Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện dự toán thu chi ngân sách nhà nước của việt nam những năm qua thực trạ...

Tài liệu Thực hiện dự toán thu chi ngân sách nhà nước của việt nam những năm qua thực trạng và giải pháp

.PDF
21
80
136

Mô tả:

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH KHOA TÀI CHÍNH CÔNG TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH CÔNG Học viên: TrươngThị Thu Hà Lớp : TCNH 05E ĐỀ TÀI: Thực hiện dự toán thu chi ngân sách Nhà Nước của Việt Nam những năm qua: Thực trạng và giải pháp GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS Nguyễn Ngọc Thao – Trưởng Khoa Tài chính công Huế, tháng 3/2013 Trang 1 A. MỞ ĐẦU Trong những năm qua, sự biến động của các nền kinh tế thế giới diễn biến hết sức phức tạp, nhiều quốc gia lâm vào tình trạng suy giảm, suy thoái kinh tế, thậm chí kề cận bờ vực phá sản. Các nền kinh tế lớn ở Châu Âu như Ytalia, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và thậm tế nhất là Hy Lạp đều phải trông chờ vào các gói cứu trợ của Cộng đồng Châu Âu. Tất thảy sự sa sút ở các mức độ khác nhau của các nền kinh tế kể trên đều xuất phát từ một nguyên nhân là thâm thủng ngân sách và “nợ công” không có khả năng chi trả. Chính vì vậy, vấn đề thu chi ngân sách, nợ công và khủng hoảng nợ công như một hồi chuông cảnh tỉnh tất cả các nền kinh tế, để làm sao tránh vấp phải vết xe đổ như các nền kinh tế thuộc Cộng đồn chung Châu Âu. Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của Quốc hội, sự điều hành quyết liệt, linh hoạt và kịp thời của Chính phủ, cộng với nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân, nền kinh tế cũng từng bước phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng khá nhanh, vững chắc. Năm 2010, tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước ta đạt 6,78%, cao hơn kế hoạch đề ra (6,5%). Tính trong cả năm, tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 5,84%, quý II tăng 6,44%, quý III tăng 7,18%, quý IV tăng 7,34%). Tất cả các ngành, lĩnh vực đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, nông-lâm-thuỷ sản tăng 2,78%; công nghiệp và xây dựng tăng 7,7%; dịch vụ tăng 7,52%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14%; tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 24,5%; kim ngạch xuất khẩu đạt 72,2 tỷ USD (tăng 26,4%); kim ngạch nhập khẩu đạt 84,8 tỷ USD (tăng 21,2%); tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 17,1% (chiếm 42% GDP); tình hình chính trị - xã hội ổn định, an ninh và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; an sinh xã hội và phúc lợi xã hội từng bước được nâng cao. Tuy nhiên, kể từ năm 2011cho đến nay, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi bất lợi, báo hiệu những khó khăn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và đẩy lùi những thành quả đạt được trong thời gian qua. Trên bình diện quốc tế, bất ổn kinh tế - chính trị tại Trung Đông và Bắc Phi; cuộc khủng hoảng nợ công dai dẳng ở Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Euro); sự yếu kém của hệ thống ngân hàng, bấp bênh của thị trường nhà ở, thị trường bất động sản và tỷ lệ thất nghiệp cao ở các nước phát triển… là những nguyên nhân đẩy mặt bằng giá cả thế giới trong hai tháng đầu năm tăng lên mức đáng ngại. Việt Nam cũng không ngoại lệ khi chính phủ đã phải điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng trọng yếu như xăng, dầu, điện, than; đồng Trang 2 thời điều chỉnh tỷ giá với biên độ lên tới 9,3%. Những quyết định điều chỉnh này đang tạo áp lực tăng giá lớn đối với hàng hoá tiêu dùng trong nước. Trên bình diện trong nước, mặc dù hoạt động kinh tế xã hội trong hai tháng đầu năm nhìn chung vẫn duy trì đà phát triển của năm 2010 với nhiều chỉ tiêu kinh tế quan trọng đạt khá so với cùng kỳ năm trước (sản xuất công nghiệp ước tăng 14,6%, kim ngạch xuất khẩu ước tăng 40,3%, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tăng 23,7%...), nhưng tình hình cũng đã phát sinh nhiều khó khăn, thách thức. Thiên tai, thời tiết tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất và đời sống của người dân; dự trữ ngoại hối thấp; khả năng thanh khoản của nền kinh tế chậm được cải thiện và chỉ số giá tiêu dùng tăng cao (3,87%)… Đối với khối DNNN, Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN có sự điều tiết của Nhà Nước, trong đó kinh tế Nhà Nước đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên sự yếu kém trong xây dựng mô hình và công tác quản lý đã khiến nhiều tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà Nước (điển hình là Vinashine, vinaline) đang đứng trước bờ vực phá sản khiến giới nghiên cứu kinh tế cũng như toàn xã hội đang đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến tính hiệu quả của đồng vốn Nhà Nước trong thành phần kinh tế này. Trước tình hình đó, ngày 24/02/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Trước đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 09/01/2011 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước năm 2011. Trong số 7 giải pháp chính nêu lên trong Nghị quyết 11/NQ-CP, đáng chú ý nhất là hai giải pháp đầu tiên, nêu rõ chính phủ sẽ thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ theo hướng thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi Ngân sách Nhà nước. Trong đó, rà soát cắt giảm đầu tư công đóng vai trò quan trọng nhằm hạ nhiệt lạm phát vốn đã lên tới mức 11,75% trong năm 2010. Vấn đề nợ công suy cho cùng cũng là vấn đề cân băng thu chi ngân sách Nhà nước. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc tăng thu ngân sách, lành mạnh hóa cán cân ngân sách để tiến tới bội thu NSNN ngày càng nhiều, em xin lựa chọn đề tài tiểu luận là “Thực hiện dự toán thu chi ngân sách Nhà Nước của Việt Nam những năm qua: Thực trạng và giải pháp”. Do đây là một đề tài khó, kiến thức của bản thân có hạn nên dù rất cố gắng, em cũng không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm chỉ dạy của thầy hướng dẫn: Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thao – Phó Khoa Tài chính Công. Trang 3 B. NỘI DUNG CHƯƠNG I: MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC I. Khái niệm Ngân sách Nhà nước Có nhiều quan niệm về Ngân sách Nhà nước (NSNN) xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau. Luật NSNN Việt Nam năm 2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước. NSNN vừa là nguồn lực để nuôi dưỡng bộ máy, vừa là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước để điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nước và một bên là các chủ thể khác trong xã hội trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân dưới hình thức giá trị. Việc bố trí ngân sách thể hiện rất rõ những ưu tiên chiến lược cũng như quan điểm, cách thức Nhà nước giải quyết một hay nhiều vấn đề kinh tế - xã hội. Từ khái niệm trên, có thể hiểu: - Dưới góc độ lý thuyết, NSNN thể hiện các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, là sự vận động của các nguồn tài chính gắn với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước phát sinh khi Nhà nước tham gia vào quá trình phân phối các nguồn tài chính quốc gia. - Dưới góc độ pháp lý, NSNN được luật hoá cả hình thức và nội dung. Trình tự và biện pháp thu, chi NSNN là sự cụ thể hoá quyền lực của Nhà nước trong lĩnh vực ngân sách. - Dưới góc độ tác nghiệp chuyên môn, NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiệnn trong một năm, theo một quy trình bao gồm các khâu lập dự toán, chấp hành và quyết toán NSNN. - Dưới góc độ quản lý vi mô, NSNN là một trong các công cụ mạnh để Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ và tác động vào nền kinh tế. II. Vai trò của NSNN Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường về mặt chi tiết có thể đề cập đến nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng khác nhau, song có thể khái quát trên các khía cạnh sau: Trang 4 1. Vai trò của một ngân sách tiêu dùng: Nhằm đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước NSNN đảm bảo tài chính cho bộ máy của nhà nước bằng cách khai thác, huy động các nguồn lực tài chính từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế, dưới các hình thức bắt buộc, tự nguyện. Trong đó, quan trọng nhất vẫn là nguồn thu từ thuế. Việc khai thác, tập trung các nguồn tài chính này phải được tính toán sao cho đảm bảo được sự cân đối giữa nhu cầu của nhà nước với doanh nghiệp và dân cư, giữa tiêu dùng và tiết kiệm. Các nguồn tài chính sau khi tập trung sẽ được tiến hành phân phối để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo tỷ lệ hợp lý nhằm vừa đảm bảo duy trì hoạt động và sức mạnh của bộ máy nhà nước, vừa đảm bảo thực hhiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Kiểm tra, giám sát việc phân phối và sử dụng các nguồn tài chính từ NSNN nhằm đảm bảo cho việc phân phối và sử dụng đó được tiến hành hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả, đáp ứng các nhu cầu của QLNN và phát triển kinh tế - xã hội. 2. Vai trò của ngân sách phát triển: Là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước Thông qua NSNN, Nhà nước định hướng đầu tư và điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo cả cơ cấu vùng, ngành. Thông qua chi NSNN, Nhà nước đầu tư cho kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất – kinh doanh phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống dân cư. Bằng nguồn chi NSNN hàng năm, NN tạo lập các quỹ dự trữ về hàng hoá và tài chính. Trong trường hợp thị trường biến động, giá cả tăng quá cao hoặc xuống quá thấp, nhờ vào lực lượng dự trữ hàng hoá và tiền, Nhà nước có thể điều hoà cung cầu đề bình ổn giá cả, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và người sản xuất. Nhà nước cũng có thể chống lạm phát bằng việc cắt giảm chi NSNN, tăng thuế tiêu dùng, khống chế cầu, giảm thuế đầu tư để khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng cường cung. Ngoài ra, Nhà nước cũng có thể sử dụng các công cụ vay nợ như công trái, tín phiếu kho bạc…. để hút bớt lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm sức ép về giá cả và bù đắp thâm hụt ngân sách. 3. NSNN đóng vai trò quan trọng thực hiện công bằng xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội Trang 5 Nền kinh tế thị trường với sức mạnh thần kỳ của nó luôn chứa đựng những khuyết tật tự thân không thể sửa chữa, đặc biệt về mặt xã hội như: tạo ra bất bình đẳng về thu nhập, chênh lệch mức sống và các tệ nạn xã hội… Trong bối cảnh đó, NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi công bằng và giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh. Vai trò đó được thể hiện thông qua các hoạt động thu chi của NSNN, việc điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giảm bớt những điều bất hợp lý trong phân phối, đảm bảo công bằng tương đối và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Trong thực hiện công bằng, Nhà nước cố gắng tác động theo hai hướng: giảm bớt các thu nhập cao và nâng đỡ các thu nhập thấp để rút ngắn khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Việc giảm bớt thu nhập cao có thể được thực hiện dưới hình thức đánh thuế luỹ tiến vào thu nhập cao (thuế thu nhập cá nhân), đánh thuế tiêu thụ đặc biệt vào những mặt hàng xa xỉ chỉ phục vụ cho một nhóm nhỏ giàu có trong xã hội (thuế ô tô, rượu bia, thuốc lá, xì gà, nước hoa…). Còn việc nâng đỡ các thu nhập thấp được thực hiện dưới hình thức giảm thuế và/hoặc trợ giá cho những mặt hàng thiết yếu như lương thực, điện, nước và trợ cấp xã hội cho những người có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn. Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, Nhà nước thông qua NSNN để tài trợ cho các loại hình dịch vụ công như giáo dục, y tế, văn hoá, các chương trình việc làm, chính sách dân số, xoá đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng…. III. Những nội dung thu, chi chủ yếu của NSNN 1. Thu NSNN Là việc NN dùng quyền lực của mình tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia để hình thành quỹ NSNN. Như vậy, có thể thấy sự tồn tại, phát triển của NN là điều kiện xuất hiện các khoản thu ngân sách và ngược lại, các khoản thu ngân sách là tiền đề tài chính giúp NN thực hiện nghĩa vụ của mình. Các khoản thu NSNN bao gồm: - Thu từ khai thác và bán các nguồn tài nguyên thiên nhiên - Thu từ thuế và phần nộp ngân sách từ các khoản phí, lệ phí - Thu từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của NN: thu hồi vốn, thu hồi tiền cho vay, thu nhập từ vốn góp - Thu từ mở rộng cung tiền - Vay nợ, viện trợ - Các khoản thu từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân Trang 6 - Các khoản thu khác 2. Chi NSNN Chi NSNN là việc chi tiêu của Nhà nước cho các mục tiêu công theo những định hướng nhất định. Nói cách khác, đó là việc phân bổ và sử dụng quỹ NSNN để thực hiện các chức năng của NN theo các nguyên tắc nhất định đã được quy định trước. Các khoản chi NSNN bao gồm: - Chi thường xuyên - Chi đầu tư phát triển - Chi trả nợ, cho vay - Chi bổ sung quỹ dự trữ - Chi khác IV. Tiêu chuẩn của một ngân sách tốt: Một ngân sách tốt phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Đảm bảo kỷ luật ngân sách, đảm bảo hiệu quả và cho phép thoả mãn nhu cầu của cộng đồng; - Phải có tầm nhìn dài hạn và chỉ ra được hiệu quả của các lựa chọn công; - Dự báo trước các khoản thu và nhiệm vụ chi tiêu để xây dựng chính xác kế hoạch thu, chi; - Đảm bảo có sự tham gia của cộng đồng và thể hiện được các lợi ích khác nhau; - Đảm bảo tính công khai, minh bạch để ngăn chặn tình trạng thất thoát, trốn thuế hoặc lạm dụng chi tiêu công; - Đảm bảo tính bền vững của ngân sách: Cho phép dễ dàng nắm bắt mục tiêu, thách thức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh những thay đổi của môi trường. V. Một số vấn đề trong quản lý ngân sách bền vững Quản lý ngân sách bền vững cần lưu ý một số vấn đề sau: - Phải tăng cường quy trách nhiệm và công khai ngân sách (gắn kết quả thực hiện với trách nhiệm của cá nhân, tập thể sử dụng và/hoặc ra quyết định sử dụng NSNN). Trang 7 - Đảm bảo tính công khai minh bạch trong quản lý ngân sách (thông tin rõ ràng, đúng lúc, phân định rõ vai trò và trách nhiệm, đồng thời chỉ rõ những chỉ tiêu, chính sách và các khoản mục ưu tiên nhằm giảm thiểu nguy cơ tham nhũng, thất thoát do sử dụng ngân sách không hiệu quả). - Tạo lập tầm nhìn trong trung hạn và dài hạn cho ngân sách (đảm bảo tính dự báo của ngân sách, chú trọng yếu tố phương pháp, chiến lược của quản lý NSNN để tránh nguy cơ đưa ra những dự toán NSNN không đúng, không sát với thực tế, hoặc đẩy các khoản chi ra ngoài phạm vi xem xét). VI. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý NSNN Quản lý tốt NSNN phải đáp ứng bốn nguyên tắc sau: 1. Tính trách nhiệm: Tính trách nhiệm gồm có 2 bộ phận cấu thành là (1) trách nhiệm giải trình về các hoạt động ngân sách và (2) lường trước các tác động có thể xảy ra khi đưa ra các quyết định về ngân sách. Tính trách nhiệm được xem xét trên hai khía cạnh: trách nhiệm đối với cơ quan quản lý cấp trên và trách nhiệm đối với công chúng, xã hội. Muốn tăng cường trách nhiệm giải trình đòi hỏi phải phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong chính phủ đối với NSNN. Nói cách khác, tăng cường trách nhiệm giải trình phải được gắn liền với quá trình quy trách nhiệm trong quản lý ngân sách. 2. Tính minh bạch Tính minh bạch có nghĩa là mọi thông tin về tài chính và ngân sách đều phải được công khai hoá, đảm bảo cho mọi tầng lớp dân cư có thể tham gia theo dõi và giám sát các hoạt động ngân sách. Minh bạch tài chính ở đây không chỉ là việc công bố các thông tin về ngân sách, mà còn phải đảm bảo tính tin cậy, kịp thời và dễ hiểu của các thông tin đó. Tính minh bạch được xem là cơ sở thiết yếu cho việc cải tiến công tác quản lý tài chính theo hướng nâng cao hiệu quả và hiệu lực. 3. Tính tiên liệu: tạo ra cho ngân sách tầm nhìn trung và dài hạn Tính tiên liệu thể hiện ở chỗ mọi đạo luật hay quy định về ngân sách phải rõ ràng, có tính dự báo và được thực thi một cách thống nhất, liên tục. Tính tiên liệu giúp các cơ quan công quyền cũng như khu vực tư nhân đưa ra được những định hướng tốt cho chiến lược phát triển quốc gia, chiến lược phát triển của ngành, vùng và chiến lược phát triển của đơn vị, từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn cho hoạt động của mình. Trang 8 4. Sự tham gia của xã hội Các hoạt động của Nhà nước nhằm mục đích phục vụ xã hội. Vì vậy, một ngân sách tốt phải phản ánh được lợi ích của đông đảo tầng lớp, bộ phận, cộng đồng dân cư vào trong các chính sách và hoạt động thu, chi ngân sách. Sự tham gia của xã hội, người dân vào công tác quản lý NSNN được thực hiện trong suốt chu trình ngân sách, từ khâu lập dự toán, chấp hành đến quyết toán ngân sách. Sự tham gia đầy đủ của xã hội không chỉ thể hiện rõ nguyên tắc dân chủ trong quản lý ngân sách, mà còn giúp làm cho ngân sách minh bạch hơn, các thông tin trong ngân sách trung thực, chính xác hơn. Đồng thời, việc tăng cường sự tham gia của người dân sẽ tạo điều kiện giúp nguời dân, xã hội thực thi quyền giám sát của mình đối với các hoạt động của NN. Trang 9 CHƯƠNG II TÌNH HÌNH THỰC HIỆN DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2011, 2012 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA I. Tình hình thu, chi ngân sách năm 2011, 2012: Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, nhằm thực hiện tốt dự toán NSNN năm 2011 cũng như các nhiệm vụ được giao, Bộ Tài chính đã ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 11 (Quyết định số 527/QĐ-BTC ngày 01/03/2011). VIệc đề ra các giải pháp kịp thời đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ thu chi NSNN năm 2011 và 2012: 1. Thu ngân sách 2011 và 2012 Theo ước tính của Bộ Tài chính, tổng thu NSNN năm 2011 ước đạt 674.500 tỷ đồng, đạt 113,4% dự toán, tăng xấp xỉ 21% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó: + Thu nội địa ước 390.000 tỷ đồng, đạt 102% dự toán năm, tăng 16,6% so cùng kỳ 2010 (trong đó: tính đến hết tháng 11/2011, thu từ kinh tế quốc doanh đạt 89,1% dự toán, tăng 12,1% so cùng kỳ; thu khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 98,7% dự toán, tăng 23,7% so cùng kỳ; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 94,0% dự toán, tăng 15,3% so với cùng kỳ; thuế thu nhập cá nhân đạt 119,7% dự toán, tăng 45,4% so cùng kỳ; các khoản thu từ nhà và đất đạt 135,9% dự toán, tăng 7,8% so với cùng kỳ...).Cần lưu ý rằng theo yêu cầu hỗ trợ các gia đình và doanh nghiệp vượt qua bất ổn của năm 2011, đã có hàng loạt các chính sách miễn giảm, gia hạn thời gian nộp thuế của một số sắc thuế như thuế Thu nhập các nhân, thuế TNDN ( giảm 30 % số thuế phải nộp năm 2011 đối với DNNVV, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực ưu tiên…). + Thu từ dầu thô cả năm 2011 ước 100.000 tỷ đồng, đạt 144,3% dự toán, tăng 35,9% so với cùng kỳ; + Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, thu NSNN từ xuất nhập khẩu ước 186.833 tỷ đồng, đạt 99% dự toán năm, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm 2010) bất chấp chính sách hạn chế nhập khẩu và giảm, miễn thuế đối với nhập khẩu xăng dầu những tháng đầu năm. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng do nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động từ tăng kimngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, thay đổi tỷ giá đồng Việt Nam và các giải pháp mạnh nhằm chống thất thu thuế của Bộ Tài chính. Trang 10 Thu NSNN cả năm 2011 ước tính có thể tăng 23,4% so với năm 2010, đây là con số cao thứ nhì trong 5 năm gần đây (chỉ thấp hơn mức 27,2% của năm 2008). Tuy nhiên, cũng phai lưu ý là nếu tính đến tỷ lệ lạm phát cao của năm 2011 thì kết quả này không thật sự nổi trội so với các năm gần đây. Năm 2012: Dự toán thu NSNN cả năm 2012 là 740.500 tỷ đồng, lũy kế thu cả năm ước đạt 742.380 tỷ đồng, đạt 100,3% dự toán. Trong đó, thu nội địa 459.480 tỷ đồng, thu từ dầu thô đạt 144.400 tỷ đồng, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 131.500 tỷ đồng, thu viện trợ đạt 7.000 tỷ đồng. 2. Chi ngân sách 2011, 2012: Tổng chi NSNN (kể cả trả nợ và chuyển nguồn cho năm 2012) lũy kế cả năm 2011 ước đạt 796.000 tỷ đồng, trong đó chi NSNN không bao gồm trả nợ khoảng 732.000 tỷ đồng, bằng 101% dự toán năm. So với dữ liệu tương ứng của cùng kỳ năm 2010, con số thực hiện năm 2011 đã tăng 19%, thấp hơn đôi chút so với tốc độ tăng thu tương ứng. Điều này phản ánh thực tế là khi lạm phát cao thì thu ngân sách cao hơn nhưng chi ngân sách cũng tăng lên rất mạnh. Tuy nhiên việc tốc độ tăng chi chỉ xấp xỉ lạm phát cho thấy cố gắng rất lớn trong điều hành chính sách tài khóa 2011 của Chính phủ vì nhiều năm gần đây tốc độ tăng chi thường cao hơn nhiều tốc độ lạm phát. Ước tính cả năm tổng chi cho đầu tư phát triển đạt 175.000 tỷ, chỉ tăng 2,34 % so với cùng kỳ 2010. Đây là một con số rất đáng khích lệ trong bối cảnh lạm phát cao. Bên cạnh việc đảm bảo cấp phát, thanh toán vốn đầu tư theo dự toán năm, công tác thanh toán vốn cho các dự án từ nguồn trái phiếu Chính phủ cũng được chú trọng. Chi trả nợ, viện trợ luỹ kế 11 tháng đạt 93.410 tỷ đồng, bằng 108,6% dự toán, tăng 18,6% so cùng kỳ năm 2010, đảm bảo thanh toán đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ đã cam kết. Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh (bao gồm chi cải cách tiền lương) luỹ kế 11 tháng đạt 442.890 tỷ đồng, bằng 94,4% dự toán, tăng 26,3% so cùng kỳ năm 2010; các nhiệm vụ chi NSNN được đảm bảo thực hiện phù hợp với tiến độ thực hiện và dự toán năm được giao. Ước tính cả năm 2011 chi thường xuyên đạt 535.100 tỷ, tăng 21 % so với dự toán năm và tăng 23 % so với cùng kỳ năm 2010. Điều này một phần do lạm phát làm tăng chi tiêu và một phần để thực hiện tăng lương và các chính sách an sinh xã hội của Chính phủ năm 2011. Trang 11 So sánh 5 năm gần đây cho thấy việc tuân thủ dự toán chi cân đối NSNN năm 2011 là khá tốt. Chi NSNN tuân thủ khá tốt dự toán Ngân sách 2011 đã được phê chuẩn với mức vượt thấp nhất trong 5 năm gần đây. Điều này phản ánh việc ban hành Nghị quyết 11 về cắt giảm chi NSNN đã có tác dụng nhất định đến chi tiêu ngân sách năm 2011. Số liệu so sánh 5 năm gần đây cho thấy năm 2011 có tỷ lệ bội chi thực tế so với dự toán thấp nhất, ước khoảng 4,9% GDP trong khi dự toán bội chi NSNN năm 2011 mà Quốc hội cho phép là 5,3%GDP. Việc thực hiện chặt chẽ và giám sát hiệu quả hơn các quy định về chi tiêu NSNN là những lý do giải thích cho việc giảm bội chi ngân sách. Về chi NSNN 2012, lũy kế cả năm là 905.250 tỷ đồng, đạt 100,2% dự toán. Trong đó: chi đầu tư phát triển đạt 191.791 tỷ đồng, chi trả nợ và viện trợ đạt 100.000 tỷ đồng, chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 613.359 tỷ đồng. Bội chi NSNN năm 2012 giữ ở mức Quốc hội quyết định là 4,8% GDP. II. Đánh giá chung Từ tình hình thu chi NSNN năm 2011 và 2012 có thể rút ra một số nhận định như sau: Một là, sự chỉ đạo điều hành kịp thời của Chính phủ trước những biến động của nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện dự toán NSNN. Việc Bộ Tài chính ban hành Chương trình hành động nhằm thực hiện Nghị quyết 11 là nguyên nhân quan trọng giải thích cho sự thành công của năm tài khóa 2011 và 2012. Hai là, trong bối cảnh kinh tế khó khăn thì việc tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới cần đặc biệt được quan tâm. Ba là, cần có những hướng dẫn cụ thể chi tiết để các bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi nhằm tiết kiệm thường xuyên. Bốn là, cần chủ động và tích cực trong việc phối hợp các bộ, ngành rà soát toàn bộ các dự án đầu tư, kiến nghị kịp thời Thủ tướng Chính phủ các biện pháp xử lý, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài. Trang 12 Có thể nói, công tác tổ chức điều hành NSNN đã được triển khai tích cực, chủ động; trong điều kiện thu khó khăn, công tác quản lý chi NSNN được tăng cường, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả; nghiêm túc thực hiện chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong chi thường xuyên; hạn chế tối đa việc bổ sung ngoài dự toán và ứng vốn, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chi NSNN, đảm bảo chi ngân sách đúng chế độ, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư phát triển. Qua đó, NSNN đã đảm bảo nguồn đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi theo dự toán; đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ chi về đảm bảo quốc phòng, an ninh và chi các sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, đảm bảo xã hội; phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh... Trang 13 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH BỀN VỮNG TRONG CÂN ĐỐI THU CHI NGÂN SÁCH NĂM 2013 VÀ NHỮNG NĂM SAU I. Cơ hội và thách thức với thực hiện dự toán ngân sách năm 2013 và những năm sau: 1. Cơ hội Phân tích tình hình kinh tế và dự toán NSNN năm 2013, có thể thấy việc thực hiện thu NSNN có một số thuận lợi như sau: Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ có thể thoát ra khỏi giai đoạn suy giảm vào giữa năm 2013, góp phần làm tăng thu ngân sách. Năm 2013, hệ số ICOR theo mục tiêu giảm (từ gần 6,7 lần xuống 5,5 lần), do tỷ lệ vốn đầu tư/GDP giảm xuống (30% so với 33,5%), do tốc độ tăng trưởng GDP cao lên (5,5% so với 5,03%); tốc độ tăng năng suất lao động cũng cao lên (năm 2012 tăng gần 2,3%, mục tiêu năm 2013 tăng lên 2,7%). Theo ước tính, nếu GDP năm 2013 tăng trưởng đạt 5,5 – 6% thì tăng thu NSNN có thể tăng từ 9-10% so với thực hiện năm 2012, tức là đạt mức theo dự toán. Thứ hai, các DN và cả nền kinh tế được kỳ vọng sẽ từng bước hồi phục khi lạm phát được kiểm soát và lãi suất cho vay giảm đi. Các biện pháp hỗ trợ DN qua miễn, giảm thuế sẽ từng bước có tác dụng khôi phục lại hoạt động của DN. Điều này góp phần vào việc tăng nguồn thu cho NSNN. Hơn nữa, do lạm phát năm 2012 thấp nên việc lập dự toán thu theo số danh nghĩa cho năm 2013 cũng không bị thổi phồng như đã xảy ra với dự toán năm 2012. Nói cách khác là dự toán thu NSNN năm 2013 sẽ sát với thực tiễn hơn. Thứ ba, một số sắc thuế mới có hiệu lực như thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế bảo vệ môi trường sẽ làm tăng nguồn thu cho NSNN. Thứ tư, việc tiếp tục thực hiện các giải pháp theo Chương trình hành động của Bộ Tài chính nhằm thực hiện Nghị quyết 11/CP trong đó tập trung vào việc chống thất thu thuế, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế sẽ tạo điều kiện cho việc tăng thu NSNN. Hơn nữa, các giải pháp thực hành tiết kiệm chi thường xuyên trong kế hoạch này và thực hiện chỉ thị 1792/ CT-TTg của Chính phủ về việc tăng cường quản lý đầu tư từ vốn NSNN và trái phiếu chính phủ giai đoạn 2012-2015 sẽ là cơ sở cho việc thực hiện tốt dự toán chi NSNN năm 2013 và những năm sau. 2. Thách thức Bên cạnh những cơ hội, thực hiện dự toán ngân sách những năm sau cũng sẽ đối mặt với những thách thức không nhỏ. Trang 14 Thứ nhất, rủi ro của các yếu tố bên ngoài có thể tác động xấu đến tăng trưởng làm giảm nguồn thu NSNN. Kinh tế Việt Nam hiện nay đang phụ thuộc khá lớn vào tình hình biến động của kinh tế thế giới (độ mở của nền kinh tế, tính theo quy mô ngoại thương/ GDP trong giai đoạn gần đây lên đến 150%). Tăng trưởng của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu khi kinh tế khu vực EU và Mỹ khó khăn thì kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Theo dự báo của IMF vào tháng 12/2012 thì kinh tế thế giới sẽ chỉ tăng trưởng 3,6% trong năm 2013 và nhóm các nước phát triển chỉ tăng trưởng ở mức 1,6 %. Thứ hai, nguồn thu giảm do chính sách miễn giảm thuế của Chính phủ: Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013, tháo gỡ khó khăn cho DN trong đó có gia hạn thời hạn nộp thuế, miễn, giảm thuế TNDN. Việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân mới với sự thay đổi về ngưỡng chiết trừ gia cảnh và thang thu nhập chịu thuế dự kiến sẽ làm giảm thu NSNN. Thu thuế xuất nhập khẩu cũng có thể giảm đi khi Việt Nam tiếp tục cắt giảm thuế suất theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hoạt động xuất nhập khẩu bị tác động của suy giảm tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện tái cơ cấu hệ thống DNNN và hệthống các NHTM sẽ đòi hỏi chi phí không nhỏ. Về ngắn hạn, các chính sách này có thể làm giảm nguồn thu đồng thời làm tăng chi NSNN, do vậy, sẽ ảnh hưởng đến dự toán về bội chi NSNN. Hơn nữa, nguồn thu từ dầu thô sẽ khó tăng khi dự báo giá dầu năm 2012 sẽ ít biến động, thậm chí có thể giảm nếu kinh tế thế giới rơi vào suy thoái. Thứ ba, rủi ro kinh tế khiến một số nguồn thu khó đạt dự toán Thứ tư, chi tiêu NSNN không dễ dàng cắt giảm. Việc cắt giảm chi tiêu từ NSNN cũng không dễ do: (i) lạm phát làm tăng giá các sản phẩm (trong đó có các sản phẩm dịch vụ phục vụ cho hoạt động của Nhà nước); (ii) do lợi ích của các bên trong sử dụng ngân sách; (iii) do phải tiếp tục hoàn thiện các dự án dang dở từ nhiều năm trước. Thứ năm, việc giải quyết nợ xấu trong hệ thống các ngân hàng thương mại và của hệ thống DN sẽ đòi hỏi chi phí không nhỏ. Về ngắn hạn, các chính sách này có thể làm giảm nguồn thu từ thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân. Thứ sáu, vấn đề dự báo thu chi ngân sách dựa trên số danh nghĩa. Việc dự báo thu ngân sách năm sau trong lập dự toán thường được xem xét trên cơ sở số thu năm hiện hành. Như đã đề cập ở trên, số thu NSNN năm Trang 15 2011, 2012 tăng mạnh do có phần không nhỏ từ lạm phát cao và thay đổi tỷ giá. Do vậy, dự toán số thu cao của năm 2013 dựa trên kết quả thu thực tế năm 2012 sẽ có những rủi ro nhất định. II. Một số giải pháp: Theo dự toán NSNN năm 2013 đã được Quốc hội phê chuẩn thì số thu cân đối ngân sách dự kiến là 816.000 tỷ đồng, trong đó thu nội địa là 545.500 tỷ đồng (thu từ nhà đất dự kiến là 45.707 tỷ đồng), thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 166.500 tỷ đồng và từ dầu thô là 99.000 tỷ đồng, bội chi dự kiến là 162.000 tỷ đồng, tương đương 4,8 % GDP. Một trong những nguồn thu quan trọng là thu NSNN từ dầu thô cũng sẽ khó tăng khi dự báo giá dầu năm 2013 sẽ ít có biến động mạnh, thậm chí có thể giảm đi nếu tình hình khu vực Trung Đông ổn định. Thị trường bất động sản chưa khởi sắc sẽ làm nguồn thu từ đất đai tiếp tục khó đạt mục tiêu đặt ra. Theo dự toán, thu NSNN từ đất đai năm 2013 tăng 7,7 % so với dự toán 2012, song trong bối cảnh hiện nay và thực tế tình hình năm 2013 thì cũng sẽ không dễ thực hiện được số thu này. Bài học từ thực tiễn điều hành thu NSNN năm 2012 và những năm trước đây cho thấy để thực hiện tốt dự toán thu NSNN năm 2013, cần tiếp tục hoàn thiện các giải pháp sau: Một là, cần tiếp tục thực hiện phương châm “khoan sức dân, nuôi dưỡng nguồn thu”, bởi tỷ lệ giữa tổng thu NSNN/GDP, mặc dù đã giảm so với năm trước (còn 25,1%), nhưng vẫn còn cao hơn so với định hướng 22- 23%. Ngành Tài chính cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành khác thực thi các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi tối đa cho DN, tạo niềm tin vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vượt qua giai đoạn khó khăn. Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế ở tất cả các khâu, các bộ phận, các lĩnh vực, đảm bảo phương châm hành động theo Tuyên ngôn ngành Thuế :“Minh bạch, chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới” đi vào thực chất. Tổ chức thực hiện tốt 02 Luật thuế mới sửa đổi bổ sung có hiệu lực trong năm 2013; tham mưu trình Bộ Tài chính, Chính phủ ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn và triển khai thực hiện tuyền truyền, phổ biến rộng rãi trong xã hội; đồng thời nâng cấp đồng bộ ứng dụng công nghệ thông tin; bổ sung, sửa đổi quy trình quản lý để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý thuế. Theo dự toán NSNN năm 2013 đã được Quốc hội phê chuẩn, số thu cân đối ngân sách dự kiến 816.000 tỷ đồng, trong đó thu nội địa là 545.500 tỷ đồng (thu từ nhà đất dự kiến là 45.707 tỷ đồng), thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 166.500 tỷ đồng và từ dầu thô là 99.000 tỷ đồng, bội chi dự kiến là 162.000 tỷ đồng, tương đương 4,8 % GDP. Trang 16 Ba là, kiểm soát chặt chẽ nguồn thu ngân sách, thường xuyên kiểm tra, rà soát để nắm bắt kịp thời số lượng, tình trạng hoạt động của DN, hộ kinh doanh trên địa bàn để đưa vào diện quản lý. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu ngân sách, chú trọng việc thanh tra đối với các chuyên đề như: chuyển giá, thương mại điện tử, kinh doanh qua mạng, hoàn thuế, hộ kinh doanh cá thể; thanh tra đối với các DN lớn, DN có vốn đầu tư nước ngoài. Bốn là, đẩy mạnh áp dụng các biện pháp thu nợ và cưỡng chế nợ thuế nhằm hạn chế nợ mới phát sinh, động viên kịp thời nguồn lực cho NSNN. Năm là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế nhằm cắt giảm chi phí tuân thủ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để DN phát triển sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh triển khai thực hiện các đề án thuộc Chiến lược phát triển hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020, đảm bảo lộ trình và yêu cầu đã đề ra. Sáu là, cần tạo lập lại và duy trì ổn định trong hệ thống chính sách luật pháp liên quan đến đầu tư và thu hút đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sách thuế đối với ngành công nghiệp ô tô cần hướng đến việc tăng số lượng đối tượng nộp thuế để bù đắp sự sụt giảm về thuế suất do lộ trình gia nhập vào các tổ chức quốc tế. Cụ thể, thuế suất nhập khẩu oto nguyên chiếc loại từ 9 chỗ trở xuống hiện nay đang ở mức 83%, theo lộ trình cam kết giữa Việt Nam và các nước ASEAN thì mức thuế này sẽ giảm xuống 0% vào năm 2018, và theo lý thuyết thì Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn “oto hóa” vào khoảng năm 2020-2022, như vậy chúng ta cần có sự tính toán để đến lúc đó, doanh số thuế nội địa (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế GTGT) trong tiêu thụ oto sẽ đảm bảo bù đắp được mức sụt giảm nguồn thu từ nhập khẩu oto mà không làm ảnh hưởng đến sức mua của dân chúng. Bảy là, Cần có cơ chế kiểm soát giá đầu vào đối với các doanh nghiệp FDI để triệt để ngăn chặn tình trạng chuyển giá làm thất thu thuế của Nhà Nước. Tám là, tuyệt đối hóa đối tượng nộp thuế GTGT thông qua việc hoàn thiện cơ chế, chính sách thanh toán không dùng tiền mặt. Cần có cơ chế tuyên truyền từng bước, dần tiến tới luật hóa mọi giao dịch trong nền kinh tế phải thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng thương mại; có cơ chế khuyến khích giai đoạn đầu, tiến tới bắt buộc thực hiện ở giai đoạn sau đối với việc trang bị các thiết bị thanh toán qua ngân hàng (POS) ở tất cả các hộ kinh doanh có giấy phép và cả kinh doanh nhỏ lẻ. Năm 2010, nguồn thu từ thuế GTGT chiếm 28-30% tổng thu thuế nhà nước, và thực tế thì rất nhiều đối tượng chịu thuế GTGT đã không nộp đủ thiền thuế vào cho NSNN do thanh toán không dùng tiền mặt và không cần đến hóa đơn chứng từ. Trang 17 Làm một phép tính đơn giản, mỗi một người dân bình quân tiêu dùng hết 50.000 đồng cho chi tiêu sinh hoạt hàng ngày, nếu họ phải chịu mức tối thiểu 5% thuế GTGT tương đương với 2.500 đồng, tính trên dân số khoảng 90 triệu dân như hiện nay thì con số thuế GTGT có thể thu về hàng năm cỡ khoảng 80x1012 đồng (tám mươi nghìn tỷ đồng), tương đương 10% dự toán thu NSNN năm 2013; đó là chưa tính đến một lượng lớn thuế GTGT phát sinh do tiêu dùng của khối doanh nghiệp và xây dựng cơ bản tạo ra. Trang 18 C. KẾT LUẬN Mặc dù bối cảnh kinh tế những năm qua có nhiều bất ổn song bức tranh ngân sách về tổng quan có thể coi là thành công. Thu NSNN vẫn tăng và ước đạt trên 20% dự toán. Chi NSNN đã từng bước được thắt chặt dù nhu cầu chi tiêu phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội vẫn rất lớn. Bội chi NSNN thấp hơn 5% GDP và thấp hơn nhiều mức dự toán 5,3% cho năm 2011 và 4,8% năm 2012. Đây là cố gắng rất lớn của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách tài khóa những năm qua. Việt Nam hiện đã trở thành một nước có thu nhập trung bình (tuy đang ở nhóm khởi đầu), điều đó đồng nghĩa với việc mức chi tiêu của người dân sẽ tăng lên và mức đóng góp vào NSNN thông qua các sắc thuế cũng sẽ tăng tương ứng. Tuy nhiên để tránh rơi vào bẫy của các nước thu nhập trung bình thì vấn đề khoan sức dân và làm sao để dân chúng đóng góp ngày càng nhiều vào NSNN mà không có cảm giác bị thuế khóa đè nặng lên vai họ là một nhiệm vụ mang tầm chiến lược cần được đặt ra và thực thi ngay từ bây giờ. Với những giải pháp như đề tài đã đưa ra, nếu được thực thi có hiệu quả thì hy vọng thu NSNN trong năm 2013 và những năm tiép theo sẽ từng bước được nâng cao và nền tài chính quốc gia của Việt Nam sẽ ngày càng lớn mạnh. Trang 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS. Nguyễn Ngọc Thao, Tài liệu Tài chính công, Hà Nội 2010. 2. GS-TS Hồ Xuân Phương, PGS-TS Nguyễn Công Nghiệp, Tài chính Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, NXB Tài chính, 2001. 3. Văn phòng Chính phủ, Báo cáo đánh giá bổ sung về kết quả thực hiện Ngân sách Nhà nước năm 2010, tình hình triển khai thực hiện và những giải pháp điều hành Ngân sách Nhà nước năm 2011. 4. Văn phòng Chính phủ, Báo cáo về việc Quốc hội thông qua Nghị quyết về phân bổ Ngân sách Trung ương năm 2011. 5. Bộ Tài chính, Báo cáo hướng dẫn triển khai nhiệm vụ tài chính – ngân sách năm 2011. 6. Bộ Tài chính, Báo cáo tóm tắt công tác quản lý, điều hành giá cả, tài chính – ngân sách năm 2010, nhiệm vụ, giải pháp năm 2011. 7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo tóm tắt bổ sung tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. 8. Nguyễn Thanh Liêm, Quản trị tài chính, NXB Thống kê, 2007. Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan