đào tạo của Học viện cùng toàn thể cán bộ, giáo viên cơ sở Học viện tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập. Cuối cùng, tôi xin gửi tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp những người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CẤP XÃ TRONG LĨNH VỰC XÃ HỘI .......................................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội ....................................................................................................................7 1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội ..................................................................................................................19 1.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội ..............................................................................................................................26 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT DÂN CHỦ CẤP XÃ TRONG LĨNH VỰC XÃ HỘI TẠI QUẬN 1 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..30 2.1. Các yếu tố đặc thù của Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh có ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội ............................................30 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội...............35 2.3. Đánh giá chung tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh ................................................46 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CẤP XÃ TRONG LĨNH VỰC XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................................................55 3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh ...........................................................55 3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh ...........................................................58 KẾT LUẬN ..............................................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân chủ luôn là ước vọng của loài người, luôn là giá trị mà nhân loại hướng tới. Mặc dù, dân chủ đã được nhiều học giả nghiên cứu từ rất lâu trong lịch sử, đặc biệt các nhà kinh điển Mác-Lênin, rất quân tâm bởi theo ông, dân chủ chính là những mục tiêu và động lực của cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, theo Người, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [57, tr.515]. Dân chủ là dân làm chủ. “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ” [58, tr.452]. Người giải thích: dân là chủ thì nhà nước, chính phủ, mọi cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy công quyền phải hết lòng, hết sức tận tụy làm đầy tớ, công bộc trung thành của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”[62, tr.8485]. Hiến Pháp năm 2013 đã khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ. Để giữ vững và phát huy được bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng hiện nay là phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý và xây dựng nhà nước mới có thể hoàn thành được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cấp xã, phường, thị trấn là cấp cơ sở thuộc hệ thống hành chính bốn cấp của nước ta. Đó là nơi tổ chức và vận động nhân dân thực hiện phần lớn đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư; đồng thời, đây cũng là nơi đóng góp cho Đảng và Nhà nước những 1 cách làm hay, những kinh nghiệm tốt để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chủ trương, chính sách, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, việc thực hiện và phát huy dân chủ cấp xã có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống. Quận 1 nằm ở vị trí trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm Quận Nhất và Quận Nhì (Sài Gòn cũ) được sáp nhập vào năm 1976. Những năm qua, Quận 1 đã có những bước chuyển biến lớn lao trong xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa xã hội, giữ vững và phát huy ưu thế của một trung tâm thành phố chính trị, kinh tế, văn hóa, dịch vụ, ngân hàng. Sau gần 20 năm triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở và 10 năm thực hiện Pháp lệnh số 34 trên địa bàn Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tuy nhiên, việc thực hiện dân chủ cấp xã trên địa bàn Quận 1 vẫn còn những hạn chế bất cập, như: Việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy ước, hương ước không ít nơi còn hình thức, chất lượng chưa cao, chưa thành nền nếp. Một số phường chưa làm tốt việc công khai, dân chủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá cả đền bù khi chuyển mục đích sử dụng đất, chính sách tái định cư. Không ít cơ quan thiếu công khai, dân chủ về quản lý thu, chi tài chính công, nâng lương, quy hoạch đào tạo, đề bạt cán bộ... Một số nơi nội bộ lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện… diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với cấp uỷ, chính quyền... Từ thực tiễn đó, cần phải tiếp tục phát huy tốt và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ lợi ích của họ, của Đảng, của Nhà nước. Vì vậy, tôi chọn vấn đề: “Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật hiến pháp và luật hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề dân chủ, dân chủ ở cơ sở, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở từ lâu đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà khoa học, những người làm công tác lý 2 luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau và đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên các sách, báo, tạp chí khoa học, các đề tài nghiên cứu, nhiều luận văn thạc sỹ, sau đây là một số công trình tiêu biểu: 2.1. Đề tài khoa học, sách chuyên khảo - Đỗ Mười (1998), Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Dương Xuân Ngọc (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Vũ Hoàng Công (2009), Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Lý luân chính trị, Hà Nội. - Nguyễn Bắc Son (2010), Hỏi đáp về dân chủ ở cơ sở, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Văn Mạnh (2010), Thực hiện pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội. - Hoàng Chí Bảo -Tống Đức Thảo (2011), Mối quan hệ giữa dân chủ và văn hóa pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội. - Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dan chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Đại học quốc gia Hà Nội (2016), Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Đại học quốc gia Hà Nội. 2.2. Bài báo khoa học - Quách Sỹ Hùng (2009), Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (6), tr.5-7. 3 - Chu Thị Trang Vân (2009), Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (5), tr.15-17. - Đặng Viết Đạt (2010), Pháp luật và dân chủ trong nhà nước pháp quyền, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (9), tr.35. - Lê Minh Quân (2012), Dân chủ và dân chủ hóa – một số tiếp cận cơ bản, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (10). - Lê Minh Quân (2012), Về quá trình xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản, (841). - Tống Đức Thảo (2013), Nâng cao nhận thức về dân chủ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng ở nước ta hiện nay, Tạp chí Thông tin khoa học chính trị, (8), tr.26-28. - Nguyễn Văn Nam (2013), Luật tục và việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Tây Nguyên - Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số (1), tr.72-77. - Nguyễn Thị Vân Giang (2016), Vấn đề thực hiện dân chủ ở cấp xã, thị trấn phục vụ Chương trình xây dựng nông thôn mới, Tạp chí Giáo dục lý luận, (239), tr.25-27. 2.3. Luận án, luận văn - Nguyễn Thị Tâm (2007), Dân chủ ở cơ sở và vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn hiện nay, Luật án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Nguyễn Hồng Chuyên (2011), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Thái Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Thị Thu Hiền (2012), Thực hiện pháp luật dân chủ trực tiếp của nhân dân ở các xã trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Luân văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Vũ Thị Thúy Vân (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính tri quốc gia, Hồ Chí Minh. 4 Có thể thấy, đã có nhiều công trình viết về dân chủ, dân chủ ở cơ sở đối với phạm vi khác nhau, có giá trị khác nhau. Các công trình trên đã làm rõ nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã, phường, thị trấn đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội trên nhiều địa phương cụ thể. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã trong lĩnh vực xã hội trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, do đó để làm rõ thêm về lý luận và thực tiễn của thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh cần thiết phải có một đề tài nghiên cứu khoa học. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích tổng quát của luận văn nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội tại Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, tại các đô thị trên cả nước nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tiếp tục phân tích làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận về thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã nói chung và thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội tại địa bàn đô thị nói riêng. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội trên địa bàn Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến năm 2017. - Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội trên địa bàn Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quan điểm khoa học về thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội; - Hệ thống quy định pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội; - Thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội tại Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh; - Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội ở một số địa phương ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 5 - Phạm vi nội dung: Những vấn đề lý luận và thực tiễn tại Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh về pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội. - Phạm vi không gian: Trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm vi thời gian: từ năm 2008 đến 2017, định hướng đến năm 2025. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa; những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ ở cơ sở. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn lựa chọn góc độ tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội, đồng thời chú ý tiếp cận dựa trên quyền. Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn nhận thức lý luận về dân chủ cơ sở và thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã nói chung, thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu và đào tạo về dân chủ và dân chủ cơ sở. Luận văn có giá trị ứng dụng trên địa bàn Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời có giá trị tham khảo đối với các cơ quan nhà nước trong xây dựng các phương án bảo đảm thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội tại địa bàn các đô thị ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương 8 tiết. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CẤP XÃ TRONG LĨNH VỰC XÃ HỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội 1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội * Khái niệm dân chủ Dân chủ (De’moscratie) ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, khoảng thế kỷ thứ VIIVI trước công nguyên, gồm 02 từ "demos" có nghĩa là dân và "kratos" là quyền lực. Dân chủ có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định. Có thể nói rằng, phương thức thực hiện dân chủ đã trải qua một quá trình vận động, biến đổi ở buổi đầu sơ khai của lịch sử nhân loại, quyền lực của cộng đồng được thể hiện dưới hình thức tự quản, mọi thành viên đều có quyền tham gia vào các quyết định lớn của cộng đồng, họ vừa là chủ thể, vừa là đối tượng chịu sự điều chỉnh của quyền lực ấy. Đây là hình thức thực hiện dân chủ chất phác và được coi là thời đại kim hoàng của dân chủ, vì mọi quyền lực xã hội về cơ bản đều thuộc về nhân dân. Sự phát triển của dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, năng lực nhận thức của công dân, chính quyền, truyền thống lịch sử, văn hóa, pháp lý… Dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, là khát vọng được làm chủ, quyền tự nhiên của con người, trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người làm chủ và quyền làm chủ đó được giai cấp cầm quyền trong lịch sử thể chế thành pháp luật cùng các thiết chế chính trị - xã hội khác. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của dân chủ nên ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là một vấn đề hệ trọng, có ý nghĩa chiến lược sâu sắc đối với sự phát triển của đất nước. 7 Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta đã khẳng định rõ quan điểm về dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. Khắp nơi đều có đoàn thể nhân dân, như: Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn… là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với chính phủ” [57, tr.66]. Như vậy, "dân là chủ" và "dân làm chủ" là cốt lõi trong khái niệm "dân chủ" của Hồ Chí Minh. Quan điểm này thể hiện rõ nội dung cơ bản mà nhân loại thừa nhận: Dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa chế độ dân chủ thực sự, dân chủ của đa số nhân dân với sự đảm bảo thực hiện của nhà nước pháp quyền xã hội hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, ở đó, quyền dân chủ của công dân không ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, của xã hội. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ra đời từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền nhà nước, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được hoàn thiện dần trong quá trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể bao gồm: Đảng Cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, các tầng lớp nhân dân cùng các mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận đó, hoạt động trên nguyên tắc bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân và nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản là hạt nhân của hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận lãnh đạo hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội bằng việc đề ra chủ trương, đường lối, cương lĩnh, chiến lược, sách lược trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là cơ quan thực hiện quyền lực của nhân dân lao động; thay mặt nhân dân lao động, được nhân dân ủy quyền, chịu trách nhiệm trước nhân dân, quản lý mọi hoạt động của xã hội bằng hệ thống pháp luật và những thiết chế nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự bảo vệ, giám sát của nhân dân. Các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Đó là nơi làm chủ tập thể của nhân dân, là khâu trung gian nối liền Đảng Cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa với quần chúng nhân dân. Thông qua các tổ chức này, nhân dân giới thiệu các đại biểu của mình tham gia vào chính quyền, đóng góp ý kiến cho 8 Đảng, nhà nước, đồng thời qua đó nhân dân thể hiện tâm tư, nguyện vọng của mình với Đảng, nhà nước. Ba bộ phận này cùng với cơ chế vận hành "Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ", hợp thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, gắn bó chặt chẽ với nhau vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhân tố cơ bản nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân. Như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ được xây dựng và hình thành trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang bản chất của giai cấp công nhân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện và đảm bảo quyền làm chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân đối với xã hội. * Khái niệm dân chủ cấp xã Cấp xã thường được gọi chung là “cấp cơ sở” hay “địa bàn cơ sở”. Xã, phường, thị trấn là “nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống” [30, tr.89]. Có thể nói, mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., dù ở phạm vi rộng hay hẹp, đều chủ yếu diễn ra trên địa bàn xã, phường, trị trấn. Trên địa bàn xã, phường, thị trấn, đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật... luôn diễn ra sôi động và không kém phần phức tạp; trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và người dân. Chính quyền cấp xã là khâu cuối cùng tiếp nhận và triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của chính quyền cấp trên; là “cổng giao tiếp” giữa Nhà nước và nhân dân trong chừng mực các vấn đề có liên quan tới lợi ích của các bên. Việc xây dựng bộ máy chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh chỉ có thể trở thành hiện thực khi chúng ta thiết lập và thực hành nền dân chủ ở xã, phường, thị trấn; bảo đảm các điều kiện và sự tham gia thực tế của nhân dân vào các sinh hoạt chính trị - xã hội của địa phương. Dân chủ cấp xã, trước hết, vẫn phải là sự đảm bảo nguyên tắc “toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; song, đặt trong một phạm vi không gian xã hội cụ thể, trực tiếp là địa bàn xã, phường, thị trấn - nơi cư trú và sinh hoạt của tuyệt đại bộ phận các tầng lớp nhân dân. Chính họ là chủ thể của quyền lực nhà nước, có các quyền dân chủ và trực tiếp thực hiện các quyền dân chủ của mình. Điều đó nói lên 9 rằng, dân chủ cấp xã luôn gắn liền với địa chỉ cụ thể và với chủ thể trực tiếp thực hiện quyền dân chủ, gắn liền với những nội dung cụ thể có liên quan tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của người dân ở cơ sở. Đó là: quyền được biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân ở cơ sở; quyền được bàn và quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền giám sát đối với tất cả những nội dung dân biết, dân bàn, dân quyết định hoặc tham gia ý kiến. Để nhân dân có thể thực hiện trên thực tế các quyền dân chủ của mình thì dân chủ cấp xã còn phải bao gồm các hình thức thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân; nghĩa là phải “có cơ chế để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của mình" [32, tr. 48]. Các hình thức đó có thể là: công khai thông tin bằng cách niêm yết tại trụ sở hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân xã, phổ biến, tuyên truyền thông tin trên hệ thống loa truyền thanh của xã, phường, thị trấn, thông qua trưởng thôn/tổ trưởng dân phố (đối với quyền được biết); biểu quyết trong các cuộc họp thôn, thông qua phiếu lấy ý kiến cử tri... (đối với quyền được bàn và quyết định); thông qua các cuộc họp thôn, phiếu lấy ý kiến cử tri, hòm thư góp ý... (đối với quyền tham gia ý kiến). Từ những điểm phân tích trên, có thể định nghĩa: Dân chủ cấp xã là biểu hiện cụ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là sự đảm bảo nguyên tắc toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân tại địa bàn xã, phường, thị trấn trên cơ sở thực hiện quyền được biết, quyền được bàn và quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền giám sát đối với những nội dung có liên quan tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của người dân ở xã, phường, thị trấn bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật. * Khái niệm pháp luật về dân chủ cấp xã Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật và Nhà nước, hai thành tố của thượng tầng chính trị - pháp lý luôn có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau. Cả hai hiện tượng pháp luật và Nhà 10 nước đều có chung nguồn gốc cùng phát sinh và phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu quả trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm và đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và đảm bảo cho quyền lực đó được triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, do đó pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động, là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện. Từ những nội dung trên có thể quan niệm pháp luật dân chủ cấp xã như sau: Pháp luật về dân chủ cấp xã là tổng hợp những quy phạm pháp luật trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước quy định và thừa nhận các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở, trong đó quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát, trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, thôn và các tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân trong thực hiện dân chủ cấp xã. * Khái niệm pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội Từ quan niệm về pháp luật dân chủ cấp xã, có thể hiểu: Pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội là tổng hợp những quy phạm pháp luật trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước quy định và thừa nhận các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở trong lĩnh vực xã hội (gồm giáo dục, đào tạo, y tế, dân số, chăm sóc sức khỏe, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm), trong đó quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý 11 kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát, trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, thôn và các tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân trong thực hiện dân chủ cấp xã. * Khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã Dưới góc độ luật học, thực hiện pháp luật là hành vi phù hợp với các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật, mang lại và đáp ứng lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của mỗi công dân. Hành vi đó có thể được thực hiện phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Như vậy, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích nhằm làm cho các nguyên tắc, quy định của pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Pháp luật về dân chủ cấp xã là một lĩnh vực pháp luật cụ thể - Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (trước đây) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn hiện hành, trong đó: “Quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã), của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc (gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khối phố (gọi chung là tổ dân phố), của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ cấp xã” [98]. Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã là quá trình triển khai các hoạt động đưa các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đi vào thực tiễn đời sống xã hội ở cơ sở, trở thành hành vi pháp luật thực tế hợp pháp của chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân địa phương nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; kiểm tra, giám sát các hoạt động của chính quyền cấp xã; góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn. *Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội là quá trình triển 12 khai các hoạt động đưa các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đi vào thực tiễn đời sống ở cơ sở trong lĩnh vực xã hội, trở thành hành vi pháp luật thực tế hợp pháp của chính quyền, cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân địa phương nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; kiểm tra, giám sát các hoạt động của chính quyền cấp xã; góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn. 1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội 1.1.2.1. Việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục, được triển khai gắn liền với các hoạt động trên địa bàn thôn làng, bản, ấp, khu dân cư, tổ dân dân phố. Dân chủ ở xã - tên gọi là thế nhưng kỳ thực mảnh đất hiện sinh cho dân chủ không hẳn tập trung tại trụ sở của chính quyền xã, là thuần tuý xã mà nó phải đi xuống thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố - là những đơn vị hành chính tự nhiên. Hơn nữa, dân chủ không chỉ là thực hiện những quy định trong các quy chế dân chủ, mà thể hiện thường xuyên, liên tục bằng tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội của chính người dân tại đây. Chính vì thế, dân chủ cấp xã không thể khác hơn là trở về, được thực hiện bởi chính dân chủ thôn, làng. Chính quyền xã chỉ còn tồn tại với vai trò là đại diện cho nhà nước giám sát, kiểm tra việc thực hiện dân chủ, việc của cấp xã mang tính chất định hướng cho thôn, làng phát triển. 1.1.2.2. Việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã được triển khai trên địa bàn rộng lớn nhất so với các loại hình dân chủ khác ở cơ sở. Theo số liệu điều tra năm 2016, nước ta có 65,4% dân số sống ở khu vực nông thôn, lao động nông thôn chiếm 75% tổng lực lượng lao động cả nước và chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp. Chính quyền cấp cơ sở được hình thành trên một cộng đồng dân cư, cộng đồng lãnh thổ bền vững, dưới cấp này không hình thành một cấp chính quyền nào khác. Do đó “dân chủ ở cơ sở” phải được hiểu là dân chủ ở cấp thấp nhất, là nơi người dân thể hiện trực tiếp nhất quyền làm chủ của mình. Và suy cho cùng, tất cả các tổ chức quyền lực nhà nước cấp trên, muốn phát huy tác dụng cuối cùng đều phải thông qua vai trò của hệ thống chính 13 quyền xã; dân gắn với nhà nước, trước hết và trực tiếp thông qua quan hệ với chính quyền cơ sở; tạo lập lòng tin của dân với Đảng với Nhà nước trước hết đều thực hiện thông qua quan hệ giữa nhân dân với chính quyền xã. Vì vậy, thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã được triển khai trên phạm vi rộng lớn nhất, tác động đến nhiều chủ thể nhất so với việc thực hiện dân chủ ở cơ quan hay doanh nghiệp… 1.1.2.3. Thực hiện pháp luật dân chủ ở xã được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau, trong đó, nhân dân là một chủ thể đặc biệt quan trọng Không ít người dân hiện nay khi được hỏi về quy chế dân chủ, dân chủ cấp xã thì trả lời với một thái độ rất bàng quan rằng đó là việc của chính quyền, đoàn thể. Nhiều người dân quanh năm sống với đồng ruộng, một quyết định từ ủy ban nhân dân xã ban hành chứ chưa nói đến những cấp cao hơn là huyện, tỉnh, rồi Trung ương, họ luôn tự nhìn nhận mình với vị trí là “đối tượng phải thi hành”. Khác với nhiều quan hệ pháp luật trong đó chủ thể thực hiện chủ yếu là nhà nước thì pháp luật về dân chủ ở xã được thực hiện bởi nhiều chủ thể. Đó chính là hệ thống chính trị ở cơ sở, và quan trọng hơn là những người dân sống tại địa bàn cơ sở. Chính họ sẽ quyết định hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã. Xét cho cùng, sự nghiệp đổi mới của đất nước hiện nay tùy thuộc lớn vào cơ sở, vào chính quyền xã, mà sức mạnh của chính quyền là ở nơi dân, là việc quy tụ được lòng dân, là phát huy tình đoàn kết, truyền thống, tinh thần làm chủ của nhân dân, là hướng tới dân, vì lợi ích của dân. 1.1.2.4. Thực hiện pháp luật dân chủ cấp xã là thực hiện các quy phạm cụ thể quy định trong các văn bản do Nhà nước ban hành, cụ thể ở đây là Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Điều này là hoàn toàn cần thiết để tránh các trường hợp lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn, vô chính phủ. Dân chủ phải được hiểu là sự tự do trong khuôn khổ pháp lý. Do vậy, không thể cho rằng "dân chủ" và "hoàn toàn tự do" là một. Dân chủ phải gắn liền với chuyên chính. Chuyên chính không phải là mục đích của dân chủ mà là phương tiện bảo vệ nền dân chủ, bảo vệ những lợi ích của nhân dân, chống lại những kẻ đi ngược lại lợi ích của nhân dân, đi ngược lại chế độ dân chủ của nhân dân. Quyền làm chủ của một cá nhân không được đi ngược lại quyền làm 14 chủ của các cá nhân khác và của cộng đồng. Xã hội dân chủ là xã hội có trật tự kỷ cương. Để tránh tình trạng mất dân chủ hoặc lợi dụng dân chủ, đòi hỏi phải có các quy định mang tính quyền lực nhà nước để đảm bảo thực hiện được trên thực tế. Hơn nữa, thực hiện dân chủ với nhân dân không chỉ là các quy định trong Pháp lệnh 34 là đủ, mà đòi hỏi chính quyền cấp xã phải thể hiện được vai trò tích cực của mình trong tất cả lĩnh vực theo các quy định có liên quan của Nhà nước. 1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong lĩnh vực xã hội 1.1.3.1 Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã góp phần đảm bảo quyền lực thực sự của nhân dân trong xây dựng Nhà nước, xây dựng chính quyền cơ sở Nhà nước xã hội chủ nghĩa với quyền lực thuộc về đa số nhân dân lao động, do đó việc thực hiện pháp luật về dân chủ là điều kiện tiên quyết để đảm bảo quyền lực thực sự của nhân dân. Trước hết thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn bảo đảm cho nhân dân được hưởng quyền chính trị cơ bản nhất của mỗi công dân: Quyền bầu cử. Theo quy định của luật pháp về chế độ bầu cử các cơ quan đại diện cho nhân dân: Bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, công dân thực hiện quyền bầu cử của mình tại cấp xã, phường, thị trấn nơi cư trú. Đây là bước khởi đầu để thực hiện Nhà nước của nhân dân. Nhân dân thiết lập nên bộ máy quản lý nhà nước của mình để ủy quyền quản lý, thực hiện quyền dân chủ đại diện thông qua hoạt động của đại biểu các cơ quan dân cử. Nhân dân có quyền bầu và bãi miễn các đại biểu dân cử nếu họ không được dân tín nhiệm và thực hiện cơ chế giám sát thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Cũng tại cơ sở xã, phường, thị trấn nhân dân thực hiện những quyền cơ bản nhất được Hiến pháp quy định: Quyền có nhà ở, quyền tự do tín ngưỡng, quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ, quyền được làm những gì mà pháp luật không cấm trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội. Yêu cầu xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đặt ra đòi hỏi tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Việc thực hiện pháp luật về dân chủ trên tất cả các lĩnh vực diễn ra ở cơ sở không chỉ giúp cho pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, nhân dân tự mình làm chủ trong quản lý xã hội mà còn giúp cho Đảng, Nhà nước ngày càng có cơ sở thực 15 tiễn hơn trong việc hoạch định đường lối, chính sách, hoàn thiện pháp luật. 1.1.3.2. Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã góp phần kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở Việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã, phường, thị trấn vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu nhằm kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Pháp luật về dân chủ quy định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở đối với việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Với tư cách là chủ thể của hoạt động thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, hệ thống chính trị ở cơ sở là khâu then chốt trong tổ chức thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Mỗi khâu của quá trình dân chủ đều đòi hỏi bản thân hệ thống chính trị cũng như mỗi tổ chức thành viên đều phải kiện toàn tổ chức, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Mỗi tổ chức thành viên, căn cứ chức năng, nhiệm vụ mà có các hình thức thực hiện khác nhau trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", song tất cả đều vì một mục tiêu xây dựng một đất nước Việt Nam: "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh". Thông qua các hoạt động ở cơ sở mà hệ thống chính trị ngày càng nâng cao năng lực tổ chức triển khai nhiệm vụ, phát hiện và bồi dưỡng nguồn cán bộ kế cận cho đội ngũ cán bộ, công chức, đổi mới phương thức lãnh đạo, tập hợp hội viên đoàn viên, điều hòa và gắn kết các nhóm lợi ích, những vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp thời, các khó khăn được tháo gỡ và ngày càng thu hút được sự tham gia rộng rãi của người dân vào các công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. 1.1.3.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở Nhà nước thực hiện chính sách quản lý và phát triển kinh tế - xã hội thông qua chính sách vĩ mô và vi mô. Đối với chính quyền cơ sở, đây vừa là nơi thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội, vừa là nơi chịu 16 sự quản lý của cấp chính quyền cấp trên. Các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, huyện đều có ảnh hưởng và triển khai trên địa bàn xã, phường, thị trấn, bên cạnh đó, việc hoạch định các mục tiêu của xã, phường, thị trấn cũng được hội đồng nhân dân thông qua, đối với việc phát triển kinh tế trên địa bàn không lớn, song những vấn đề mà nhân dân quan tâm, được biết, được bàn, được kiểm tra theo nội dung của pháp luật thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn bao gồm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quyết toán ngân sách, xây dựng cơ sở trường, trạm, các thiết chế văn hoá, công khai mức thuế, phí và lệ phí, vốn vay xóa đói giảm nghèo, bình xét gia đình văn hóa, kế hoạch và phương án đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng triển khai các dự án trên địa bàn… đều là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở nói riêng và góp phần phát triển kinh tế - hội ở cả vùng miền. Do đó, thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã, phường, thị trấn bảo đảm và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hơn. Thực tiễn hơn 16 năm thực hiện Quy chế dân chủ cho thấy, khi tài chính được công khai, nhân dân được đóng góp ý kiến và sẵn sàng đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, các công trình phúc lợi công cộng, đất đai được quản lý tốt hơn, việc chuyển đổi mô hình hợp tác xã nông nghiệp được ủng hộ, công tác dồn điền đổi thửa tạo đà cho sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, công tác xã hội hóa giáo dục, y tế được đẩy mạnh, do đó quyền của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, y tế được bảo đảm hơn. Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã, phường, thị trấn là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Pháp luật về dân chủ cấp xã, phường, thị trấn là một bộ phận của pháp luật thực định, góp phần thực hiện chức năng duy trì trật tự xã hội. Quy chế dân chủ, các chế định pháp luật khác về quyền công dân đảm bảo cho nhân dân được bảo vệ tính mạng sức khỏe, nhân phẩm, các quyền về kinh tế, pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi gây mất dân chủ, ảnh hưởng đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân. Các quy định pháp luật đều có chế tài để răn đe, phòng ngừa và trừng trị nghiêm khắc những hành vi vi phạm quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện quy chế dân chủ, nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp những vấn đề an ninh trật tự, xây dựng và tổ chức tự quản đời 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan