Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất của đảng ở tỉnh vĩnh phúc từ năm 1955 đế...

Tài liệu Thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất của đảng ở tỉnh vĩnh phúc từ năm 1955 đến năm 1957

.PDF
96
340
67

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ NGUYỄN THỊ HIỀN THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT CỦA ĐẢNG Ở TỈNH VĨNH PHÚC TỪ NĂM 1955 ĐẾN NĂM 1957 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ NGUYỄN THỊ HIỀN THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT CỦA ĐẢNG Ở TỈNH VĨNH PHÚC TỪ NĂM 1955 ĐẾN NĂM 1957 Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS LÊ THỊ QUỲNH NGA Hà Nội – 2015 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Quỳnh Nga. Các số liệu, kết quả sử dụng trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Các kết luận của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 25/12/2014 Nguyễn Thị Hiền MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu .................................. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................... 4 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ....................................... 4 6. Bố cục của luận văn ............................................................................. 5 Chương 1: VĨNH PHÚC TRƯỚC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ CHỦ TRƯƠNG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT ........................................................ 6 1.1. Vĩnh Phúc trước cải cách ruộng đất ................................................ 6 1.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất trước năm 1945 ................................ 6 1.1.2. Cải cách từng phần và thành quả ở Vĩnh Phúc trước năm 1953 14 1.2. Quyết định phóng tay triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất ................................................................................................................ 24 1.2.1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương IV (01 - 1953) và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương V (11 - 1953)............................................ 24 1.2.2. Phát động chiến dịch “Điện Biên Phủ”, chống phong kiến ........ 26 Tiểu kết ........................................................................................................ 29 Chương 2: CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT Ở TỈNH VĨNH PHÚC (1955 - 1956)......31 2.1. Thực hiện triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất ......... 31 2.1.1. Các đợt triệt để giảm tô, giảm tức ................................................. 31 Bảng 2.1. Thống kê tình hình chia quả thực trong giảm tô đợt 6.......... 35 2.1.2. Tiến hành cải cách ruộng đất đợt 3 và đợt 4 ................................ 38 Bảng 2.2. Thống kê tình hình dân số, bình quân ruộng đất chiếm hữu và sử dụng của các giai cấp trước và sau cải cách ruộng đất ở xã ........ 43 Nguyệt Đức - Yên Lạc ............................................................................ 43 2.2. Kiểm tra lại cải cách ruộng đất...................................................... 44 Tiểu kết ........................................................................................................ 47 Chương 3: SAI LẦM VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SỬA SAI (1956 - 1957)...... 48 3.1. Một số sai lầm ................................................................................. 48 3.1.1. Sai lầm trong việc phân định thành phần giai cấp, tư tưởng thành phần chủ nghĩa ...................................................................................... 48 3.1.2. Sai lầm trong chỉnh đốn tổ chức .................................................. 51 3.1.3. Sai về phương pháp thực hiện, nặng đấu tố, nhẹ giáo dục .......... 54 3.2. Quá trình sửa chữa sai lầm ............................................................ 56 3.2.1. Chủ trương sửa sai của Trung ương Đảng .................................. 56 3.2.2. Công tác sửa sai ở Vĩnh Phúc ...................................................... 63 Tiểu kết ........................................................................................................ 73 KẾT LUẬN ................................................................................................. 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 76 PHỤ LỤC.................................................................................................... 86 DANH SÁCH BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Thống kê tình hình chia quả thực trong giảm tô đợt 6............... 35 Bảng 2.2. Thống kê tình hình dân số, bình quân ruộng đất chiếm hữu và sử dụng của các giai cấp trước và sau cải cách ruộng đất ở xã ...................... 43 Nguyệt Đức - Yên Lạc ................................................................................. 43 Bảng 2.3. Thống kê địa chủ, phú nông sai và đúng trong cải cách ruộng đất ..................................................................................................................... 67 Bảng 2.4. Tình hình kiện toàn tổ chức trong sửa sai ................................. 70 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cải cách ruộng đất là cuộc cách mạng to lớn nhằm xóa bỏ chế độ chiếm hữu phong kiến về ruộng đất, thực hiện quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân, giành quyền làm chủ thực sự cho nhân dân lao động ở nông thôn về mọi mặt. Cuộc cách mạng này có tầm quan trọng về lý luận và thực tiễn lớn lao với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Vĩnh Phúc đã tiến hành một cuộc cách mạng trong nông nghiệp nhằm chia lại ruộng đất cho quần chúng nhân dân. Công cuộc cải cách ruộng đất ở Vĩnh Phúc đã đạt được một số kết quả; song quá trình thực hiện cũng mắc phải nhiều sai lầm nghiêm trọng. Việc đánh giá về công cuộc cải cách ruộng đất ở nước ta có nhiều ý kiến khác nhau và được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, nhưng vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về quá trình tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành công cuộc cải cách ruộng đất ở địa phương. Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm đa số trong xã hội. Ruộng đất là yêu cầu sống còn đối với mỗi người nông dân. Nhưng thực tế hiện nay, ruộng đất phần lớn bị bỏ hoang, tài nguyên đất đai đang có chiều hướng suy giảm làm ảnh huởng đến sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Nghiên cứu về vấn đề ruộng đất ở thế kỷ XX, đặc biệt là phương thức kinh doanh từ ruộng đất của giai cấp địa chủ lúc bấy giờ không chỉ giúp chúng ta có cái nhìn khách quan hơn về giai cấp địa chủ mà còn hiểu được cách thức kinh doanh hiệu quả của họ. Phương thức này nếu áp dụng phù hợp sẽ có tác dụng lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói riêng, xã hội Việt Nam nói chung. Với lý do đó, tôi đã chọn đề tài: “Thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1955 đến năm 1957” làm đề tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng của mình. Trong khuôn khổ của luận văn, tôi tập trung nghiên cứu về quá trình tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện chủ trương, đường lối của 1 Đảng, thực hiện cải cách ruộng đất (1955 - 1957), quá trình sửa sai và bước đầu đưa ra những nhận xét, đánh giá. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Với đề tài cải cách ruộng đất, tính đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, tổng kết và in thành sách như: Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam của Hoàng Ước, Lê Đức Bình, Trần Phương (Nxb Khoa học, 1968); Vấn đề dân cày của Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp (Nxb Sự thật, 1959); Đánh giá đúng những thắng lợi của nhiệm vụ phản phong và những sai lầm của cải cách ruộng đất của Văn Phong (Nxb Sự thật, 1956); Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam của Lâm Quang Huyên (Nxb Khoa học xã hội, 2007). Có những nghiên cứu được công bố trên tạp chí như: Cải cách ruộng đất thành quả và những sai lầm của Văn Tạo (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2 năm 1993); Cải cách ruộng đất với chiến thắng Điện Biên Phủ của Trương Thị Tiến (Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5 năm 1984), Tìm hiểu chính sách ruộng đất của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) của Lê Thị Quỳnh Nga (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 năm 2007), Chủ trương của Đảng về vấn đề ruộng đất (1945 - 1952) của Ths Lý Việt Quang (Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4 năm 2009), Ý nghĩa việc thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng với chiến thắng Điện Biên Phủ” của Trương Thị Tiến và Lê Thị Quỳnh Nga (Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8 năm 2004),… Dựa vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, các công trình khoa học trên đã tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề ruộng đất như: vấn đề chủ trương, thành quả, sai lầm trong cải cách ruộng đất, nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong cải cách ruộng đất…; đồng thời có đi sâu nghiên cứu, phân tích và có những nhận định riêng về chính sách ruộng đất của Đảng. Ngoài ra, còn một số công trình luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ và khóa luận cử nhân cũng nghiên cứu về cải cách ruộng đất ở các địa phương như: Luận án tiến sỹ: “Quá trình thực hiện chủ trương cách mạng ruộng đất 2 của Đảng ở tỉnh Thanh Hóa 1945 - 1947” của Lê Thị Quỳnh Nga, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội; Luận văn thạc sỹ lịch sử “Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo thực hiện cải cách ruộng đất 1955-1957” (2006) của Cao Văn Đan, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội; Sách “Quá trình thực hiện quyền sở hữu ruộng đất cho nhân dân (19451957) (2002) của Nguyễn Duy Tiến. Những công trình này nghiên cứu quá trình thực hiện cải cách ruộng đất ở các địa phương, góp phần làm rõ việc thực hiện chủ trương ruộng đất của Đảng ở từng địa phương, từ đó rút ra những đánh giá xác đáng hơn về cải cách ruộng đất. Mặc dù các công trình trên đã đề cập tới nhiều khía cạnh của vấn đề ruộng đất nhưng chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về cải cách ruộng đất ở Vĩnh Phúc. Vì vậy, khi thực hiện luận văn “Thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1955 đến năm 1957” tác giả có điều kiện đánh giá, chọn lọc và kế thừa những thành quả nghiên cứu đi trước để có được cái nhìn khách quan về cải cách ruộng đất; đồng thời mở rộng, đi sâu nghiên cứu về vấn đề ruộng đất ở Vĩnh Phúc, chỉ ra được nguyên nhân của những sai lầm nghiêm trọng khi thực hiện chính sách cải cách ruộng đất, từ đó làm cơ sở định hướng cho thực hiện chính sách sau này. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Khái quát quá trình thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Vĩnh Phúc (1955 - 1957) từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá xác đáng, có giá trị về quá trình thực hiện chủ trương trên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tập hợp và hệ thống những nguồn tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, phê phán phân tích theo số liệu. - Hệ thống hóa chủ trương về cải cách ruộng đất và quá trình diễn ra ở tỉnh Vĩnh Phúc. 3 - Rút ra một số nhận xét, đánh giá về cải cách ruộng đất tại tỉnh Vĩnh Phúc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Chủ trương, biện pháp thực hiện cải cách ruộng đất của Đảng và quá trình diên ra các đợt giảm tô, cải cách ruộng đất và kết quả của nó. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Hoàn cảnh lịch sử và tình hình ruộng đất ở tỉnh Vĩnh Phúc - Nghiên cứu quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng ruộng đất trên toàn tỉnh Vĩnh Phúc từ giảm tô, giảm tức đến cải cách ruộng đất (và sửa chữa sai lầm) trong những năm 1955 - 1957. 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu - Tài liệu đã công bố: Văn kiện Đảng toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập; Các công trình khoa học, tạp chí, sách báo nghiên cứu về vấn đề cải cách ruộng đất; những Nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Trung ương Đảng và Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc. - Tài liệu lưu trữ tại: Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Thư viện Quốc gia Hà Nội, Trung tâm lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp lịch sử là chủ yếu nhằm mô tả đúng sự thật lịch sử diễn ra ở Vĩnh Phúc. Sử dụng phương pháp lôgic, phân tích, tổng hợp nhằm đánh giá chính xác những chủ trương, biện pháp cải cách ruộng đất ở Vĩnh Phúc và kết quả. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, lập bảng nhằm trình bày những kết quả đã đạt được trong quá trình tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện chính sách ruộng đất. 4 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương: Chương 1: Vĩnh Phúc trước cải cách ruộng đất và chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng Chương 2: Cải cách ruộng đất ở tỉnh Vĩnh Phúc (1955 - 1956) Chương 3: Sai lầm và quá trình thực hiện sửa sai (1956 - 1957) 5 Chương 1: VĨNH PHÚC TRƯỚC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ CHỦ TRƯƠNG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT 1.1. Vĩnh Phúc trước cải cách ruộng đất 1.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất trước năm 1945 Điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội tỉnh Vĩnh Phúc Vĩnh Phúc nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, là miền chuyển tiếp, cầu nối giữa các tỉnh miền núi Việt Bắc với Thủ đô Hà Nội; nằm ở vị trí 21035’ đến 21006’ vĩ Bắc và 106019’ đến 106048’ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang với đường ranh giới là dãy núi Tam Đảo; phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ; phía Nam giáp thành phố Hà Nội; phía Đông giáp hai huyện Sóc Sơn và Đông Anh (Hà Nội). Với vị trí là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước, ngay từ rất sớm, nhân dân Vĩnh Phúc đã sớm tiếp thu những ảnh hưởng tích cực của phong trào yêu nước, kháng chiến chống xâm lược, giải phóng quê hương. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, từ khi vua Hùng dựng nước cho đến nay, địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã trải qua biết bao thay đổi về địa giới hành chính: Thời Hùng Vương, địa bàn Vĩnh Phúc nằm trong bộ Văn Lang, trung tâm của nước Văn Lang. Thời Thục An Dương Vương lập ra nước Âu Lạc, Vĩnh Phúc thuộc huyện Mê Linh. Dưới thời Bắc Thuộc, Vĩnh Phúc nằm trong địa bàn quận Mê Linh, Tân Xương, Phong Châu. Đến thời phong kiến độc lập, đơn vị hành chính là các đạo (lộ, trấn, xứ, tỉnh), dưới là các phủ, châu, huyện, thay thế cho chế độ quận, huyện thời trước, vùng đất Vĩnh Phúc thuộc lộ Đông Đô, Bắc Giang và trấn Tuyên Quang. Đầu triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, địa bàn Vĩnh Phúc nằm trong trấn Kinh Bắc, Sơn Tây và Thái Nguyên. Năm Minh 6 Mạng thứ 12 (1831), cuộc cải cách hành chính được tiến hành đã đổi tất cả trấn trong cả nước thành tỉnh. Lần đầu tiên đơn vị hành chính tỉnh xuất hiện ở nước ta. Địa bàn Vĩnh Phúc thuộc 3 tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh và Thái Nguyên. Năm 1832, phân phủ Vĩnh Tường được thành lập kiêm lý hai huyện Yên Lạc và Yên Lãng. Ngày 20 tháng 10 năm 1890, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập đạo Vĩnh Yên, gồm: huyện Bình Xuyên tách từ phủ Phú Bình (Thái Nguyên) và toàn bộ phủ Vĩnh Tường. Ngày 06 tháng 10 năm 1901, toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập tỉnh Phù Lỗ. Đến năm 1904, tỉnh lỵ Phù Lỗ dời lên làng Tháp Miếu, phủ Yên Lãng và từ đó đổi tên tỉnh là Phúc Yên. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, thực hiện chủ trương của Chính phủ, các tỉnh đều bỏ cấp tổng, các làng xã nhỏ hợp nhất thành xã lớn và bỏ tên phủ, gọi chung là huyện. Tháng 2 năm 1950, hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên hợp nhất thành một tỉnh, lấy tên gọi là tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1950, khi hợp nhất tỉnh, Vĩnh Phúc có diện tích 1.715 km2 với dân số gần 47 vạn người, bao gồm 14 dân tộc anh em cùng sinh sống, đông nhất là người Kinh, chiếm 98,38% dân số. Đồng bào các dân tộc thiểu số sống rải rác ở 17 xã dọc dãy núi Tam Đảo và Sáng Sơn của 5 huyện: Tam Dương, Bình Xuyên, Lập Thạch, Kim Anh và Đa Phúc. Đại bộ phận nhân dân theo đạo Phật, có gần 2 vạn người theo đạo Thiên Chúa sống rải ở 72 xã, 2 thị xã, trong đó có 26 thôn Công giáo toàn tòng [4, tr. 15]. Ngày 29 tháng 1 năm 1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết 504, quyết định hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú, lấy Việt Trì làm tỉnh lỵ của tỉnh. Đến ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết “Về việc chia và chuyển địa giới hành chính một số tỉnh”, trong đó có việc tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, tỉnh Vĩnh Phúc chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1997. 7 Là miền chuyển tiếp, cầu nối giữa các tỉnh miền núi phía Bắc với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, địa hình Vĩnh Phúc hình thành ba vùng tương đối rõ rệt: rừng núi, đồi gò và đồng bằng. Vùng rừng núi nằm ở phía Bắc tỉnh, tiếp giáp với núi rừng của hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang. Vùng đồng bằng nằm ở phía nam tỉnh bao gồm các huyện Mê Linh, Vĩnh Tường, Yên Lạc. Giữa vùng rừng núi và vùng đồng bằng là vùng đồi gò xen kẽ nhau từ đông sang tây. Trong đó, hai dãy núi quan trọng là: dãy Tam Đảo (ngọn cao nhất 1.591 m) và dãy Sáng Sơn cao 633 m. Vĩnh Phúc có nhiều sông lớn chảy qua: sông Lô ở phía Tây dài 37 km. Sông Hồng chảy từ phía Tây xuống phía Nam dài 40 km. Ngoài ra, một hệ thống các con sông nhỏ chảy từ chân núi Tam Đảo xuống vùng đồng bằng và các đầm hồ lớn nằm ở phía Nam như: đầm Vạc, đầm Rượu, đầm Đông Mật, đầm Rưng… Do liền kề với thủ đô Hà Nội nên tỉnh Vĩnh Phúc là đầu mối của các tuyến đường quan trọng như: quốc lộ số 2 Hà Nội - Hà Giang (dài hơn 50 km), 2B Vĩnh Yên đi khu nghỉ mát Tam Đảo hay các đường nội tỉnh như đường 12, 13, 23, 40, 129… với tổng chiều dài hơn 200 km cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân trong tỉnh. Cư dân Vĩnh Phúc có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú, nhiều tôn giáo cùng tồn tại và phát triển như: Phật giáo, Nho giáo, Công giáo. Ngoài ra, các tín ngưỡng cổ truyền như thờ thành hoàng làng, thờ cúng tổ tiên cũng được duy trì. Hình tượng ngôi “Đình làng” không chỉ là nơi thờ thành hoàng làng, là nơi tế tự và hội họp, mà còn là nơi mở hội làng, nơi thể hiện tình đoàn kết xóm làng rất mạnh mẽ. Trước cách mạng tháng Tám, nhân dân sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp. Từ sau ngày hòa bình lập lại, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, cơ cấu nền kinh tế Vĩnh Phúc có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ. 8 Dân cư Vĩnh Phúc phân bố không đều: dân số thưa thớt, chỉ tập trung ở một số vùng có điều kiện thuận lợi. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do điều kiện sinh sống khó khăn, ăn ở không hợp vệ sinh, dịch bệnh, mặt khác do Vĩnh Phúc là nơi có nhiều căn cứ của nhiều cuộc khởi nghĩa, thực dân Pháp đàn áp dã man, làm cho nhân dân phải lưu tán đi khắp nơi. Hiện nay, mật độ dân số Vĩnh Phúc khá cao so với mật độ dân số trung bình cả nước; dân số trong độ tuổi lao động chiếm hơn 60%, đây là nguồn nhân lực dồi dào cho phát triển kinh tế - xã hội. Sau khi đánh chiếm xong nước ta, song song với việc xây dựng bộ máy hành chính, thực dân Pháp tăng cường lực lượng quân sự đàn áp. Đồn bốt của Pháp được dựng lên ở nhiều nơi như: Liễn Sơn, Tam Đảo, Bạch Hạc… Tại các vùng chiếm đóng, chúng tăng cường vơ vét tài nguyên, trắng trợn cướp đoạt ruộng đất của nông dân để lập đồn điền và thi hành chính sách thuế khóa nặng nề nhằm bóc lột tới xương tủy người nông dân. Trải qua một thời gian dài xây dựng, củng cố và đấu tranh, từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 8 năm 1945, hàng chục vạn đồng bào các dân tộc Vĩnh Yên, Phúc Yên theo lời hiệu triệu của Trung ương Đảng và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhất tề vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Chính quyền từ tỉnh đến làng xã - vấn đề cơ bản của cách mạng, đã về tay nhân dân lao động. Xiềng xích phong kiến hàng nghìn năm và ách thống trị thực dân đè nặng hơn 60 năm trên quê hương Vĩnh Phúc đã bị dập tan; hơn 50 vạn đồng bào các dân tộc trong hai tỉnh được đổi đời, từ thân phận nô lệ trở thành người “làm chủ”. Từ năm 1950, trên địa bàn Vĩnh Yên - Phúc Yên, địch đã chiếm đóng hầu hết các vị trí trong tỉnh với một hệ thống đồn bốt kiên cố và các ban tề khá ổn định. Ngày 11 tháng 4 năm 1950, Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị cán bộ tại thôn Thản Sơn, xã Liễn Sơn, huyện Lập Thạch. Hội nghị đã tổng kết toàn diện cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị, quân sự với địch trong thời gian vừa 9 qua và đề ra nhiệm vụ đấu tranh trong tình hình mới. Đồng thời, Tỉnh ủy đã thống nhất chủ trương đưa cán bộ, đảng viên, bộ đội và dân quân du kích từ vùng tự do trở về vùng địch hậu, tiếp tục bám đất, bám dân để phục hồi và xây dựng cơ sở lãnh đạo nhân dân chống lại âm mưu thủ đoạn của địch. Hội nghị tỉnh ủy tháng 10 năm 1951 đã quyết định xây dựng “căn cứ du kích” ở các huyện như Bình Xuyên, Yên Lạc, Yên Lãng, Đông Anh, Kim Anh, bởi đây là những nơi có cơ sở mạnh, nhân dân một lòng tin theo kháng chiến, địa hình thuận lợi, lực lượng của địch tương đối yếu, dễ bị tan rã trước những đòn tấn công của ta. Việc xây dựng căn cứ du kích là một chiến lược trong đường lối quân sự của Đảng. Bởi vì đây không chỉ là nơi có cơ sở vững chắc, lực lượng vũ trang mạnh, có khả năng đánh trả những trận càn quét của địch, mà còn có khả năng phối hợp với bộ đội địa phương đánh và tiêu diệt địch. Từ năm 1950 trở đi, các lực lượng vũ trang phát triển mạnh và tăng cường hoạt động, tấn công tiêu diệt các đồn bốt của địch, mở rộng vùng giải phóng trong toàn tỉnh. Bước sang năm 1953, trên chiến trường sau lưng địch ở đồng bằng Bắc Bộ, phong trào chiến tranh du kích ngày càng phát triển, ta luôn giành được ưu thế về binh lực và quyền chủ động tiến công. Sau gần 100 ngày chiến đấu liên tục, quân dân Vĩnh Phúc đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, đánh thắng địch trên cả 3 mặt: quân sự, chính trị và kinh tế. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến thắng lịch sử điểm Điện Biên Phủ đã làm nức lòng quân dân cả nước và bạn bè khắp năm châu, đồng thời làm dao động tinh thần binh lính địch. Nhân cơ hội đó, theo chỉ thị của Trung ương và Liên khu ủy Việt Bắc, các cuộc tấn công địch tại Vĩnh Phúc liên tiếp diễn ra, làm tan rã hệ thống ngụy quân, ngụy quyền, buộc địch phải đầu hàng. Theo tinh thần của Hiệp định Giơnevơ và Hội nghị quân sự Trung Giã, từ ngày 27 tháng 7 đến ngày 8 tháng 10 năm 1954, thực dân Pháp lần lượt rút quân khỏi 10 Vĩnh Phúc. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Vĩnh Phúc đã giành được thắng lợi. Quê hương được hoàn toàn giải phóng. Tình hình sở hữu ruộng đất trước năm 1945 Ruộng đất của địa chủ Trước khi thực dân Pháp xâm lược, chế độ phong kiến với phương thức bóc lột “địa tô” của giai cấp địa chủ đã tồn tại hàng ngàn năm trên quê hương Vĩnh Phúc. Từ khi đặt ách xâm lược trên đất nước Việt Nam nói chung, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, thực dân Pháp không xóa bỏ phương thức bóc lột “địa tô” - hiện thân của chế độ phong kiến lỗi thời mà càng tạo điều kiện, dung dưỡng cho giai cấp địa chủ tiếp tục tồn tại dưới hình thức “tay sai”, sử dụng phương thức bóc lột cũ nhằm kìm hãm sự phát triển của dân tộc. Dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp, mọi mặt đời sống nhân dân Vĩnh Phúc nói chung và tình hình ruộng đất nói riêng đã có nhiều thay đổi. Thực dân Pháp đã trắng trợn cướp đất, khuyến khích, tạo điều kiện cho bọn tư sản Pháp và một số địa chủ người Việt chiếm đoạt ruộng đất của nông dân để lập đồn điền. Vĩnh Yên và Phúc Yên là hai tỉnh có nhiều đồn điền lớn ở Bắc Kỳ. Đồn điền của người Pháp được chia làm nhiều hoại hình sở hữu khác nhau như: tiểu đồn điền, đồn điền loại vừa và đại đồn điền. Theo thống kê của công sứ Phúc Yên báo cáo gửi thống sứ Bắc Kỳ năm 1930 thì tỉnh Phúc Yên có 43.281 ha ruộng đất, 3 tên địa chủ người Pháp là Gobert, Đờ Perétti, Benlăng đã chiếm 11.067 ha, đặc bệt có tên Courret đã chiếm hơn 5.000 ha lập đồn điền; ở tỉnh Vĩnh Yên, thống kê năm 1933 cho biết toàn tỉnh có 21 đồn điền của chủ người Pháp chiếm 1.863 ha, riêng tên Rinê chiếm 1.520 ha; công ty Điền thổ và công ty Địa ốc ngân hàng Trung Bắc Kỳ chiếm 1.802 ha; đồn điền của địa chủ Hoa kiều chiếm 2.424 ha ruộng đất. Ngoài ra, còn nhiều tên địa chủ Pháp cũng chiếm số ruộng đất khá lớn, nhưng không lập đồn điền, mà chủ yếu phát canh thu tô [4, tr. 30]. 11 Dựa vào và được thực dân Pháp nuôi dưỡng cùng với lối canh tác tiểu nông, phân tán của tầng lớp nông dân nghèo đã tạo điều kiện cho địa chủ thâu tóm, tập trung ruộng đất trong tay. Một số đồn điền của địa chủ phong kiến lớn không kém đồn điền của địa chủ người Pháp như: Nguyễn Hữu Cự 6.000 ha, Đỗ Đình Thông hơn 2.000 ha (Phúc Yên); Đỗ Đình Thuật 3.870 ha, Trần Viết Soạn 2.000 ha (Vĩnh Yên)… Ngoài ra, một bộ phận địa chủ nhỏ không đủ sức lập đồn điền nhưng cũng chiếm hữu ruộng đất của nông dân để phát canh thu tô. Bên cạnh đó, ruộng công và ruộng nhà chung cũng chiếm tới 29.146 mẫu; ruộng của ngoại kiều 4.909 mẫu so với tổng số ruộng đất trong toàn tỉnh Vĩnh Phúc. Như vậy, tổng số ruộng đất do bọn thực dân Pháp, địa chủ người Hoa, người Việt và ruộng công, ruộng nhà chung đã lên đến 70% diện tích ruộng đất toàn tỉnh. Hình thức bóc lột của địa chủ trong các đồn điền chủ yếu là địa tô và nhân công. Tá điền được địa chủ giao trâu và giao ruộng để cày cấy, đến vụ thu hoạch tá điền phải trả công trâu và nộp địa tô. Có nhiều loại tô khác nhau như: tô rẽ, tô đóng, tô đồng loạt, tô nhân công, tô phụ… Lấy đồn điền của địa chủ Phan Khánh ở Đa Phúc làm ví dụ: ngoài khoản tô rẽ, tô đóng theo quy định, mỗi tá điền phải nộp tô khống (ruộng có 6 mẫu nhưng bắt gánh tô của 7 mẫu), mỗi năm phải đi làm không công cho địa chủ 39 ngày công, đến ngày giỗ, tết hàng năm, tá điền phải góp tiền mua lễ, biếu các sản phẩm như ngô, khoai, chuối, đậu…[5]. Ngoài các loại tô như trên, địa chủ còn bóc lột tá điền bằng cách cho vay nặng lãi - một hình thức bóc lột mới của địa chủ từ khi lệ thuộc vào Pháp và được thực dân Pháp dung dưỡng. Ruộng đất của nông dân Nông dân lao động chiếm trên 90% dân số nhưng chỉ có 30% diện tích canh tác. Bị mất ruộng đất, bần cùng hóa người nông dân chỉ còn con đường đi làm tá điền cho địa chủ, hoặc bỏ làng đi làm phu trong các hầm mỏ, đồn 12 điền cao su Nam Kỳ. Bình quân mỗi nhân khẩu có 4 sào 01 thước ruộng đất, 309 kg hoa lợi. Do địa chủ đã chiếm đoạt hết ruộng đất nên bình quân diện tích mỗi khẩu chỉ trên dưới 2 sào, có nơi toàn là tá điền cấy thuê ruộng của địa chủ. Trước khi thực dân Pháp đặt ách cai trị lên đất nước Việt Nam, giai cấp địa chủ duy trì sự tồn tại của mình bằng cách cho nông dân thuê ruộng cày cấy và bóc lột bằng tô, thuế. Được Pháp dung dưỡng, giai cấp địa chủ ngoài việc duy trì ách áp bức bóc lột địa tô còn phải tìm cách quản lý, kinh doanh ruộng đất sao cho có lợi cho đế quốc thực dân và có lợi cho mình. Giai cấp địa chủ bóc lột người nông dân lao động bằng chính sách thuế khóa nặng nề. Thuế có nhiều loại như: thuế đinh, thuế điền…và thuế mỗi ngày một tăng bất kể được mùa hay mất mùa. Ngoài các loại thuế trên, ở Phúc Yên, có nơi quản ấp còn bắt tá điền nộp “thuế trâu” mỗi năm 1đ00. Ở Vĩnh Yên, có làng gặp khi nhà địa chủ có giỗ, tá điền phải nộp một phương gạo (40 đấu gạo) hay đến ngày mùa, tá điền phải làm hầu địa chủ mỗi mẫu 4 ngày và trong 4 ngày đó, địa chủ chỉ cho cơm ăn mà không trả công. Tá điền khi đến nhà địa chủ phục dịch, tự coi mình như là đầy tớ, có khi bị địa chủ chửi mắng, đánh đập mà vẫn phải chịu nhẫn nhục vì nếu phản kháng lại địa chủ rút ruộng không cho thuê nữa [38, tr. 45]. Để bóc lột kiệt cùng sức lao động của nông dân, có địa chủ khi thu tô lấy đoạn ruộng tốt nhất trong toàn khoảnh làm căn cứ để thu tô, nên tính ra có thửa người lĩnh canh phải nộp tô đến 80% sản lượng thu hoạch, có thửa lên đến 100%, thậm chí có thửa lên tới hơn 100% [92]. Thuế khóa đủ loại và ngày càng tăng đã đem lại cho bọn thực dân nguồn thu lớn, còn đối với người nông dân lại là một tai họa. “Mỗi khi đến vụ thuế là xôn xao làng xóm. Nhiều người cùng khốn không chạy ra tiền phải bỏ làng trốn đi nơi khác để tránh những sự hành hạ dã man. Năm 1936, làng Bích Đại 6 người trốn, làng Đồng Vệ 7 người trốn, làng Thanh Vân 1 người trốn” [38, tr. 61]. 13 Như vậy, trước năm 1945, trong bức tranh về tình hình ruộng đất ở Vĩnh Phúc nổi bật lên là hình ảnh người nông dân không có ruộng đất canh tác, phải nhận ruộng của giai cấp địa chủ cày cấy nộp tô, thuế. Giai cấp địa chủ chủ yếu là sở hữu nhỏ, vừa thuê ruộng đất của thực dân Pháp để duy trì ách áp bức bóc lột đối với người nông dân, vừa phải tìm cách kinh doanh trên chính những mảnh đất bằng hình thức cho vay nặng lãi để tiếp tục duy trì sự thống trị của mình. Hình thức bóc lột địa tô không còn nguyên vẹn là địa tô của chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm, mà thay vào đó là phương thức bóc lột theo lối địa tô thực dân - cho vay nặng lãi. Chính hình thức bóc lột này đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình “bần cùng hóa” của người nông dân lao động trong xã hội. Sự thay đổi về phương thức bóc lột cùng với việc lệ thuộc chặt chẽ vào thực dân Pháp của giai cấp địa chủ lúc bấy giờ làm thay đổi đối tượng của cách mạng: là đế quốc thực dân Pháp xâm lược. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ mà nhân dân đang tiến hành cần tập trung vào đối tượng duy nhất là ách xâm lược của thực dân Pháp, lật nhào được sự thống trị ấy thì ách áp bức bóc lột địa tô không còn nhiều cơ sở để tồn tại. 1.1.2. Cải cách từng phần và thành quả ở Vĩnh Phúc trước năm 1953 Chủ trương cải cách từng phần (1945 - 1952) Ngay sau khi thành lập, chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới khai sinh đã phải đối mặt với nạn thù trong, giặc ngoài: miền Bắc, khoảng 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch, gồm 4 đoàn quân do tướng Lư Hán làm tổng chỉ huy, lũ lượt kéo vào đóng ở Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16, với ý đồ tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, tạo điều kiện cho lực lượng tay sai lên nắm chính quyền. Tại miền Nam, tình hình còn phức tạp hơn khi quân đội Anh với danh nghĩa giải giáp quân Nhật đồng lõa, giúp cho thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai ngày 23 tháng 9 năm 1945. Trong khi đó lực lượng về mọi mặt của nước ta chưa kịp củng cố và phát triển. Mọi ngành kinh tế ngừng trệ, bế tắc. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan