Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chính sách tuyển dụng công chức tại các cơ quan hành chính nhà nước th...

Tài liệu Thực hiện chính sách tuyển dụng công chức tại các cơ quan hành chính nhà nước thuộc trung ương hiện nay

.PDF
89
240
148

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM MINH TUẤN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM MINH TUẤN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG HIỆN NAY Chuyên ngành : Chính sách công Mã số : 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS Bùi Nguyên Khánh HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Chính sách công về" Thực hiện chính sách tuyển dụng công chức tại các cơ quan hành chính nhà nước thuộc trung ương hiện nay" là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Phạm Minh Tuấn MỤC LỤC MỞ ĐẦU………………………………………….……………………...…………1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC………………………………………………………..……..7 1.1. Lý luận về chính sách và thực hiện chính sách tuyển dụng công chức của các cơ quan hành chính nhà nước..........................................................................................7 1.2. Khái niệm hoạt động công vụ, công chức và tuyển dụng công chức…................8 1.3. Thực hiện chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay……………………………….……………….……………….….....16 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC TRONG CAC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG HIỆN NAY………………………………….…………..……...37 2.1. Khái quát cơ cấu công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương hiện nay……………………………………..………...………………….......37 2.2. Tình hình thực hiện chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương…………………………………….……….….....…41 Chương 3: HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở TRUNG ƯƠNG ………………………………………….……..63 3.1. Phương hướng và mục tiêu hoàn thiện chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Trungương……..………..…..….……...…….63 3.2. Hoàn thiện việc thực hiện chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước tại Trung ương………………….….………….……………66 KẾT LUẬN…..........................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………… DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HCNN: Hành chính Nhà nước TDCC: Tuyển dụng công chức XHCN: Xã hội chủ nghĩa CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CV: Chuyên viên CVC: Chuyên viên chính CVCC: Chuyên viên cao cấp UBND: Ủy ban nhân dân HĐND: Hội đồng nhân dân CCHC: Công chức hành chính UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng bảng Trang 1.2.2 Sơ đồ tác động của chính sách tuyển dụng công chức 15 1.3.1 Sơ đồ chủ thể thực hiện chính sách tuyển dụng công chức 27 2.1.1 Cơ cấu và chất lượng đội ngũ công chức 38 2.1.2 Cơ cấu ngạch và chất lượng đội ngũ công chức ở cơ quan HCNN thuộc Trung ương 39 2.2.1 Thông báo tuyển dụng của một số Bộ, ngành 42 2.2.2 Kết quả nhận biết người có tài trong quá trình tuyển dụng 55 2.2.3 Sơ đồ đánh giá chủ thể thực hiện chính sách tuyển dụng công chức 58 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở tất cả các quốc gia trên thế giới, nhân tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của công việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [21;tr.26]. Quá trình cách mạng hơn 80 năm qua, trong từng thời kỳ, Đảng ta luôn đề ra chiến lược, nghị quyết về công tác cán bộ, công chức nhằm lựa chọn những người có phẩm chất chính trị, chuyên môn cao để phục vụ đất nước. Hiện nay, Nhà nước ta đang tiến hành cải cách hành chính quốc gia, nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,từng bước hiện đại; trong đó, nội dung xây dựng, tuyển dụng và sử dụng đội ngũ công chức hành chính có đủ phẩm chất và năng lực là một nội dung mang tính tiên quyết. Chính vì vậy, Chương trình tổng thể cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2011-2020 nhấn mạnh tầm quan trọng của đội ngũ công chức gắn với cải cách thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính, cải cách tài chính công theo hướng “hoàn thiện quy định của phát luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, sở trường, năng lực của công chức, viên chức” [8] bên cạnh chính sách về đánh giá, nâng ngạch, khen thưởng kỷ luật và các chế độ tiền lương của công chức. Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế nước ta có những bước phát triển mới thì nền hành chính của nước nhà vẫn còn chuyển biến chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Chúng ta đã và đang thực hiện chính sách tổng thể cải cách hành chính. Trong đó có nhiều nội dung, nhưng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng cao là khâu khó khăn nhất trong lộ trình cải cách hành chính. Bởi lẽ, cán bộ, công chức là cái gốc của mọi công việc, công việc có thành công hay thất bại phụ thuộc trước hết vào đội ngũ công chức. Công chức Nhà nước là đội ngũ tiên phong, mang trọng trách lớn trong việc tổ chức và thực thi chính sách pháp luật, làm cho chính sách pháp luật đi vào cuộc sống. Việc tuyển chọn những người có đủ đức, đủ tài, vừa hồng, vừa chuyên như Bác Hồ đã 1 dạy để làm cho đất nước ngày càng phát triển và tiến bộ là một thách thức lớn trong quá trình cải cải hành chính. Muốn tuyển chọn được một đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng thì phải xây dựng chính sách và thực thi chính sách tuyển dụng (từ khâu hoạch định đến tổ chức thực hiện chính sách) một cách thật sự khoa học, tiến bộ. Hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu quả hay không đều phụ thuộc vào năng lực, trách nhiệm của đội ngũ công chức hành chính và trước hết, là khâu tuyển dụng đội ngũ này. Do vậy, việc hoàn thiện chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan HCNN để đảm bảo công chức có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, phù hợp với nhu cầu của xã hội mới, có ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ với công việc, có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Với nhận thức trên, người viết chọn đề tài “Thực hiện chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương hiện nay” làm nội dung nghiên cứu của luận văn thạc sỹ chuyên ngành chính sách công. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Do tầm quan trọng của việc tuyển dụng cán bộ, công chức hành chính nhà nước, cho đến nay, có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về tuyển dụng, xây dựng, nâng cao đội ngũ cán bộ công chức nhà nước nói chung và cán bộ công chức trong lĩnh vực thực thi chính sách nói riêng như: “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm, Nxb Chính trị quốc gia 2003; các tác giả đã đúc kết, đưa ra các quan điểm, định hướng trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung; “Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới” của tác giả TS. Thang Văn Phúc, TS Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu Huyền, Nxb Chính trị quốc gia, 2004. Đây là công trình nghiên cứu về tổ chức nhà nước, bộ máy 2 nhà nước, bộ máy hành chính, lịch sử nền công vụ, chế độ quản lý công chức ở các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới. Công trình cũng đưa ra các ưu điểm, hạn chế ở mỗi nước để làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; “Về chế độ công vụ Việt Nam” do PGS.TS Nguyễn Trọng Điều chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2007; đây là công trình nghiên cứu về công chức, công vụ và các cơ sở khoa học để hoàn thiện chế độ công vụ ở Việt Nam; đề tài phân tích một cách có hệ thống về lý luận và thực tiễn của chế độ công vụ và cải cách công vụ Việt Nam qua từng thời kỳ, có tham chiếu các mô hình công vụ một số nước tiêu biểu cho các thể chế chính trị khác; “Pháp luật về công vụ, công chức của Việt Nam và một số nước trên thế giới” của TS Trần Anh Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, 2011.Cuốn sách đề cập đến những vấn đề pháp lý của hoạt động công vụ Việt Nam từ 1946 đến nay và so sánh các chế định pháp luật công chức ở Việt Nam với các chế định pháp luật của một số nước trên thế giới, trong đó có các vấn đề pháp lý về tuyển dụng công chức. Luận án TS “Thu hút và trọng dụng tài năng trong các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam” của tác giả Trần Văn Ngợi, 2015; Bài viết của PGS. TS Đinh Ngọc Giang, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2016 về Công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ, công chức, viên chức hiện nay; Bài viết của ThS. Thạch Thọ Mộc, Viện Khoa học tổ chức nhà nước về Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng và đánh giá đội ngũ công chức ở nước ta hiện nay; Bài viết của ThS. Phạm Tuấn Doanh, Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức – Bộ Nội vụ về Quy định về tuyển dụng công chức và một số giải pháp hoàn thiện; Các tác phẩm và công trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh chính sách công và pháp luật về một nền công vụ, công chức; các luận cứ khoa học cho việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng từ công chức; so sánh và đề xuất việc tiếp thu các chính sách về công chức ở các nước trên thế giới cho Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu việc thực hiện chính tuyển dụng công chức ở 3 Việt Nam với tư cách là một loại chính sách tác động trực tiếp đến hoạt động công vụ ở các cơ quan HCNN ở Trung ương. Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài luận văn: “Thực hiện chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương hiện nay” sẽ góp phần nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ thêm lý luận và thực tiễn của chính sách TDCC nói chung và TDCC ở các cơ quan HCNN ở Trung ương nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách cán bộ, công chức và tuyển dụng công chức; phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách TDCC trong các cơ quan hành chính Nhà nước ở trung ương hiện nay, hiệu quả thực hiện và để từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp, một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách TDCC ở các cơ quan HCNN ở Trung ương. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chính sách cán bộ, công chức và tuyển dụng công chức; - Phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách TDCC, hiệu quả thực hiện chính sách TDCC trong các cơ quan hành chính Nhà nước ở trung ương hiện nay; - Phương hướng, giải pháp, một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách TDCC ở các cơ quan HCNN ở Trung ương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: + Nghiên cứu việc thực hiện chính sách TDCC ở các cơ quan HCNN ở Trung ương; + Nghiên cứu các giải pháp và công cụ thực hiện chính sách TDCC dưới góc độ khoa học chính sách công 4 * Phạm vi nghiên cứu: + Không gian: Chính sách tuyển dụng công chức mới vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương. + Thời gian: Nguồn để phân tích thực trạng trong khoảng thời gian 2013 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận - Luận văn sử dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và vận dụng triệt để phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành. - Phương pháp luận của duy vật biện chứng, duy vật lịch sử trong nghiên cứu khoa học 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích và tổng hợp, được sử dụng để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước và các bộ, ngành ở Trung ương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của các Bộ, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách tuyển dụng. Đồng thời, thu thập các số liệu của các tổ chức và học giả quốc tế liên quan đến đề tài trong thời gian qua. - Phương pháp thu thập so sánh số liệu: thu thập, tìm hiểu và vận dụng các lý thuyết của các chính sáchxã hội liên quan đến chính sách tuyển dụng. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn * Ý nghĩa lý luận: - Đề tài có ý nghĩa về mặt lý luận và vận dụng các lý thuyết về chính sách công để làm rõ vấn đề khoa học và thực tiễn của chính sách TDCC hành chính. - Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ, minh chứng cho các vấn đề liên quan đến thực hiện chính sách công, từ đó đưa ra phương hướng, các đề xuất, giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tuyển dụng công chức ở các cơ quan HCNN Trung ương. * Ý nghĩa thực tiễn: - Luận văn nghiên cứu và thực hiện chính sách tuyển dụng công chức nói chung dựa trên những phân tích, đánh giá thực trạng tình hình thực thi chính sách tuyển dụng CCHC ở Việt Nam, cũng như đề xuất một số giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm nâng cao năng lực, kiến thức, kỹ năng và tinh thần trách nhiệm của công chức trong việc thực thi chính sách TDCC tại các cơ quan HCNN ở Trung ương. - Giúp cho các nhà hoạch định chính sách có cơ sở khoa học và thực tiễn vận dụng, điều chỉnh chính sách và tổ chức thực hiện chính sách tuyển dụng ở Bộ, ngành mình một cách hiệu quả hơn. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách và thực hiện chính sách tuyển dụng công chức của các cơ quan hành chính nhà nước Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách tuyển dụng trong các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương hiện nay. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách và thực hiện chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC SÁCH TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.1. Lý luận về chính sách và thực hiện chính sách tuyển dụng công chức của các cơ quan hành chính nhà nước Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị của Đảng cầm quyền nhằm vạch ra những đường hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể quản lý vớicác vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống xã hội để thúc đẩy và quản lý sự phát triển nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định cho trước. Khái niệm Chính sách công được diễn đạt khái quát như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu xác định của đảng chính trị cầm quyền.” Ở nước CHXHCN Việt Nam, Đảng lãnh đạo toàn diện tuyệt đối nhà nước và xã hội (Điều 4, Hiến pháp 2013). Do đó, mọi chính sách phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển con người nhằm xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, thịnh vượng, nhà nước của dân, do dân và vì dân đều được xuất phát từ định hướng mang tính chất chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và các nghị quyết của Đảng, định hướng chính trị này được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm tiền đề, là cơ sở để các cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị triển khai các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình. Nằm trong khuôn khổ sự lãnh đạo của Đảng, chính sách công trước hết phải là một hoạt động của Nhà nước nhằm thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ thể ban hành chính sách là Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền như: Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành và địa phương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Chính sách công được biểu hiện bằng nhiều cấp độ khác nhau: Văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, 7 Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị quyết, Nghị định, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Mục đích cuối cùng nhằm để phát triển và quản lý sự phát triển của xã hội. Cấu trúc của chính sách công gồm 3 bộ phận: Những đường hướng hành động ứng xử (là quan điểm và định hướng chính sách); biện pháp thực hiện chính sách, các công cụ của chính sách; mục tiêu mà chính sách hướng tới. Chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan HCNN là một trong những chính sách công do nhà nước ban hành nhằm thể chế hóa đường lối của Đảng trong hoạt động công vụ thuộc lĩnh vực tuyển dụng nhằm sử dụng và quản lý công chức một cách có hiệu quả. 1.2. Khái niệm công chức và tuyển dụng công chức 1.2.1. Khái niệm công chức Hiện nay, trên thế giới có các quan điểm về công chức như sau: Quan điểm thứ nhất: Theo mô hình XHCN, đồng nhất các hoạt động của Đảng, đoàn thế và lao động trực tiếp của công nhân là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước (bao gồm cả lập pháp, hành pháp và tư pháp), thậm chí cả người làm việc trong các đơn vị sản xuất [23;tr.108,109]. Quan điểm thứ hai: Công chức bao gồm những người làm việc trong bộ máy nhà nước nói chung (các cơ quan lập pháp, hành pháp và xét xử). Quan điểm thứ ba cho rằng công chức bao gồm những người hoạt động trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước và bộ máy phục vụ của cơ quan nhà nước, giữ công vụ thường xuyên, ổn định [34]. Quan điểm thứ tư thuần túy cho rằng công chức chỉ là người làm việc trong các cơ quan HCNN, giữ chức vụ thường xuyên và ổn định [4;tr. 12]. Ở Việt Nam, khái niệm công chức cũng được phát triển và hoàn thiện theo từng thời kỳ lịch sử. 8 Thời kỳ phong kiến, công chức (quan lại) là người phục vụ Vua, phụng sự quốc gia, góp phần vào thực thi thiên mệnh (mệnh lệnh của Vua). Họ được tuyển chọn kỹ lưỡng, chặt chẽ qua các kỳ thi, sát hạch nghiêm khắc. Thời kỳ pháp thuộc, công chức được coi là một nghề, chủ yếu bảo đảm chỗ dựa về mặt vật chất cho bản thân phục vụ người Pháp, nên tình trạng “sáng cắp ô đi, tối cắp về” diễn ra một cách phổ biến. Từ năm 1946 đến nay, qua các thời kỳ, Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đề ra các chính sách xã hội tiến bộ, cùng với đó, chính sách pháp luật về công chức được hoàn thiện. Từ “nhân viên các cấp thuộc cơ quan chính phủ” (Điều 49, Hiến pháp 1946) đến “công chức là những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ” (Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Quy chế công chức). Năm 1991, quan niệm công chức đã được xác định là “những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong công sở nhà nước từ Trung ương đến địa phương, ở trong nước hay ngoài nước, được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp” [19]. Hiến pháp 1992 và 2001 (sửa đổi), Hiến pháp 2013 quy định “cán bộ, công chức, viên chức nhà nước” Khái niệm công chức được quy định rõ tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vụ thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ 9 máy lãnh đạo, quản lý của đơn vụ sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Theo tinh thần của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và phạm vi nghiên cứu đề tài, công chức là những người được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ quan nhà nước thực hiện một số nhiệm vụ, công vụ nhất định và được xếp vào ngạch, bậc, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 1.2.2. Khái niệm tuyển dụng công chức Theo Đại từ điển Tiếng Việt, tuyển dụng là việc “chọn và nhận vào làm việc ở các cơ quan, xí nghiệp; chọn trong số nhiều cùng loại để lấy số lượng nào đó theo yêu cầu, tiêu chuẩn đề ra”. Đối với bộ máy chính quyền nhà nước, việc “tuyển hiền dữ năng” là việc chọn người hiền tài, người có năng lực (chứ không phải chọn vì có quan hệ thân quen) vào các công việc triều chính [35;tr.1700]. Tuyển dụng, bổ sung vào các vị trí công việc cho một cơ quan, tổ chức là hoạt động không thể thiếu được trong hoạt động của bộ máy nhà nước (hoạt động công vụ). Tuyển dụng công chức là một quá trình tìm kiếm và lựa chọn nhân sự theo tiêu chí nhất định để thỏa mãn nhu cầu của cơ quan, tổ chức và bổ sung lực lượng cần thiết nhằm thực hiện các mục tiêu của cơ quan, tổ chức. Sau khi chọn và nhận vào các cơ quan nhà nước, cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào trình độ của họ và ngạch, bậc của cơ quan, tổ chức để sắp xếp vị trí công việc cho phù hợp, nhằm phát huy sử dụng khả năng của công chức và mục đích của công việc đề ra. TDCC có hiệu quả sẽ làm thay đổi kết cấu bên trong của hệ thống hành chính. Từ đầu vào (tuyển dụng) đến xếp vào ngạch, bậc, loại bỏ, thay thế công chức chất lượng thấp đang tồn tại trong bộ máy sẽ kích thích đội ngũ công chức hiện hành phải thay đổi tư duy về kỹ năng nghề nghiệp nhằm tránh bị loại bỏ bởi nguồn lực mới (công chức tuyển dụng mới); đồng thời, góp phần giảm bớt những vị trí không cần thiết hoặc bảo thủ, trì trệ của bộ máy (con ông cháu cha,; bè phái trong hoạt động công vụ; chạy chức, chạy quyền…) 10 Ở nước ta, trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, việc tuyển chọn công chức được các nhà nước (từ phong kiến đến nay) tuy có những khác biệt. Song, việc tuyển dụng, sử dụng vẫn là một quá trình tìm kiếm, lựa chọn người có đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu của bộ máy nhà nước. Từ các triều đại Lý, Trần, Lê… đến các quan chế triều Nguyễn, do ảnh hưởng nặng nề của chế độ Nho giáo và phong kiến Trung quốc, từ các chức sắc trong triều đình đến việc tuyển chọn thông qua các kỳ thi (Hương, Hội, Đình) đã tác động đến chế độ quan lại ở Việt Nam [9;tr.300]. Mục đích mở các khoa thi này là để tuyển chọn thêm người tài bổ sung cho bộ máy quan lại. Sắc dụ 1851 nói rằng “tìm người hiền sĩ như người khát nước, mở khoa, thi trường, thi Hội , lại mở thêm chế khoa để chọn những người anh kiệt, hoặc rẽ cỏ cây mà hái lan huệ, hay đổi áo vải mà cài trâm anh” [27;tr.197;198]. Cùng với chính sách thi tuyển, các triều đại phong kiến Việt Nam cũng đưa ra nhiều chính sách mang tầm quốc gia để kích thích tài năng, bổ sung cho chế độ quan lại như chế độ luân chuyển quan lại, hồi ty, các quyền lợi về cấp phát ruộng đất, lương bổng lộc hàng năm, lệ dưỡng liêm cho tri phủ, tri luyện, chế độ tiền tuất, chế độ cấp triều phục khi về hưu… Tóm lại, trong chế độ khoa cử thời phong kiến, các hình thức khoa cử vẫn là phương pháp cơ bản để đánh giá trình độ và năng lực của mỗi cá nhân thông qua việc học hành và sự tôn trọng của xã hội đối với người có học. Từ sau cách mạng tháng 8 thành công 1945, Đảng nhà nước ta rất quan tâm đến công tác tuyển dụng công chức.Với Sắc lệnh số 76/SL năm 1950, vấn đề tuyển dụng công chức được pháp lý hóa. Từ đây, mọi công dân đều có quyền tham gia bộ máy Nhà nước thông qua tuyển dụng (Chương III, Sắc lệnh 76) quy định: Việc tuyển dụng công chức được tiến hành thông qua các kỳ thi tuyển và phải thành lập hội đồng thi tuyển (Điều 14); các công dân Việt Nam, tuổi từ 18 tuổi trở lên, có hạnh kiểm tốt, đủ sức khỏe, đồng bào thiểu số, cựu thương binh, quân nhân có chiến công sẽ được ưu đãi trong tuyển dụng (Điều 16). Hội đồng tuyển dụng có thẩm quyền đề nghị tuyển bổ đối với những người “có thành tích, kinh nghiệm được bổ vào một ngạch, trật thích đáng” (Điều 20). 11 Thể lệ và chương trình thi vào mỗi ngạch sẽ do nghị định Bộ sở quản ấn định, sau khi thỏa thuận với Bộ Quốc gia giáo dục và Bộ Nội vụ (Điều 17). Như vậy, việc tuyển dụng công chức thời kỳ này đã được quy định theo 2 hình thức: thi tuyển và tuyển bổ (lựa chọn, xem xét theo đề nghị của Hội đồng). Mặc dù Sắc lệnh 76/SL chưa đi vào thực tiễn vì cuộc kháng chiến chống pháp từ 1946 – 1954, nhưng những tư tưởng về chính sách tuyển dụng đã được Nhà nước Việt Nam hết sức quan tâm để lựa chọn công chức trong bộ máy Nhà nước. Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 được sửa đổi năm 2003 dành một chương (Chương IV) quy định việc tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức. Theo đó, tất cả những người được tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước đều phải căn cứ vào “nhu cầu công việc, vị trí công tác của các chức danh trong cơ quan, tổ chức và chỉ tiêu biên chế được giao” và “người được tuyển dụng phải có phẩm chất đạo đức, đúng với tiêu chuẩn nghiệp vụ và phải thông qua kỳ thi tuyển”. (Điều 23, Pháp lệnh 2003 sửa đổi, bổ sung). Đối với việc xét tuyển, Pháp lệnh giao cho Chính phủ quy định.Tuy nhiên, chính sách xét tuyển đã không được Chính phủ ban hành để cụ thể hóa việc xét tuyển. Do đó, việc xét tuyển công chức đã có thời kỳ không được pháp lý hóa, Các cơ quan nhà nước chủ yếu xét tuyển theo tinh thần của Thông tư số 32/TCCBBCTL ngày 20/1/1996 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ). Sự ra đời của Luật Cán bộ, công chức 2008, trong đó có chế định tuyển dụng, sử dụng công chức (Mục 2, Chương IV) là sự đúc kết mang tính khoa học và kế thừa những thành tựu về chính sách công chức trong bộ máy nhà nước, yêu cầu của cái cách hành chính Nhà nước. Đây là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia trong lĩnh vực chính sách công và luật học. Căn cứ khoa học về chính sách cán bộ, công chức, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về TDCC như sau: Tuyển dụng công chức được hiểu là tập hợp các hoạt động nhằm tìm kiếm, thu hút những người mới tham gia dự tuyển và lựa chọn từ 12 nhiều nguồn khác nhau các ứng viên đủ điều kiện, tiêu chuẩn vào làm việc trong các cơ quan HCNN thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển. Theo đó, TDCC ở đây được hiểu theo hai giai đoạn: Thứ nhất là, quá trình thu hút người tham gia dự tuyển; thứ hai là quá trình lựa chọn trong số những người tham gia dự tuyển để đảm nhận những vị trí phù hợp. Quá trình tuyển dụng phải bao gồm: - Xác định nhu cầu nhân sự mới cần đưa vào trong tổ chức; - Thu hút người lao động có các yêu cầu mà tổ chức HCNN cần; - Tuyển chọn người đáp ứng yêu cầu tổ chức trong những người tốt nhất; - Tập sự cho người mới để họ thành thạo nghiệp vụ, kỹ năng hành chính; - Bổ nhiệm chính thức sau tập sự vào các ngạch, bậc hành chính. Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 thì việc tuyển dụng công chức phải thực hiện thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển. Việc thi tuyển công chức phải phù hợp với ngành, nghề, đảm bảo việc lựa chọn được những người có phẩm chất, trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu tuyển dụng. Thi tuyển được thực hiện bằng nhiều hình thức như: thi viết, thi vấn đáp, trắc nghiệm và phỏng vấn. Việc xét tuyển công chức chỉ thực hiện đối với người cam kết tình nguyện làm việc từ 05 năm trở lên ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, cùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Ngoài ra, có những trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng có quy định tại Nghị định 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị định 24/2010/NĐ-CP) về việc người đứng đầu cơ quan quản lý công chức được xem xét, tiếp nhận không qua thi tuyển đối với các trường hợp sau: Người tốt nghiệp thủ khoa tại các cơ sở đào tạo trình độ đại học ở trong nước; người tốt nghiệp đại học, sau đại học loại giỏi, xuất sắc ở nước ngoài; người có trình độ đào tạo từ đại học trở lên, có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng từ 05 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng (Điều 19). Sự cần thiết của chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan hành chính hiện nay 13 Bất cứ bộ máy nhà nước trong chế độ nào cũng cần có chính sách TDCC nhằm lựa chọn đội ngũ công chức có phẩm chất đạo đức, tinh thông nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của hoạt động công vụ Nhà nước. Nếu không lựa chọn, trọng dụng nhân tài, sử dụng người có tài đức vào bộ máy nhà nước thì hiệu lực, hiệu quả của Bộ máy đó sẽ bị hạn chế. Là một trong ba yếu tố cấu thành của nền hành chính (thể chế; tổ chức, bộ máy; công chức hành chính) thì công chức là yếu tố quyết định. Vai trò của công chức trong mối quan hệ với các yếu tố khác trong nền hành chính thì công chức là nhân tố tham gia xây dựng, đề xuất chính sách, đồng thời là chủ thể triển khai, thực hiện chính sách, pháp luật, là cơ sở bảo đảm sự thành bại của các quyết định quản lý. Chính sách tuyển dụng khoa học, tiên tiến, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính, ngược lại, sẽ kìm hãm bộ máy hành chính và vô hiệu hóa tài năng, sự sáng tạo của đội ngũ công chức. Chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan HCNN ở Trung ương bao gồm các bước, quy trình và nội dung tuyển chọn những người vào làm việc trong các cơ quan hành chính để thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn trên các lĩnh vực khác nhau như: văn hóa, kinh tế, xã hội…tương ứng với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này. Chính sách TDCC đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện nước ta muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới và khu vực đòi hỏi phải tuyển dụng công chức giỏi nghiệp vụ, thành thạo về kỹ năng trong quá trình hội nhập, đặc biệt khi Việt Nam tham gia đầu tư và đón nhận đầu tư trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội cũng như ký kết các điều ước quốc tế. Một đội ngũ công chức được tuyển chọn tinh thông, am hiểu pháp luật quốc tế, kỹ năng quản trị quốc gia cũng như thông thạo ngoại ngữ và các thông lệ quốc tế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại trong quá trình hội nhập. Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của chính sách tuyển dụng công chức trong các cơ quan HCNN; Đảng và Nhà nước đã quan tâm xây dựng, ban hành 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan